Luận văn Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_toi_co_y_gay_thuong_tich_hoac_gay_ton_hai_suc_khoe.pdf
Nội dung text: Luận văn Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ HƯƠNG DUNG TéI Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH HOÆC G¢Y TæN H¹I SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C TRONG TR¹NG TH¸I TINH THÇN BÞ KÝCH §éNG M¹NH TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ HƯƠNG DUNG TéI Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH HOÆC G¢Y TæN H¹I SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C TRONG TR¹NG TH¸I TINH THÇN BÞ KÝCH §éNG M¹NH TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. CHU THỊ TRANG VÂN HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đặng Thị Hương Dung
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 8 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam 8 1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 8 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 12 1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 17 1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985 17 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 19
- 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đến nay 21 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH 24 2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 24 2.1.1. Khách thể của tội phạm 25 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm 27 2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm 37 2.1.4. Chủ thể của tội phạm 40 2.2. Các trường hợp phạm tội cụ thể 42 2.2.1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% 42 2.2.2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 43 2.2.3. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên 44 2.2.4. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết người 45 2.2.5. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng 46
- 2.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với một số tội khác 48 2.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105) với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104) 48 2.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 50 2.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 54 2.3.4. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 105 Bộ luật hình sự với trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được áp dụng tình tiết giảm nhẹ điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 56 Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ, MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH 59 3.1. Thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở nước ta hiện nay 59
- 3.1.1. Đánh giá, phân tích tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong thời gian 2010-2014 59 3.1.2. Thực tiễn xét xử các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 62 3.1.3. Một số tồn tại, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và những nguyên nhân cơ bản 72 3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 76 3.2.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 76 3.2.2. Những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 79 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 81 3.3.1. Tăng cường công tác giáo dục, đạo đức, lối sống, ý thức pháp luật 81 3.3.2. Củng cố và kiện toàn tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xét xử 82 KẾT LUẬN 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm HĐXX: Hội đồng xét xử PVCĐ: Phòng vệ chính đáng TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Số vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh/ Tổng số các vụ án hình sự 60 Bảng 3.2: Số vụ án đã xét xử/ tổng số vụ án phải giải quyết 61
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời, pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật. Trong thời đại kinh tế thị trường với sự phát triển như vũ bão của khoa học - kỹ thuật, tình hình tội phạm trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng ngày càng diễn biến phức tạp. Các tội xâm phạm đến sức khỏe của người khác là một trong những nhóm tội được quy định sớm trong pháp luật hình sự ở nước ta. Trong đó, các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong những năm trở lại đây đã và đang diễn biến hết sức phức tạp, ngày càng có nhiều chiều hướng gia tăng trong phạm vi cả nước. Hậu quả mà các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất lớn, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của người bị hại, ảnh hưởng tới tình hình trật tự, an ninh của xã hội; Đặc biệt, trong mấy năm gần đây dưới sự ảnh hưởng nhiều của phim ảnh bạo lực và nhiều yếu tố khác tình hình các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ngày càng diễn biến phức tạp, người phạm tội ngày càng liều lĩnh, coi thường tính mạng con người cũng như coi thường pháp luật, sử dụng ngày càng nhiều hơn các loại vũ khí nóng, vũ khí nguy hiểm Nhiều vụ cố ý gây thương tích có quy mô tổ chức lớn, nhiều người tham gia, có tính chất xã hội đen. Tuy nhiên, hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1
- cũng có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Có những hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tình tiết làm giảm đi một cách đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là một trong những trường hợp đó. Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009) đã dành một chương quy định Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người – Chương XII, trong đó Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại Điều 105. Trong thực tiễn xét xử tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, không ít Tòa án còn gặp những vướng mắc, lúng túng và có không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống nhất các quy định của BLHS trong hoạt động xét xử. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Cùng với sự phát triển của pháp luật hình sự nói chung trong thời kỳ đổi mới, các quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh cũng ngày càng được củng cố và hoàn thiện. 2
- Sau khi BLHS năm 1985 được ban hành, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu như Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992,1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu năm 1998 Sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được đề cập trong nhiều công trình như: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. Th.S Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.s Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Lê Cảm (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003; Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội cố ý gây thương 3
- tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở khía cạnh tổng quát, đặt tội này trong tổng thể các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Bên cạnh đó những vấn đề thực tiễn cùng những giải pháp kiến nghị dừng lại ở mức độ khá chung chung và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về loại tội này. 3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dưới khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn trong công tác xét xử trên phạm vi cả nước, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh để xây dựng nên khái niệm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại 4
- cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong mối tương quan so sánh với một số chế định tội danh khác; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, từ đó đưa ra được những tồn tại, hạn chế của thực tiễn xét xử, cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả xét xử tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành dưới tên gọi là Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 5
- (Điều 105 Bộ Luật hình sự). Do vậy, tuy tên đề tài là Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam nhưng xuyên suốt nội dung của luận văn, tác giả đã sử dụng cụm từ: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo như đúng quy định trong BLHS năm 1999 để nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định trong BLHS năm 1999. Luận văn đã nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế định tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam mà cụ thể là trong BLHS năm 1999, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này. Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên phạm vi cả nước trong giai đoạn 05 năm từ năm 2010 đến 2014. Tác giả qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu chung có thể tự nhận thấy rằng, có thể với công trình này có lẽ là lần đầu tiên vấn đề tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được triển khai trên quy mô của một luận văn thạc sĩ. Do vậy, việc tìm ra hướng phát triển còn gặp nhiều khó khăn cũng như việc tiếp cận các nguồn tài liệu có thể. Tác giả hy vọng rằng trong quá trình nghiên cứu sẽ tìm ra được một lối đi phù hợp. 6
- 6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu bởi 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong Bộ luật hình sự hiện hành. Chương 3: Thực tiễn xét xử, một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là một trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt làm giảm tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó là phạm tội trong “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Vì vậy, để hiểu rõ khái niệm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì trước hết chúng ta phải làm rõ được khái niệm “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” và khái niệm “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. 1.1.1.1. Khái niệm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Sức khỏe là tài sản vô giá của mỗi con người. Có nhiều cách hiểu khác nhau về sức khỏe. Theo cách hiểu thông thường, sức khỏe được hiểu là tình trạng không có bệnh tật hoặc không có thương tật. Quan điểm khác lại cho rằng: “Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang sống trong điều kiện bình thường, cho nên sức khỏe thực ra là trạng thái tâm lý, sự hoạt động hài hòa trong cơ thể tạo nên khả năng chống lại bệnh tật” [13, tr. 206, 207]. 8
- Còn theo giải thích của Từ điển Bách khoa Việt Nam: Sức khỏe của con người là trạng thái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật; cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có hiệu quả [10, tr.835]. Xâm phạm sức khỏe con người được hiểu là thông qua sự tác động làm cho người đó mất đi một phần hay toàn bộ sức lực có sẵn của chính người đó làm họ khó khăn trong cử động, hoạt động so với trước khi họ bị hành vi xâm hại tác động tới. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý xâm hại đến sức khỏe của con người, đến quyền được bảo vệ về sức khoẻ của con người. Trong đó, hành vi gây thương tích cho người khác được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của con người, làm cho con người có những thương tích nhất định như: vết bỏng, mất đi một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể như mất bàn tay, cánh tay, bàn chân, để lại trạng thái bất thường. Còn hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của con người làm cho sức khỏe của nạn nhân yếu đi không còn nguyên vẹn như trước mặc dù không để lại dấu vết trên thân thể họ hoặc làm mất chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân làm giảm chức năng hoạt động của bộ phận đó. Như vậy, có thể hiểu “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của người khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực vốn có của họ. 1.1.1.2. Khái niệm trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Có nhiều quan điểm khác nhau về trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Quan điểm thứ nhất cho rằng, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là 9
- tình trạng ý thức bị hạn chế ở mức độ cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi, nhưng vẫn còn khả năng điều khiển hành vi của mình. Quan điểm thứ hai cho rằng, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái của một người chưa mất hoàn toàn khả năng nhận thức, nhưng đã mất khả năng tự chủ - khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của mình. Còn quan điểm thứ ba thì cho rằng, tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng (tâm lý) không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi của mình. Theo tìm hiểu và nghiên cứu, chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất và thứ ba, không đồng tình với quan điểm thứ hai. Bởi lẽ, một người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dù chịu sự tác động mạnh mẽ về mặt tâm lý nhưng khả năng nhận thức vẫn còn, nghĩa là khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ vẫn còn. Còn nếu theo quan điểm thứ hai thì, nếu khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ mất, có thể coi họ là một trong những trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự. Khoản 1 Điều 13 của BLHS năm 1999 quy định: “1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, ” [26]. Người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có nguyên nhân khách quan là xuất phát từ người bị hại. Như vậy, có thể coi việc họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi là nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Nếu xem họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi, họ sẽ không chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm của mình theo quy định của Khoản 1 Điều 13 của BLHS năm 1999. Trong thực tế, chỉ có thể xảy ra trường hợp một người vẫn còn khả năng nhận thức mà mất khả năng tự kiềm chế và điều khiển hành vi của mình do cơ chế sinh học hoặc một bệnh nào đó làm tổn hại bộ phận điều khiển hành vi của não bộ. Những tác động tâm lý dù có mạnh mẽ đến đâu 10
- cũng không thể làm cho một người mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình. Người bị kích động mạnh về tinh thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức, khả năng tự chủ - khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao; trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước. Có thể lý giải vì sao trong trường hợp bình thường họ không phạm tội mà trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh họ phạm tội thông qua mức độ nhận thức của họ trong lúc này. Bình thường, họ nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội và nhận thức được điều đó là sai, trái pháp luật, phải gánh lấy trách nhiệm pháp lý nên họ kiềm chế hành vi của mình. Tuy nhiên, trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mức độ nhận thức của họ giảm đi đáng kể. Họ vẫn có thể nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nào đó, nhận thức một cách khái quát về hậu quả mà họ không quan tâm đến, không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật cũng như không nhận thức được sẽ phải gánh lấy hậu quả pháp lý từ hành vi của mình. Thực tế đó làm giảm đi đáng kể khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình (chứ không phải mất hẳn khả năng đó) và kết quả là hành vi phạm tội xảy ra. Tóm lại, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể hiểu một cách khái quát là tình trạng không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức; khả năng tự chủ và tự điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao. Giống như các tội phạm khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm mà theo PGS.TSKH Lê Cảm, 11
- phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a, bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b, bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c, bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi [15, tr.105]. Từ tất cả những phân tích trên, có thể tổng quát khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của người khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực vốn có của họ một cách trái pháp luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện với lỗi cố ý trong trạng thái không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức, khả năng tự chủ và điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc người thân thích của người đó. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 của nước ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ sức khỏe của con người nói riêng. Việc chính thức ghi nhận về mặt pháp lý hình sự tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành là một biểu hiện cụ thể của việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013: 12
- Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm [30, Điều 20]. Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại Điều 105 thuộc chương II của Bộ luật hình sự năm 1999 có những ý nghĩa sau đây: Thứ nhất, hạn chế việc lợi dụng việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhằm xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách tùy tiện, trái pháp luật. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tuy nhiên, nó có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt làm giảm tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, đó là thực hiện trong “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Việc quy định cụ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự thể hiện quyết tâm bảo vệ sức khỏe của con người kể cả trong các trường hợp nạn nhân là người có lỗi trước làm cho người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần dẫn đến có các hành vi phạm tội. Bởi lẽ, trong các trường hợp này, người phạm tội vẫn có lỗi, và khi có lỗi thì họ dù nặng hay nhẹ họ vẫn phải chịu TNHS về phần lỗi đó của mình nếu dấu hiệu khác thỏa mãn cấu thành tội phạm được quy định trong luật. Điều này góp phần tích cực làm hạn chế việc lợi dụng sự có lỗi trước của nạn nhân để có những hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách tùy tiện, trái pháp luật. 13