Luận văn Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam

pdf 96 trang vuhoa 25/08/2022 9983
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_toi_giet_nguoi_trong_trang_thai_tinh_than_bi_kich_d.pdf

Nội dung text: Luận văn Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ VIỆT DŨNG Téi giÕt ng•êi trong tr¹ng th¸i tinh thÇn bÞ kÝch ®éng m¹nh theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ VIỆT DŨNG Téi giÕt ng•êi trong tr¹ng th¸i tinh thÇn bÞ kÝch ®éng m¹nh theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ TRUNG KIÊN HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét cho tôi bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đỗ Việt Dũng
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 8 1.1.1. Khái niệm 8 1.1.2. Đặc điểm của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 10 1.2. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với một số tội khác 18 1.2.1. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội giết người 18 1.2.2. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 24 1.2.3. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 26 1.3. Hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự một số nước trên thế giới 27 1.3.1. Hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Liên bang Nga 27 1.3.2. Hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức 29
  5. 1.3.3. Hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung hoa 30 1.3.4. Hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Thụy Điển 30 CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 32 2.1. Quy định của luật hình sự Việt Nam về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 32 2.1.1. Quy định của luật hình sự Việt Nam trước năm 2015 32 2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 43 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 44 2.3. Nhận xét đánh giá 49 2.3.1. Những ưu điểm 49 2.3.2. Những hạn chế thiếu sót và nguyên nhân 50 CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH 59 3.1. Những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 59 3.2. Nhóm giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật 65 3.3. Nhóm giải pháp khác 71 3.3.1. Nhóm giải pháp về tuyên truyền, phổ biến pháp luật 71 3.3.2. Những giải pháp về hoạt động quản lý trật tự xã hội 77 3.3.3. Giải pháp trong công tác quản lí, thanh tra, giám sát 80 KẾT LUẬN 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85 PHỤ LỤC 88
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Toàn án nhân dân tối cao TNHS: Trách nhiệm hình sự
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1 Thống kê tình hình tội phạm nước ta từ 01/2015 – 06/ 2018 88 Bảng 2.2 Tình hình tội phạm giết người ở nước ta từ 01/ 2015 – 06/ 2018 88 Bảng 2.3 Thống kê số vụ giết người và số vụ phạm pháp hình sự nói chung trong giai đoạn từ 01/ 2015 – 06/2018 89 Bảng 2.4 Thống kê tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh với tội phạm giết người từ 01/ 2015 – 06/ 2018 89 Bảng 2.5 Thống kê sự gia tăng của tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh từ 01/ 2015 – 06/ 2018 89 Biểu đồ 2.1 Cơ cấu tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh với tội phạm giết người 45
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và tự do của họ, vì đó là điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Trong các khách thể nói trên tính mạng của con người là một trong những khách thể quan trọng nhất, vì lẽ đó không chỉ pháp luật của các quốc gia mà pháp luật quốc tế đều coi quyền sống con người là thiêng liêng không ai được xâm phạm. Luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay đều xác định hành vi xâm phạm tính mạng con người là hành vi có tính nguy hiểm rất cao và quy định những khung hình phạt rất nghiêm khắc. Pháp luật hình sự Việt Nam qua cả hai lần pháp điển hóa đều ghi nhận việc thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Tại Bộ luật hình sự 1999 tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được ghi nhận tại Điều 95 và Điều 105 còn ở Bộ luật hình sự năm 2015 được quy định tại điều 125 và điều 134. Bộ luật hình sự 2015 so với Bộ luật hình sự 1999 có một số thay đổi nhưng bản chất của các tội phạm này liên quan đến việc thực hiện việc phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên ở cả hai bộ luật tại phần chung vẫn chưa ghi nhận khái niệm pháp lý thế nào là thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, các dấu hiệu của chúng để phân biệt với việc thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc của người khác gây ra tại khoản 1 Điều 51. Do vậy, nghiên cứu để hoàn thiện là một việc cần thiết. Việc áp dụng pháp luật liên quan đến vấn đề này trên thực tế không dễ dàng. Phân biệt trường 1
  9. hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc do người khác gây ra (khoản 1 Điều 51) và với trường hợp phạm tội vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng đòi hỏi phải có sự quy định rõ ràng, cụ thể về các vấn đề pháp lý trên. Không phân biệt rõ ràng cũng như không hiểu rõ bản chất của việc thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh sẽ gây ra nhiều vướng mắc, lúng túng và áp dụng không thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự trong hoạt động xét xử của Tòa án, từ đó ảnh hưởng đến việc xử lý tội phạm công minh, đúng người, đúng tội. Tiếp tục nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn, pháp lý quan trọng. Tuy tội phạm này được thực hiện trong hoàn cảnh khả năng nhận thức và kiềm chế hành vi của người phạm tội bị hạn chế và chính nạn nhân cũng là người có lỗi nhưng vì tội phạm đã xâm hại đến khách thể quan trọng được luật hình sự bảo vệ đó là tính mạng con người mà nguyên nhân xuất phát từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân dẫn đến hành vi giết người của người phạm tội. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, phân tích rõ những dấu hiệu pháp lý, phát hiện, đồng thời đề xuất các kiến nghị giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn có liên quan đến tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh luôn luôn là vấn đề cần thiết và có nhiều ý nghĩa. Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài: “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. 2
  10. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vừa là dấu hiệu định tội vừa là hình thức hoạt động thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội. Do đó, ở trong và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, những phương diện khác nhau về vấn đề này. Ở cấp độ luận văn thạc sỹ có các đề tài của các tác giả Đoàn Văn Lâm “Các tội xâm phạm tính mạng con người trong luật hình sự Việt Nam (cơ sở đào tạo Hà Nội, 2013). Ở cấp độ luận án tiến sĩ có các đề tài của các nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hồng Hà “Tội giết người trong Bộ luật hình sự Việt Nam” (luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội, năm 2007. Tiến sĩ Trần Văn Luyện (2000) “Các tội xâm phạm tính mạng con người trong luật hình sự Việt Nam” Nxb chính trị quốc gia. Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Lê Cảm (chủ biên 2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (tái bản lần thứ nhất – 2003); Ngoài ra, nghiên cứu về tội phạm này còn được thể hiện trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam của một số cơ sở đào tạo luật như Khoa Luật – ĐHQGHN, Đại học Luật Hà Nội, Học viện Cảnh sát nhân dân và các cuốn bình luận khoa học Luật hình sự Việt Nam của một số tác giả: Bình luận khoa học BLHS năm 2015 – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Bình luận những điểm mới của Bộ luật hình sự (hiện hành) (sửa đổi bổ sung năm 2017) do Nguyễn Văn Thuyết (chủ biên) Nxb Chính trị quốc gia sự thật (năm 2018). Trên cơ sở khảo sát cho thấy ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về tội giết người thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng chưa được xem xét riêng với tư cách là một dấu hiệu định tội mà chỉ tập trung phân tích các cấu thành tội phạm cũng như hình 3
  11. phạt áp dụng hoặc nghiên cứu chúng trong hệ thống các tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe. Các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở khái niệm mà chưa đi sâu nghiên cứu các dấu hiệu nhận biết thực hiện tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật Hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như quy định của pháp luật về tội thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định đó, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tế. Từ mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Từ cơ sở tổng hợp quan điểm của các tác giả trong và ngoài nước về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh luận văn tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện lý luận về một số vấn đề như: Khái niệm; Các dấu hiệu nhận biết trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội giết người, với tội giết người vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. - Khái quát sự phát triển của việc ghi nhận thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong lịch sử lập pháp của Việt Nam từ xưa đến nay; - Nghiên cứu những quy định cụ thể về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. 4
  12. - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về thực hiện tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Đồng thời làm rõ những hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của nó; - Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong BLHS Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nội dung nghiên cứu của đề tài này tập chung vào các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (có phân tích, so sánh với một số tội phạm có liên quan đến tội giết người trọng trạng thái tinh thần bị kích động mạnh). Nghiên cứu thực tiễn trên phạm vi toàn quốc từ tháng 1- 2015 đến tháng 6- 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước về cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và đấu tranh phòng chống tội phạm. Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu đa dạng, như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh Mỗi phương pháp được sử dụng phù hợp với từng nội dung và giải quyết được các vấn đề đặt ra trong nội dung đó. Các phương pháp nghiên cứu này đảm bảo tính khoa học cao, tính hiện đại phù hợp với tính chất, nội dung đề tài và đáng tin cậy. Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật 5
  13. lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác- xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp thể hiện trong các nghị quyết của Đại hội Đảng. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê; phương pháp xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. 6. Điểm mới của luận văn Luận văn là công trình đi sâu vào nghiên cứu phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống những vấn đề lý luận thực tiễn về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Đưa ra được khái niệm tương đối đầy đủ về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Khái quát phân tích một cách có hệ thống các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội này, dấu hiệu cơ bản để phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với các tội khác có liên quan đến tính mạng con người. Khảo sát thực tiễn về tình hình phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đưa ra nhận xét đánh giá khách quan chính xác và đề ra những giải pháp thiết thực được tích lũy từ thực tiễn để giảm thiểu số lượng của tội phạm này. 7. Ý nghĩa của luận văn Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam, đặc biệt với chuyên ngành tư pháp hình sự. 6
  14. Dựa trên cơ sở phân tích lý luận và tìm hiểu thực tiễn về tình hình tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, đưa ra những luận giải, những căn cứ khoa học, để từ đó đưa ra kết luận kiến nghị có ý nghĩa lý luận thực tiễn trong công tác phòng, chống tội phạm. Về thực tiễn: kết quả nghiên cứu đề tài có thể tham khảo để xây dựng đường lối, chính sách, quản lý xã hội, nhằm ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thức tỉnh đạo đức, lương tâm người phạm tội. Đề tài có thể được dùng làm tư liệu trong nghiên cứu giảng dạy và học tập. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì khóa gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Chương 2: Quy định của luật hình sự Việt Nam về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và thực tiễn áp dụng Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và bảo đảm áp dụng trong thực tiễn thi hành. 7
  15. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH 1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 1.1.1. Khái niệm Là một trường hợp đặc biệt của tội giết người được tách ra xử lý thành một tội riêng, vì vậy, để hiểu rõ khái niệm của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” thì trước hết chúng ta tìm hiểu về khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của “tội giết người”. Về khái niệm của tội giết người hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể: Theo bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người ban hành kèm theo Công văn số 452-HS2 ngày 10/08/1970 của Tòa án nhân dân tối cao thì:“Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật” [34, tr. 83]. Tuy nhiên cũng có quan điểm khác cho rằng “tội giết người là hành vi trái pháp luật của người đủ năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước bỏ quyền sống của người khác” [17, tr. 67]. Cả hai quan điểm đưa ra đều chưa hợp lý ở chỗ: Chưa đề cập đến dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và dấu hiệu độ tuổi của chủ thể “tội giết người” (quan điểm thứ nhất) hoặc chỉ đề cập đến dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự mà không đề cập đến dấu hiệu độ tuổi (quan điểm thứ hai), để khắc phục những hạn chế này, quan điểm thứ ba cho rằng: “Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định thực hiện”[7, tr. 38]. Còn theo Giáo trình Khoa Luật- Đại học Quốc gia 8
  16. Hà Nội lại định nghĩa là “hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác”. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” được quy định tại Điều 125, BLHS năm 2015 như sau: 1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm [28, tr.75]. Từ quy định tại Điều 125 BLHS cho thấy “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” đòi hỏi người phạm tội khi thực hiện hành bi phạm tội phải ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế tức thời ở mức độ cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi. Tại BLHS 1985 quy định tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là trường hợp định khung hình phạt giảm nhẹ của “tội giết người” và “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”. Trong BLHS năm 2015 các trường hợp này được tách ra thành các tội danh riêng, đó là “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” và “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” [9, tr. 248]. Theo từ điển pháp luật hình sự thì “Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế tức thời ở mức độ cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi” [9, tr. 247]. Do vậy tình tiết này có thể được quy định là tình tiết định 9
  17. khung hình phạt giảm nhẹ hoặc có thể là tình tiết định tội cho tội nhẹ hơn so với tội của trường hợp bình thường. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [28, tr. 5]. Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra định nghĩa về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau: Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác trong trạng thái người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiểm soát được bản thân do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người đó. 1.1.2. Đặc điểm của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 1.1.2.1. Khách thể của tội phạm Khách thể của Tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo hộ về tính mạng của con người. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa trực tiếp gây thiệt hại ở một chừng mực nhất định [9, tr. 246]. 10
  18. Khách thể của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là xâm phạm tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Điều 20 Hiến Pháp 2013 khẳng định quyền được sống, quyền bảo vệ tính mạng là quyền cơ bản của công dân Việt Nam. Bất kỳ ai cũng được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Không ai có quyền tước đi mạng sống của người khác trong bất kỳ hình thức nào. Sự sống của con người “bắt đầu từ khi đứa trẻ được sinh ra khỏi cơ thể người mẹ và tồn tại độc lập trong thế giới khách quan, với tư cách là một thực thể tự nhiên và xã hội” [6, tr. 17]. Trong số các quyền nhân thân, quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo hộ về tính mạng của con người là quyền tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất, không một quyền nào có thể so sánh được. Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Khi quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người bị xâm phạm thì mục tiêu phấn đấu của loài người sẽ trở nên vô nghĩa; động lực phát triển của xã hội sẽ bị triệt tiêu. Thêm vào đó, con người còn là chủ thể của quan hệ xã hội. Nếu quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người bị xâm phạm thì các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Chính vì những lý do trên mà mục tiêu bảo vệ quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người luôn được đặt lên hàng đầu đối với mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi thời kỳ và mọi chế độ. Cũng vì ý nghĩa đặc biệt quan trọng của quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo hộ về tính mạng của con người mà trong các BLHS từ năm 1985 đến nay, ngay sau các tội xâm phạm an ninh quốc gia, nhà làm luật đều đã quy định. Điều này càng khẳng định, quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người thật sự thiêng liêng, cao quý, cần được bảo vệ một cách tuyệt đối. Bất cứ ai xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người đều phải bị trừng trị nghiêm khắc. Hiện nay chưa có quy định cụ thể về người thân thích đây cũng là một trong số 11
  19. nhưng băn khoăn của tác giả về việc hoàn thiện pháp luật của tội này, tác giả có đưa ra ý kiến giải thích đóng góp về vấn đề này ở phần sau. 1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm tác động, gây thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ [9, tr. 582]. Cũng giống như các tội phạm khác khi được thực hiện đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại ra bên ngoài thế giới khách quan mà con người có thể nhận biết được. “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” cũng có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại ở ngoài thế giới khách quan, đó là: - Hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác; - Hậu quả chết người; - Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác và hậu quả chết người. Ngoài ra còn có các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội Những dấu hiệu này không được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng việc xác định nó có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ở BLHS nước ta hiện nay chưa có quy định cụ thể về hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, gây khó khăn trong việc định tội danh, về vấn đề này tác giả có ý kiến đề xuất ở mục hoàn thiện pháp luật. Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của con người gây ra hoặc đe doạ gây ra cho xã hội, hành vi phạm tội chỉ có thể được biểu hiện qua hai hình thức đó là hành động hoặc không hành động. Hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình 12
  20. thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Không hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. Hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của con người. Hành vi đó có thể được thực hiện bằng những cách thức khác nhau như bắn, đâm, chém Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được coi là hành vi khách quan của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Đặc điểm này vừa phản ánh tính nguy hiểm của hành vi phạm tội đồng thời cũng là đặc điểm cho phép chúng ta phân biệt tội này với các tội khác mà trước hết là tội giết người. Hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, đó là hậu quả chết người, cụ thể là nạn nhân phải chết thì người thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân mới bị coi là phạm tội này. Theo đó, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ được coi là hoàn thành khi có hậu quả chết người xảy ra. Nếu nạn nhân không chết mà chỉ bị thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe mà thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”.Tội giết 13
  21. người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội, vì trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ có khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó, sự kích động đó phải có tính đột xuất, nó đến rất nhanh và cũng qua đi rất nhanh. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tội phạm có cấu thành vật chất nên hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Một người chỉ phải chịu TNHS về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” nếu giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người đó có mối quan hệ nhân quả với nhau. Hành vi giết người phải xảy ra tức thời, ngay lúc có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Bởi vì: “Nếu giữa lỗi của nạn nhân và hành động của bị cáo có một khoảng thời gian nhất định thì không thể nói bị cáo đang ở trong tình trạng đột xuất bị kích động tinh thần mạnh mẽ đến nỗi họ không tự chủ được mình nữa”. Như vậy, để xác định người phạm tội có ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay không chúng ta cần xem xét giữa hành vi giết người và hậu quả chết người có mối quan hệ nhân quả hay không. Nếu giữa chúng không có mối quan hệ nhân quả thì bị cáo không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà phạm một tội khác. 1.1.2.3. Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm là con người có đủ điều kiện để có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người có đủ điều kiện để có lỗi, để trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự - năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội. Để có được năng lực này con người 14
  22. phải đạt độ tuổi nhất định. Do vậy, độ tuổi cũng là điều kiện của chủ thể của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Một người được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thoả mãn hai dấu hiệu: Dấu hiệu y học, mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động thần kinh và dấu hiệu tâm lý, mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi. Người mắc bệnh trong trường hợp này: 1) Hoặc không còn năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội, không còn năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện đúng hay sai, được làm hay không được làm Vì vậy, họ cũng không còn năng lực kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội; 2) hoặc tuy có năng lực nhận thức và năng lực đánh giá tính chất xã hội của hành vi nguy hiểm, nhưng do các xung động bệnh lý khiến họ không thể kiềm chế được hành vi của mình. Quy định trên cho thấy, người nào tuy mắc bệnh tâm thần, nhưng không mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì không được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. 1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm Là biểu hiện của trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra [9, tr. 582]. Trong dấu hiệu pháp lý thì mặt chủ quan là dấu hiệu quan trọng nhất. Những dấu hiệu của mặt chủ quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh bao gồm: Dấu hiệu lỗi, dấu hiệu động cơ, dấu hiệu mục đích. Tinh thần bị kích động trong y học là gì? Thuật ngữ này đề cập đến trạng thái phấn khích của một cá nhân, kèm theo lo lắng vận động, sợ hãi và 15