Luận văn Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi từ thực tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi từ thực tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_toi_giao_cau_hoac_thuc_hien_hanh_vi_quan_he_tinh_du.pdf
Nội dung text: Luận văn Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi từ thực tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ QUYÊN TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ QUYÊN TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH Hà Nội, năm 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu, thông tin trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn là kết quả quá trình tìm tòi nghiên cứu! Tác giả luận văn Trần Thị Quyên
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI 7 1.1. Những vấn đề lý luận về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 7 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 22 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI TẠI QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 30 2.1. Tổng quan tình hình áp dụng qui định của pháp luật hình sự trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành tình dục vi khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh 30 2.2. Thực trạng và kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh 35 2.3. Những hạn chế, sai sót trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và nguyên nhân 44 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI 55
- 3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng qui định của pháp luật hình sự về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 55 3.2. Giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 60 KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS :Bộ luật hình sự BLTTHS :Bộ luật tố tụng hình sự CTTP :Cấu thành tội phạm ĐTD :Định tội danh GS. TS :Giáo sư Tiến sĩ QĐHP :Quyết định hình phạt TNHS :Trách nhiệm hình sự TAND :Tòa án nhân dân TANDTC :Tòa án nhân dân tối cao VKSNDTC :Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Tỷ lệ án xâm hại tình dục trẻ em đã khởi tố, điều tra, truy tố từ năm 2016-2020 31 Bảng 2.2: Tỷ lệ số vụ án bị xét xử về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi so với tổng các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em 33 Bảng 2.3: Tỷ lệ số vụ án và bị can bị xét xử so với số vụ án và bị can bị khởi tố, điều tra, truy tố về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16. 33 Bảng 2.4: Số liệu các bị cáo đã bị xét xử về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo khung hình phạt từ năm 2016-2020 34 Bảng 2.5: Bảng tỷ lệ các bị cáo bị xét xử áp dụng hình phạt qui định tại Khoản 1 và Khoản 2 của Điều 115 BLHS năm 1999, Điều 145 BLHS năm 2015 43
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em là thế hệ kế thừa, xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính vì thế, bảo vệ trẻ em luôn luôn là trách nhiệm hàng đầu của toàn xã hội. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ trẻ em. Điều này được thể hiện rõ tại Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp năm 2013 với nội dung: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được tham gia vào các vấn đề bảo vệ về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bó lột sức lao động và những hành vi khác xâm phạm quyền trẻ em”[30, tr. 22]. Ngoài ra, trong hệ thống pháp luật Hình sự nước ta từ trước đến nay luôn coi trẻ em là khách thể cần được bảo vệ đặc biệt. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình trẻ em bị lạm dụng tình dục xảy ra ngày càng nhiều và diễn biến rất phức tạp, nhất là hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tử đủ 13 đến dưới 16 tuổi. Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc điều tra, truy tố, xét xử hành vi này, BLHS hiện hành đã qui định hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tử đủ 13 đến dưới 16 tuổi là tội phạm và qui định hình phạt đối với tội này tại Điều 145. Tuy nhiên, qua 03 năm áp dụng BLHS năm 2015 cho thấy, qui định của Điều 145 về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tử đủ 13 đến dưới 16 đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế gây khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Trong thực tiễn, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự của Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng, đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế mức thấp nhất của quyết định, bản án bị sửa, bị hủy do lỗi chủ quan. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn có một số trường hợp việc áp dụng pháp luật hình sự giải quyết vụ án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tử đủ 13 đến dưới 16 tuổi chưa thật sự chính xác, việc 1
- định tội danh cũng như quyết định hình phạt đối với tội phạm này còn những sai sót nhất định cần khắc phục. Trước thực trạng nêu trên, việc nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện, có hệ thống những vẫn đề lý luận qui định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng để giải quyết vụ án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tử đủ 13 đến dưới 16 tuổi trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh là vấn đề cấp bách nhằm tìm ra giải pháp hữu hiệu nhất để đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Xuất phát từ nhận thức trên, tác giả chọn đề tài “Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận 9, thành phố Hồ Chí Minh” để làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện nay, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu trên các phương diện, góc độ khác nhau, do vậy đề cập đến vấn đề này có: Các giáo trình, sách chuyên khảo của: TS. Phạm Mạnh Hùng - TS. Lại Viết Quang (đồng chủ biên) (2018), Giáo trình Luật hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; GS. TS Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2008), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - phần Các tội phạm, Tập 1, Nxb thành phố Hồ Chí Minh; GS. TSKH Lê Cảm và TS. GVC Trịnh Quốc Toản, Sách 500 bài tập Định tội danh (2012), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Các công trình luận văn có: Hồ Thị Nhung (2014), “các tội xâm phạm tình dục trẻ em - Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và nghiên cứu so sánh với một số nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Tuấn Thiện (2015), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam, từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Khoa Luật - Đại 2
- học Quốc gia Hà Nội; Võ Văn Lập (2017), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội; Lê Thị Mỹ Ly (2018), Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội; Phạm Vũ Minh Trang (2020), Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội; Hà Quang Minh (2018), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học khác như: Phạm Vũ Minh Trang (2019), Một số ý kiến về xử lý hành vi gây rối tình dục, Tạp chí kiểm sát, (số 18); Phạm Vũ Minh Trang (2020), Về các tội xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi, Tạp chí kiểm sát, (số 11); Phạm Minh Tuyên (2019), Một số vấn đề hành vi gây rối tình dục và xâm phạm tình dục trẻ em ở Việt Nam, Tạp chí khoa học Kiểm sát, (số 01) Tuy nhiên, tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh chưa có đề tài nào nghiên cứu về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tử đủ 13 đến dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam (BLHS năm 2015). Do vậy, nội dung đề tài này không trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã được công bố ở cấp độ luận văn Thạc sĩ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn định tội danh, quyết định hình phạt về Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn hướng tới mục đích đưa ra các giải pháp để đảm bảo áp dụng đúng qui định pháp luật hình sự 3
- về loại tội phạm này. Qua đó, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích, luận giải những vấn đề lý luận và qui định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, phân biệt tội này với các tội xâm phạm tình dục trẻ em khác. - Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tử đủ 13 đến dưới 16 tuổi trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó rút ra những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong thực tiễn. - Đưa ra các yêu cầu và các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng qui định pháp luật về “Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tử đủ 13 đến dưới 16 tuổi” trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Từ mục đích nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận văn lấy những quan điểm khoa học, qui định của pháp luật hình sự và thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh làm đối tượng nghiên cứu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung, đề tài được thực hiện trong phạm vi chuyên ngành Luật hình sự, trong đó tập trung nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. - Về thời gian, các số liệu và các bản án thực tế được thu thập trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020. 4
- - Về không gian, tại địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm. - Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp của khoa học luật hình sự, thống kê, khoa học lịch sử, so sánh kết hợp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp chuyên gia được tác giả sử dụng nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn không chỉ góp phần nâng cao nhận thức lý luận về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, mà còn góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận chuyên ngành Luật hình sự về tội phạm này. - Về mặt thực tiễn: + Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được tham khảo để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện những qui định của pháp luật hình sự trong giải quyết xử lý các nhóm tội về xâm hại tình dục ở trẻ em mà cụ thể là làm sáng tỏ và đấu tranh phòng chống “Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tử đủ 13 đến dưới 16 tuổi” theo Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015. + Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với những người làm công tác thực tiễn của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nói chung và của Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành luật hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, luận văn bao gồm 3 chương: 5
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. Chương 2: Thực trạng áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI 1.1. Những vấn đề lý luận về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi 1.1.1.1. Khái niệm về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi Trong khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm là khái niệm trung tâm, cơ bản, đóng vai trò là cơ sở để xây dựng khái niệm về tội phạm cụ thể, cũng như các khái niệm khác có liên quan. Khái niệm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là một trong những khái niệm về một tội phạm cụ thể, do vậy phải được xây dựng trên cơ sở khái niệm tội phạm qui định tại Điều 8 BLHS hiện hành. Tuy nhiên, đây là một tội phạm cụ thể, có những đặc điểm đặc trưng riêng, do vậy khái niệm về tội phạm này phải phản ánh được những đặc điểm này mà luật định. Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi như sau: “Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là hành vi của người từ đủ 18 tuổi trở lên mà cố ý giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trên cơ sở thuận tình của người này, xâm phạm danh dự, nhân phẩm và sự phát triển lành mạnh của họ được pháp luật hình sự bảo vệ” 7
- 1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi * Những dấu hiệu định tội - Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội (chính xác hơn là lợi ích thể chất, vật chất và tinh thần) được pháp luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi thì khách thể của tội phạm này là danh dự, nhân phẩm và sự phát triển lành mạnh của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. Đối tượng tác động của tội phạm là yếu tố không thể thiếu khi nghiên cứu về khách thể của tội phạm. Đó chính là bộ phận khách thể của tội phạm bị hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại cho những quan hệ xã họi được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, dấu hiệu bắt buộc đối với nạn nhân của tội phạm là trẻ em ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, nếu từ đủ 16 tuổi trở lên mà thuận tình giao cấu với người đã thành niên thì hành vi của người thực hiện hành vi giao cấu không cấu thành tội phạm này vì đối tượng tác động (nạn nhân) ở đây không phải là trẻ em ở độ tuổi mà luật định. Trong trường hợp, nếu trẻ em là người dưới 13 tuổi mà thuận tình giao cấu với người đã thành niên thì người thực hiện hành vi giao cấu trong mọi trường hợp này bị xử lý về tội hiếp dâm trẻ em không kể có sự thuận tình hay không thuận tình của nạn nhân. - Mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của hành vi diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Không phải tất cả các biểu hiện của mặt khách quan của tội phạm đều được phản ánh trong cấu thành cơ bản của tội phạm, mà chỉ có dấu hiệu hành 8
- vi khách quan nguy hiểm cho xã hội mới được phản ánh trong cấu thành tội phạm là dấu hiệu bắt buộc của mọi tội phạm. Đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hành vi khách quan của tội phạm là hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trên cơ sở có sự thuận tình của nạn nhân. Như vậy, đối với tội phạm này, giao cấu được BLHS hiện hành qui định là hành vi bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm. Vậy, hiểu như thế nào là “giao cấu” với tính chất là hành vi khách quan của tội phạm. Trên thực tế hiện nay, có nhiều quan điểm về giao cấu như: “Giao cấu là giao tiếp bộ phận sinh dục ngoài của giống đực với bộ phận sinh dục của giống cái ở động vật” [24, Tr.551] nhưng có quan điểm cho rằng: “Giao cấu là sự cọ xát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không thì coi tội hiếp dâm đã hoàn thành bởi vì danh sự và nhân phẩm của người phụ nữ đã bị chà đạp” [44, tr.394] Theo quan điểm của Tiến sĩ Đỗ Văn Đương, nguyên phó Viện trưởng Viện khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cho rằng: “Hành vi giao cấu không chỉ hiểu là giữa nam với nữ, mà diễn ra cả người đồng giới ”. Như vậy, theo cách hiểu này thì việc giao cấu diễn ra không chỉ là giữa người nam với người nữ theo cách hiểu truyền thống mà có cả những người nam với người nam và cả những người nữ với người nữ. Hành vi khách quan của tội phạm này, ngoài hành vi giao cấu còn có hành vi quan hệ tình dục khác. Vậy, hiểu những hành vi này như thế nào để giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự, nhất là định tội danh. Tại Điều 145 không mô tả cụ thể hành vi giao cấu cũng như hành vi quan hệ tình dục khác. Để thống nhất trong việc giải quyết các vụ án đối với loại tội phạm này, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 9
- 06/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 về việc hướng dẫn áp dụng quy định từ Điều 141 đến Điều 147 BLHS và việc xét xử các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi thì giao cấu và hành vi quan hệ tình dục khác được giải thích, hướng dẫn tại Điều 3 như sau: “1. Giao cấu quy định tại khoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào 2. Hành vi quan hệ tình dục khác quy định tại khoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi ), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây: a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác; b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi ), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.” [46, tr.2] Mặt khác, theo qui định tại Điều 145 BLHS thì hành vi giao cấu cũng như hành vi quan hệ tình dục khác giữa người đủ 18 tuổi với người đủ 13 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi được thực hiện trên cơ sở “thuận tình”, đồng thuận giữa hai bên. Do vậy, điều luật không qui định thủ đoạn thực hiện những hành vi này như ở tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142). Tuy nhiên, thông qua việc qui định độ tuổi của người phạm tội và độ tuổi của nạn nhân cho thấy, người phạm tội đã lợi dụng sự non nớt, nhẹ dạ của nạn nhân làm cho họ ‘thuận tình” thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi 10
- quan hệ tình dục khác với mình. Dấu hiệu “thuận tình”, là dấu hiệu để phân biệt tội phạm này với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142) và tội cưỡng dâm người dưới 16 tuổi (Điều 144). Để tránh nhầm lẫn khi áp dụng pháp luật, Khoản 1 Điều 145 đã qui định dấu hiệu: “ nếu không thuộc trường hợp qui định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này”. - Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng của một người ở thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện và điều khiển có ý thức hành vi đó Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng kìm chế hành vi đó để lựa chọn thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định một người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể có lỗi và mới có thể là chủ thể của tội phạm khi đã đạt độ tuổi luật định (tuổi chịu trách nhiệm hình sự). Về tuổi chịu TNHS, theo qui định tại Điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thì hầu hết người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng được qui định tại một trong các điều (28 điều) của BLHS (Khoản 2 Điều 12). Tuy nhiên, theo qui định tại Điều 145 thì chỉ: “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác ”. Như vậy, chủ thể của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể đặc biệt, theo đó người phạm 11
- tội phải là đủ 18 tuổi trở lên (người đã thành niên), có năng lực TNHS và họ phải nhận thức rõ được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện, mặc dù có được sự thuận tình của nạn nhân. Đây là là một trong những dấu hiệu để phân biệt tội phạm này với một số tội xâm phạm tình dục trẻ em khác. Ngoài ra, do điều luật không quy định người phạm tội là nam hay nữ nên có thể hiểu là chủ thể của tội danh này có thể là nam hoặc có thể là nữ. - Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong bao gồm những biểu hiện phản ánh trạng thái tâm lý, ý thức của người phạm tội đối với các tình tiết khách quan của tội phạm. Những biểu hiện này bao gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, trong đó, lỗi luôn là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan của mọi loại tội phạm nói chung. Tuy nhiên, đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi về mặt chủ quan thì động cơ và mục đích phạm tội không phải dấu hiệu bắt buộc. Do BLHS không quy định người phạm tội phải biết rõ người bị hại là trẻ em hay không nên trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau trong việc áp dụng pháp luật đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trong một số trường hợp như: Trường hợp thứ nhất: người phạm tội biết người bị hại là trẻ em trong độ tuổi từ 13 đến 16 tuổi thì họ phải chịu TNHS. Trường hợp thứ hai: người phạm tội khi thực hiện hành vi không quan tâm đến người bị hại là trẻ trong độ tuổi 13 đến dưới 16 tuổi hay không nhưng nạn nhân là trẻ em nằm trong độ tuổi này thì họ vẫn phải chịu TNHS. Với hai trường hợp này thì dễ dàng xác định lỗi cố ý của người phạm tội. Trường hợp thứ 3: người phạm tội có ý thức chủ quan rằng người bị hại là trẻ em trong độ tuổi từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nhưng trên thực tế nạn nhân không phải là trẻ em nằm trong độ tuổi này thì người phạm tội có phải chịu 12
- TNHS hay không thì trên thực tế có những quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng người phạm tội phải chịu TNHS vì người phạm tội mong muốn và đã có hành vi giao cấu với người mà họ cho là trẻ em nằm trong độ tuổi từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, việc người bị hại không nằm trong độ tuổi này là ngoài mong muốn của họ. Nếu không xử lý thì sẽ bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng nếu nếu truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội trong trườnghợp này là đi ngược lại lý luận về cấu thành tội phạm trong khoa học hình sự bởi hành vi của họ không gây ra nguy hiểm cho xã hội, không xâm phạm đến khách thể cần được bảo vệ được quy định trong BLHS. Đây là trường hợp sai lầm về khách thể tức là người phạm tội có hành vi nhằm xâm hại khách thể nhất định được luật hình sự bảo vệ nhưng không xâm hại được vì đã tác động nhầm vào đối tượng không thuộc khách thể đó. Do đó, trong trường hợp này, cần có sự thống nhất về quan điểm lý luận và hướng dẫn cụ thể để các cơ quan tiến hành tố tụng không bị lúng túng khi xử lý vụ việc trên thực tế. Trường hợp thứ 4: người phạm tội có ý thức chủ quan là người bị hại không phải là trẻ em trong độ tuổi từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nhưng trên thực tế nạn nhân nằm trong độ tuổi này thì có phải chịu TNHS hay không cũng có những quan điểm khác nhau. Có ý kiến cho rằng người thực hiện hành vi phạm tội trong trường hợp này phải chịu TNHS vì họ đã xâm phạm đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng người thực hiện hành vi trong trường hợp này hoàn toàn không có lỗi nên không phải chịu TNHS. Theo tác giả, người thực hiện hành vi trong trường hợp này không phải chịu TNHS vì đối với tội giao cấu với trẻ em trong độ tuổi từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, người phạm tội phải biết người người mà mình giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác từ đủ 13 tuổi đến 16 tuổi nhưng vẫn thực hiện hành vi giao cấu. Nếu 13
- người phạm tội không biết và không thể biết hay nói cách khác là có sự nhầm tưởng về tuổi thì không không cấu thành tội này. Với ý nghĩa là một thể thống nhất của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm không tồn tại độc lập mà còn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Trong cấu thành tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 145 BLHS năm 2015 thì lỗi là nội dung bắt buộc. “Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý” [48, tr.201]. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Lỗi của người phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ ràng hành vi giao cấu của mình, dù đủ điều kiện để lựa chọn thực hiện hành vi phù hợp với đòi hỏi của xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi có cấu thành hình thức nên lỗi của người tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp và việc xác định lỗi ở đây không phụ thuộc vào đặc điểm hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Người thực hiện hành vi với lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp). Người phạm tội biết hoặc có thể biết (nhưng để mặc) nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mà vẫn giao cấu với nạn nhân. Theo nguyên tắc, trẻ em nói tại Điều này là một dấu hiệu khách quan. Việc người phạm tội có nhận thức được hay không việc nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không có ý nghĩa định tội. Tuy nhiên, thực tế chỉ xem xét người phạm tội này khi về về chủ quan, người phạm tội phải biết nạn nhân là trẻ em trong độ tuổi từ 13 14
- tuổi đến dưới 16 tuổi. Nếu người phạm tội không biết hoặc không có cơ sở để buộc người phạm tội phải biết nạn nhân là trẻ em trong độ tuổi từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không coi tội phạm. * Những dấu hiệu định khung hình phạt : Ngoài những dấu hiệu định tội được mô tả trong cấu thành cơ bản của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi qui định tại Khoản 1, phản ánh đúng tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, Khoản 2 và Khoản 3 của Điều 145 còn qui định các dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng, nghĩa là những dấu hiệu làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội lên một cách đáng kể so với trường hợp thường. Cụ thể là: - Khoản 2 Điều 145 qui định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm đối với những trường hợp có những dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng sau: + Phạm tội 02 lần trở lên: Đây là trường hợp người phạm tội đủ 18 tuổi trở lên thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tử đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi từ hai lần trở lên nhưng các lần đó phải có sự cách biệt về mặt thời gian nhất định. + Phạm tội với 02 người trở lên: được hiểu là người phạm tội đã thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với từ 02 người trở lên và tất cả những nạn nhân này đều trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. + Có tính chất loạn luân: được hiểu người thục hiện hành vi phạm tội và nạn có cùng dòng máu trực hệ như: giữa ông bà, cha mẹ với con, cháu; giữa anh chị em với nhau + Làm nạn nhân có thai: trường hợp này cũng tương tự trường hợp làm nạn nhân có thai trong các trường hợp đối với tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm, chỉ khác ở chỗ trong trường hợp phạm tội này nạn nhân đã đồng tình để người 15