Luận văn Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_toi_gay_o_nhiem_moi_truong_trong_luat_hinh_su_viet.pdf
Nội dung text: Luận văn Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÙNG TRUNG THẮNG TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN NGỌC ANH HÀ NỘI - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phùng Trung Thắng
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG 8 1.1. Cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Việt Nam 8 1.1.1. Cơ sở lý luận của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự Việt Nam 8 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự 14 1.2. Khái niệm ô nhiễm môi trường, tội gây ô nhiễm môi trường 18 1.2.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường 18 1.2.2. Khái niệm tội gây ô nhiễm môi trường 19 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường 21 1.3.1. Giai đoạn sau khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất – Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999 21 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai – Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 23
- 1.3.3. Giai đoạn từ sau khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 (Bộ luật hình sự hiện hành) đến nay 25 1.4. Quan điểm của cộng đồng quốc tế và quy định của một số nước về tội gây ô nhiễm môi trường 28 1.4.1. Quan điểm của cộng đồng quốc tế về tội gây ô nhiễm môi trường 28 1.4.2. Quy định về tội gây ô nhiễm môi trường trong pháp luật hình sự của một số nước 34 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 41 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 42 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường 42 2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự hiện hành 42 2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về hình phạt đối với tội gây ô nhiễm môi trường 56 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường 58 2.2.1. Tình hình áp dụng 58 2.2.2. Những bất cập của việc áp dụng xử lý tội gây ô nhiễm môi trường 65 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 80 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 81 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tội gây ô nhiễm môi trường 81 3.1.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường 81
- 3.1.2. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật khác bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong phòng chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường 93 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về tội gây ô nhiễm môi trường 99 3.2.1. Tăng cường công tác, phổ biến tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức của cá nhân, tổ chức, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc trong cuộc chiến chống ô nhiễm môi trường 99 3.2.2. Tích cực phối hợp trong việc phát hiện, điều tra, xác định thiệt hại xảy ra đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường 103 3.2.3. Nghiên cứu, kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường với chính sách ưu đãi hoạt động đầu tư, sản xuất và kinh doanh của địa phương, đồng thời, tăng cường kiểm tra, thanh tra và kiên quyết xử lý các cơ sở, doanh nghiệp gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường 103 3.2.4. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, đào tạo chuyên môn, bảo đảm phục vụ tốt cho việc xác minh thiệt hại 105 3.2.5. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong việc phòng chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam 107 KẾT LUẬN 109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự TNHS trách nhiệm hình sự
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tỷ lệ xử phạt vi phạm hành chính hành vi gây ô nhiễm môi trường từ năm 2009 đến 2013 59 Bảng 2.2: Tình hình khởi tố và xét xử tội gây ô nhiễm môi trường từ năm 2009 đến năm 2013 64
- DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 2.1: Thống kê số lượng các vụ việc gây ô nhiễm môi trường bị xử phạt vi phạm hành chính từ năm 2009 đến năm 2013 61 Biểu đồ 2.2: Sự phát triển của hành vi gây ô nhiễm môi trường trong tổng số các hành vi vi phạm về môi trường bị phát hiện và xử lý từ năm 2009 đến năm 2013 63
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Sau gần ba mươi năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên nhiều phương diện. Đất nước đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Chúng ta đang có cả thế và lực mới để đẩy nhanh quá trình hội nhập, đồng thời, tạo đà cho sự phát triển mọi mặt của đất nước trong thiên niên kỉ mới. Tuy vậy, để hướng tới một sự phát triển bền vững khi đất nước ta đang trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đặt ra không ít những khó khăn, thách thức mà điển hình của một trong số đó là vấn đề về ô nhiễm môi trường. Hiện nay, ô nhiễm môi trường vẫn luôn là vấn đề nóng của tất cả các quốc gia trên thế giới dù cho quốc gia đó là quốc gia đã phát triển hay đang phát triển. Đối với một đất nước đang phát triển chủ yếu dựa vào quá trình khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên tự nhiên như Việt Nam thì sự tác động, ảnh hưởng của con người đối với môi trường là rất lớn. Nhận thức được tầm quan trọng sống còn của việc gìn giữ môi trường, Nhà nước ta đã áp dụng đồng thời nhiều biện pháp bảo vệ môi trường, trong đó rất chú trọng ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về môi trường. Thực hiện các văn bản quy định về xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến môi trường như xử lý tội phạm về môi trường đã đạt được một số hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đã tới mức báo động và đang trở thành vấn nạn tại nhiều địa phương trên cả nước. Tại các thành phố lớn hay ngay cả nhiều vùng nông thôn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đã và đang gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường xung quanh do không có công trình, thiết bị xử lý chất thải hoặc những thiết bị này hoạt 1
- động không hiệu quả. Nguy hiểm hơn, chính là việc các cơ sở này cố tình xả trộm trực tiếp ra môi trường xung quanh các chất thải mà không qua bất kỳ một khâu xử lý nào. Điều này sẽ tiết kiệm một khoản tiền lớn khi mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh này không phải xây dựng hoặc vận hành các hệ thống xử lý chất thải ra trong quá trình sản xuất của đơn vị mình. Nếu sự việc bị phát hiện, việc xử lý các đơn vị đó gặp rất nhiều rào cản như chính sách ưu đãi đầu tư của địa phương, quy định xử phạt vi phạm hành chính quá nhẹ.v.v không khiến cho các cá nhân, tổ chức này run tay mà tiếp tục thực hiện các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Đứng trước tình hình đó, việc các nhà làm luật tội phạm hóa các hành vi gây ô nhiễm môi trường dưới tội danh – Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 182) trong BLHS hiện hành là việc làm rất kịp thời và thể hiện sự quyết tâm thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Tuy nhiên, tính cho tới thời điểm hiện nay, chưa có một vụ án nào được đưa ra xét xử theo quy định về tội gây ô nhiễm môi trường theo BLHS hiện hành. Như vậy, có thể khẳng định: pháp luật nói chung, pháp luật hình sự quy định về tội phạm gây ô nhiễm môi trường còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho hoạt động phòng, chống tội phạm về môi trường; cần phải được tổng kết, rút kinh nghiệm để đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác, nhìn nhận từ góc độ lý luận cho thấy, vấn đề nghiên cứu lý luận về tội phạm môi trường nói chung, tội gây ô nhiễm môi trường nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Trong điều kiện đó, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất giải pháp hoàn thiện phối hợp và nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường đang được đặt ra như một nhu cầu bức xúc. Nhận thức như vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề “Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tội phạm môi trường mà tiêu biểu là một số công trình như: Lực lượng Công an nhân dân nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường của Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an năm 2007; Đề tài khoa học Tội phạm về môi trường - một số vấn đề lý luận và thực tiễn năm 2003 do tiến sĩ Phạm Văn Lợi, Phó viện trưởng viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm; luận án tiến sĩ TNHS đối với các tội phạm về môi trường năm 2011 của tác giả Dương Thanh An; luận văn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm môi trường theo Luật hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Trí Chinh năm 2010, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội.v.v Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các đề tài này mới chỉ đề cập nghiên cứu ở những góc độ nhất định về tội phạm môi trường nói chung mà chưa nghiên cứu một cách chi tiết về từng loại tội phạm môi trường. Theo những nghiên cứu như trên cho thấy, tính cho tới thời điểm hiện tại chưa có một công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về tội gây ô nhiễm môi trường ở nước ta. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về tội gây ô nhiễm môi trường; thực trạng quy định và nội dung tội gây ô nhiễm môi trường theo BLHS Việt Nam hiện hành; qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đảm bảo đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: 3
- - Tổng hợp, phân tích và làm rõ một số khía cạnh về tội gây ô nhiễm môi trường như: Khái niệm, cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường; - Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường và đưa ra một số nhận định đánh giá; - Nghiên cứu quy định về tội gây ô nhiễm môi trường của pháp luật quốc tế và tại một số nước trong khu vực và trên thế giới nhằm phân tích, đánh giá để học hỏi kinh nghiệm lập pháp; - Nghiên cứu các quy định cụ thể về tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành của Việt Nam từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội gây ô nhiễm môi trường để làm cơ sở chỉ ra những tồn tại, hạn chế qua việc áp dụng và những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế; - Tổng hợp kết quả nghiên cứu và đề xuất những phương án, giải pháp hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường trong thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là qui định về tội gây ô nhiễm môi trường tại Điều 182 chương XVII. Các tội phạm về môi trường của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS (Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009); Điều 182. Tội gây ô nhiễm không khí, Điều 183. Tội gây ô nhiễm nguồn nước và Điều 184. Tội gây ô nhiễm đất của BLHS năm 1999; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta và các tài liệu khác có liên quan đến hoạt động đấu tranh đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu về nội dung mà luận văn xác định bao gồm: 4
- khái niệm, cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS; lịch sử hình thành, quy định về tội gây ô nhiễm môi trường theo pháp luật quốc tế và tại một số nước; quy định, thực trạng áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường; nguyên nhân, hạn chế và đề xuất phương án hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường trong thực tiễn. - Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường từ năm 2010 đến nay. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh, phòng ngừa, chống tội phạm được thể hiện trong Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành luật hình sự và các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp hệ thống; phương pháp thống kê; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp điều tra xã hội học. 6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Là công trình nghiên cứu khoa học có hệ thống và tương đối toàn diện về tội gây ô nhiễm môi trường trong Luật hình sự Việt Nam nên kết quả nghiên cứu của luận văn có một số điểm mới cụ thể là: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội gây ô nhiễm môi trường được quy định trong BLHS Việt Nam hiện hành; 5
- - Chỉ ra được những vướng mắc, bất cập của các quy định hiện hành liên quan đến tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS Việt Nam hiện hành; - Tổng hợp chi tiết những nguyên nhân chính khó khăn cho việc áp dụng quy định về tội gây ô nhiễm môi trường trên thực tế của BLHS Việt Nam hiện hành; - Đưa ra được hệ thống các kiến nghị, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về Tội gây ô nhiễm môi trường của BLHS; - Với kết quả nêu trên, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học tập, công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực phòng chống tội phạm về môi trường. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận, luận văn đi sâu vào nghiên cứu những quy định về tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành để làm sáng tỏ những kiến thức cơ bản nhất cũng như chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong các quy định về loại tội phạm này, cùng quan điểm quốc tế về tội gây ô nhiễm môi trường cũng như quy định tương tự trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới sẽ giúp cho các nhà làm luật nước ta có thêm nguồn thông tin để phân tích, đánh giá và học hỏi kỹ thuật lập pháp để tiếp tục hoàn thiện quy định về tội này trong quá trình sửa đổi, bổ sung tiếp theo của BLHS. - Về mặt thực tiễn, những số liệu mà luận văn cung cấp sẽ giúp cho các nhà nghiên cứu có sự đánh giá chính xác về hiệu quả của việc áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường trong thời gian qua. Luận văn cũng chỉ ra những bất cập, nguyên nhân ảnh hưởng tới việc áp dụng của tội gây ô nhiễm môi trường. Những giải pháp, kiến nghị mà luận văn đề xuất sẽ góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội gây ô nhiễm môi trường của BLHS trên thực tế, phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng chống các loại tội phạm về môi trường trong thời gian tới. 6
- 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về tội gây ô nhiễm môi trường Chương 2. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường và thực tiễn áp dụng Chương 3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tội gây ô nhiễm môi trường và nâng cao hiệu quả áp dụng 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG 1.1. Cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Cơ sở lý luận của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự Việt Nam Trong những thập kỷ gần đây, ô nhiễm môi trường luôn là vấn đề nghiêm trọng mà nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. Các vấn đề về ô nhiễm đã khiến người dân trên khắp trái đất phải đương đầu với nhiều bệnh dịch có sức tàn phá khủng khiếp. Theo một báo cáo của Tổ chức Phát triển và Hợp tác kinh tế (OECD), tới năm 2050, ô nhiễm môi trường sẽ trở thành “kẻ sát nhân” khiến 3,6 triệu người chết mỗi năm. Bên cạnh đó, những thiệt hại do ô nhiễm môi trường đã tàn phá nặng nề nền kinh tế như các chi phí khám, chữa bệnh, tổn thất sức lao động, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy, hải sản v.v Những hội nghị quốc tế về môi trường như Hội nghị Stockholm năm 1972, Hội nghị thượng đỉnh trái đất Rio năm 1992, Tuyên bố thiên niên kỉ năm 2000, Hội nghị thượng đỉnh trái đất về phát triển bền vững năm 2002 v.v đã gióng lên những hồi chuông cảnh báo về những thảm họa do ô nhiễm môi trường gây ra. Tại Việt Nam, ngay từ giai đoạn rất sớm của quá trình phát triển đất nước theo con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc những hệ lụy của ô nhiễm môi trường và đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, dưới nhiều hình thức, vừa mang tính chiến lược nhưng cũng hết sức cụ thể để bảo vệ môi trường hiệu quả hơn, trước sự gia tăng của các hành vi gây ô nhiễm ngày càng đa dạng và phức tạp. Biện pháp đầu tiên phải kể tới, đó là sự ghi nhận tại văn bản pháp lý 8
- cao nhất của Nhà nước ta là Hiến pháp. Tại Điều 29, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ: “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường” [46, Điều 29]. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau đối với các hành vi xâm phạm tới môi trường nói chung và hành vi gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Tại BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, lần đầu tiên các nhà làm luật của nước ta đã dành hẳn một chương riêng – Chương XVII. Các tội phạm về môi trường, trong đó có 03 điều luật (Điều 182. Tội gây ô nhiễm không khí; Điều 183. Tội gây ô nhiễm nguồn nước và Điều 184. Tội gây ô nhiễm đất) là cơ sở đầu tiên cho việc quy định cho hành vi gây ô nhiễm môi trường được quy định tại Điều 182 BLHS hiện hành. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra những sản phẩm mới trên cơ sở những dạng vật chất mới, trong số đó đa phần là các chất nhân tạo, khó phân hủy khi hết hạn sử dụng hoặc sinh ra sau khi sản xuất xong sản phẩm. Mặc dù vậy, không phải sản phẩm nào cũng có thể tái chế hoặc trong quá trình sản xuất không có những sản phẩm dư thừa thải ra môi trường sống của con người gây những tác động tiêu cực đến sức khỏe, sinh hoạt, thực phẩm v.v mà không bị kiểm soát triệt để. Những hành vi thải vào không khí, nguồn nước, đất đai những chất gây ô nhiễm môi trường ngày càng diễn ra phổ biến ở nước ta tại những nơi tập chung các khu công nghiệp, khu chế xuất, làng nghề v.v đã ngày càng đặt ra yêu cầu phải có một chế tài đủ mạnh không chỉ đơn giản là xử lý vi phạm hành chính mà phải được tội phạm hóa đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường thực sự nguy hiểm cho xã hội. Trong xu hướng của chính sách hình sự nước ta, việc sử dụng vai trò của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ môi trường trước các hành vi gây ô nhiễm 9
- môi trường ngày càng được sử dụng nhiều hơn với mức độ quyết liệt hơn. Việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành được dựa trên những cơ sở lý luận sau: Thứ nhất, yêu cầu khách quan của việc tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ô nhiễm môi trường xuất phát từ tính nguy hiểm ngày càng cao của các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Tại Việt Nam, quá trình phát triển kinh tế nhằm đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện lực lượng sản xuất thấp kém, nền kinh tế thị trường chưa hoàn thiện và việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên không được kiểm soát chặt chẽ đã làm cho môi trường nông thôn bị suy thoái nghiêm trọng. Việc phát triển kinh tế đô thị cũng làm cho môi trường tại chính các đô thị này ngày càng ô nhiễm nặng nề. Những hành vi gây ô nhiễm môi trường không chỉ tập chung tại các khu công nghiệp, làng nghề hay xuất nhập khẩu mà hiện nay lan rộng sang cả lĩnh vực y tế, an toàn vệ sinh thực phẩm và bảo tồn thiên nhiên v.v Tính chất và mức độ của các hành vi gây ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, tinh vi và khó phát hiện. Ví dụ, năm 2008, Công ty Vedan bị phát hiện đã bí mật xả thải ra sông Thị Vải, trong suốt 14 năm. Đứng trước những thách thức do sự gia tăng tính nguy hiểm ngày càng cao của các hành vi gây ô nhiễm môi trường, việc đấu tranh, ngăn chặn và phòng ngừa bằng biện pháp hình sự là cần thiết. Thứ hai, biện pháp hình sự chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống các biện pháp của nhà nước để bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm. Hiện nay, các biện pháp bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm của Nhà nước bao gồm các biện pháp, cụ thể: 1) Các biện pháp mang tính chính trị, bao gồm việc xác định các phương hướng cơ bản của chiến lược bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm; 2) Các biện pháp mang tính kinh tế; 3) Các biện pháp 10
- mang tính kỹ thuật, bao gồm việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các biện pháp, giải pháp kỹ thuật và công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường; 4) Các biện pháp mang tính tổ chức, bao gồm việc xây dựng hệ thống các đơn vị quản lý, thanh tra, kiểm tra và khắc phục các sự cố về ô nhiễm môi trường; 6) Các biện pháp mang tính giáo dục, bao gồm các chương trình giáo dục về những hậu quả của ô nhiễm môi trường và những quy định của pháp luật đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường.v.v Mỗi biện pháp đều mang lại những hiệu quả nhất định, tuy nhiên, pháp luật hình sự chiếm vị trí quan trọng đặc biệt mà không ai có thể phủ nhận vai trò của nó. Với tư cách là một biện pháp bảo vệ tính ổn định, bền vững của các mối quan hệ xã hội, pháp luật hình sự đóng vai trò phòng ngừa và giáo dục trong công cuộc đấu tranh với các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Khi những biện pháp xử phạt vi phạm hành chính tỏ ra không thực sự đủ mạnh, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của các hành vi gây ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng thì các biện pháp hình sự chính là giải pháp cho vấn đề này. Bằng những chế tài nghiêm khắc nhất, biện pháp hình sự sẽ có sức ảnh hưởng lớn đối với những chủ thể có ý định thực hiện các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Những chủ thể này sẽ phải tính toán tới những hậu quả bất lợi có thể bị áp dụng nếu thực hiện hành vi đó. Chính vì vậy, những biện pháp hình sự chính là cơ sở để tăng cường công tác phòng ngừa và đấu tranh các hành vi vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường và tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc tội phạm hóa những hành vi gây ô nhiễm môi trường. Thứ ba, việc tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm gây ô nhiễm môi trường còn xuất phát từ yêu cầu của chính sách bảo vệ môi trường mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra cũng như việc bảo đảm, thực hiện các cam kết quốc tế của đất nước. Bảo vệ môi trường trước các nguy cơ ô nhiễm khi đất nước bước vào 11
- thời kỳ hội nhập từ lâu đã là một trong những chính sách ưu tiên của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện thông qua một số văn bản như Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị.v.v Đặc biệt, Hiến pháp của nước ta cũng dành những quy định quan trọng về vấn đề bảo vệ môi trường. Ví dụ, khoản 5, Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định, Chính phủ có nhiệm vụ: “Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ; bảo vệ môi trường” [46, Điều 112]; Điều 44 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” [47, Điều 44]. Với việc thừa nhận quyền được sống trong môi trường trong lành của mọi công dân, Nhà nước ta cũng khẳng định nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ môi trường khỏi các hệ lụy của những hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra đối với nhân dân, đồng thời, đây cũng chính là một trong những cơ sở cho các nhà lập pháp nước ta, tội phạm hóa các hành vi này trong pháp luật hình sự. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia một số lượng lớn các công ước, văn bản pháp lý quốc tế về bảo vệ môi trường. Tại các công ước và văn bản pháp lý quốc tế này đã yêu cầu các quốc gia ký kết quy định, áp dụng các biện pháp quyết liệt, triệt để hơn trong đó có tính đến việc sử dụng các chế tài hình sự đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực môi trường nói chung và gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Do vậy, pháp luật hình sự chính là phương tiện để thực hiện các cam kết trong các công ước và văn bản pháp lý quốc tế khác mà Việt Nam tham gia ký kết và thực hiện. Ví dụ, Nghị định thư Kyoto là một nghị định liên quan đến Chương trình khung về biến đổi khí hậu mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí 12
- thải gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo được kí kết vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba khi các bên tham gia nhóm họp tại Kyoto, và chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005. Việt Nam đã ký Nghị định thư Kyoto vào ngày 3/12/1998 và phê chuẩn vào ngày 25/9/2002. Đây chính là một trong các cơ sở để Việt Nam sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 bằng Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/06/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999. Bởi vậy, trong quá trình soạn thảo, sửa đổi bổ sung BLHS, việc nghiên cứu, áp dụng tinh thần của các công ước trong khu vực lẫn quốc tế chính là một trong các cơ sở cho việc xây dựng pháp luật của nước ta đối với các loại tội phạm về môi trường nói chung cũng như tội phạm gây ô nhiễm nói riêng. Thứ tư, yêu cầu tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức toàn dân tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng chống tội phạm chính là một trong các cơ sở để các nhà làm luật tội phạm hóa các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ý thức kém của một số bộ phận người dân chính là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Thái độ thờ ơ, hời hợt, vô trách nhiệm cùng với những hành vi vơ vét những nguồn tài nguyên thiên nhiên khi mà lợi ích kinh tế trở thành mục tiêu duy nhất đã khiến cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng tại nhiều nơi trên đất nước ta. Bởi vậy, bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm đang là nhiệm vụ thường trực, không chỉ tại một thời điểm nhất định, không chỉ của chúng ta mà các lớp thế hệ mai sau vẫn tiếp tục phải thực hiện. Chúng ta không thể hoàn thành nhiệm vụ này nếu như một cá nhân không ý thức được việc bảo vệ môi trường. Sức mạnh to lớn nhất đó chính là sự đồng lòng, chung tay và quyết tâm vì một hành tinh xanh, ngôi nhà chung của nhân loại. Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ tham gia hành trình này, không phân biệt giai cấp địa vị trong xã hội, trai gái, giàu nghèo, già trẻ, chủng tộc, màu da. Từ thành thị đến nông thôn, người giàu hay 13
- người vô gia cư đều bình đẳng trong hành trình cứu lấy ngôi nhà chung. Bằng việc quy định TNHS đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường bị coi là tội phạm, pháp luật hình sự không những có tác dụng răn đe, giáo dục người phạm tội, mà còn tác động lên ý thức của mọi thành viên của xã hội (giáo dục chung) về ý thức tuân thủ pháp luật, cũng như nâng cao tinh thần chủ động tham gia phòng chống loại tội phạm này. Tóm lại, những cơ sở lý luận trên, chính là những yếu tố quan trọng để các nhà làm luật dựa vào đó tiến hành việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự 1.1.2.1. Củng cố lòng tin của nhân dân trong cuộc chiến chống ô nhiễm môi trường và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa Sau những vụ việc các cơ sở gây ô nhiễm môi trường bị phanh phui trên các phương tiện truyền thông, nhiều người đã đặt câu hỏi về trách nhiệm của các cơ quan chức năng của nhà nước ở đâu trong các vụ việc đó. Đối với những người dân sống trong khu vực bị ô nhiễm, tâm lý hụt hẫng, thất vọng tại nhiều địa phương đã lên tới đỉnh điểm bởi cơ quan chức năng, quản lý, chính quyền địa phương chưa thực sự đứng về phía người dân, dù những gì mà doanh nghiệp gây ra có thể được xem là những tội ác thực sự. Thái độ thờ ơ, đùn đẩy trách nhiệm cũng như cố tình bao che vì mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương đã khiến cho các hành vi gây ô nhiễm môi trường không được ngăn chặn kịp thời và tại nhiều nơi đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của người dân. Việc BLHS quy định tội gây ô nhiễm môi trường đã thể hiện tính răn đe mạnh mẽ, quyết liệt đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường, đồng thời, cũng là sự cảnh báo tới các đối tượng đang có ý định thực hiện và buộc chúng phải cân nhắc tới những hậu quả pháp lý hình sự bất lợi có thể bị 14
- áp dụng. Để thực hiện hiệu quả các quy định của BLHS đối với các tội phạm về môi trường nói chung và tội gây ô nhiễm môi trường nói riêng, ngày 29/11/2006, Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường được thành lập và trực thuộc Tổng cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm (Tổng cục VI), Bộ Công an. Đây là cơ quan có nhiệm vụ thống nhất quản lý, tổ chức chỉ đạo hướng dẫn lực lượng Cảnh sát môi trường trong cả nước thực hiện các chủ trương, kế hoạch, biện pháp bảo vệ môi trường, đồng thời, phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về môi trường theo quy định của pháp luật. Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường đã từng bước trưởng thành về lực lượng và năng lực công tác, đã đạt được một số kết quả nhất định và khẳng định được vai trò, vị trí nòng cốt trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm môi trường nói chung và tội phạm về gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường được thành lập sẽ góp phần bảo đảm được các quy định của BLHS đối với các tội phạm về môi trường nói chung, tội phạm về gây ô nhiễm nói riêng đi vào thực tiễn một cách hiệu quả hơn, lấy lại được niềm tin của nhân dân trong cuộc chiến chống ô nhiễm môi trường và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. 1.1.2.2. Tạo bước chuyển biến quan trọng của toàn xã hội trong nhận thức về trách nhiệm, quyền lợi trong đấu tranh phòng chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường của toàn thể quần chúng nhân dân Bác Hồ đã từng nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong [40, tr.212] hay Công an có bao nhiêu người, dù có vài ba vạn, hay năm nghìn, bảy vạn đi nữa, thì lực lượng ấy cũng còn ít lắm. Bên cạnh là lực lượng nhân dân, năm vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay, phải làm sao cho có hàng triệu 15