Luận văn Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_toi_chua_chap_hoac_tieu_thu_tai_san_do_nguoi_khac_p.pdf
Nội dung text: Luận văn Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MINH THU TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MINH THU TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG HÀ NỘI - 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Minh Thu
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 9 1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 9 1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 12 1.2.1. Khách thể của tội phạm 12 1.2.2. Chủ thể của tội phạm 15 1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm 15 1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm 18 1.3. Vài nét lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 20 1.3.1. Pháp luật thời kỳ phong kiến đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 21 1.3.2. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 có hiệu lực 24 1.3.3. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến trước khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực 26 1.3.4. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1999 đến nay 28
- 1.4. Những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong pháp luật Hình sự của một số nước trên thế giới 32 Kết luận chương 1 41 Chương 2. CÁC HÌNH THỨC PHÁP LÝ ĐỐI VỚI TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 43 2.1. Các hình thức pháp lý đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Bộ luật Hình sự 1999 43 2.1.1. Hình phạt đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 43 2.1.2. Các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 57 2.1.3. Vấn đề miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 60 2.2. Phân biệt giữa tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với một số tội phạm khác 64 2.2.1. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với tội che giấu tội phạm 64 2.2.2. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với tội không tố giác tội phạm 66 2.2.3. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với tội rửa tiền 69 2.2.4. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với trường hợp đồng phạm cùng tội phạm nguồn 72 Kết luận Chương 2 74 Chương 3. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ 76
- 3.1. Khái quát số vụ án đã thụ lý về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội những năm gần đây 76 3.2. Thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2011- 2015 . 79 3.2.1. Số liệu thống kê về thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2011- 2015 79 3.2.2. Một số vấn đề trong thực tiễn với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có những năm gần đây 87 3.3. Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 97 3.3.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 97 3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân với những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 101 3.3.3. Một số giải pháp khác 105 KẾT LUẬN 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111 PHỤ LỤC 117
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật Dân sự BLHS: Bộ luật Hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng Hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm TNHS: Trách nhiệm Hình sự TAND: Tòa án nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang So sánh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác Bảng 2.1. phạm tội mà có, tội che giấu tội phạm và tội không tố giác 68 tội phạm So sánh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác Bảng 2.2. 72 phạm tội mà có với tội rửa tiền Thống kê số liệu vụ án và bị cáo phạm tội chứa chấp hoặc Bảng 3.1. tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã thụ lý trên 78 địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2011- 2015 Thống kê số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội chứa chấp hoặc Bảng 3.2. tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được giải 81 quyết trên địa bàn thành phố Hà Nội từ 2011- 2015
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, trước sự thay đổi, phát triển của các điều kiện kinh tế- xã hội, tình hình các loại tội phạm nói chung có nhiều diễn biến phức tạp. Đặc biệt là các tội xâm phạm quyền sở hữu có chiều hướng gia tăng. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ việc bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân trong đó có quyền sở hữu. Liên quan đến các tội phạm xâm hại về sở hữu, tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trở thành vấn đề đáng lưu tâm, đang gây nhiều lo lắng cho người dân. Tính chất của tội phạm cũng góp phần gây khó khăn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm xâm phạm sở hữu. Trong giai đoạn nền kinh tế của đất nước đang phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tình trạng người dân chạy theo tiếng gọi của lợi nhuận thực hiện các hoạt động kinh doanh, mua bán các loại hàng hoá, tài sản dù biết là do người khác phạm tội mà có là tình trạng đáng cảnh báo. Việc công dân dù biết tài sản mình đang chứa chấp hoặc tiêu thụ do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn cố tình thực hiện nhằm kiếm lời khiến cho việc xử lý các loại tội phạm xâm hại sở hữu như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản, càng thêm khó khăn trong công tác điều tra, truy tố tội phạm do tài sản khó được xác minh, tìm kiếm. Đứng trước thực trạng cũng như diễn biến của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu như vậy, một số công dân sẵn sàng chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản của công dân, tài sản của Nhà nước do người khác phạm tội mà có có giá trị lớn do mua rẻ, bán đắt gây ra thiệt hại lớn cho người dân, cũng như cho tài sản của Nhà nước. Điều này gây cản trở không nhỏ đến hoạt động đúng đắn của cơ quan có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lý tội phạm. Hơn thế nữa, hành vi này còn gián tiếp khuyến 1
- khích các hành vi phạm tội, phạm tội nhiều lần của người khác, gây ra ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội, khiến tình hình tội phạm thêm phức tạp, gây khó khăn cho công tác phòng ngừa tội phạm. Khi nghiên cứu về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có những năm gần đây (giai đoạn 2010- 2015), nhiều vấn đề về mặt lý luận cũng như thực tiễn cần tìm hiểu kỹ càng. Đặc biệt, trên địa bàn thành phố Hà Nội- thủ đô của đất nước, việc nghiên cứu các vấn đề tội phạm này càng cần thiết hơn bởi lẽ Hà Nội là thành phố đi đầu trong quá trình phát triển, mức sống của người dân có đòi hỏi cao; vì thế, đây cũng là nơi thu hút nhiều loại tội phạm về sở hữu, gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa trong đó có tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tội phạm này có sự xuất phát từ những tội phạm nguồn gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc gia tăng tỷ lệ tội phạm về sở hữu. Tuy nhiên, trong các đề tài nghiên cứu những năm gần đây, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có lại ít được nghiên cứu đầy đủ và cụ thể. Việc xác định rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay hay trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng chưa được đi sâu nghiên cứu, bám sát tình hình thực tiễn. Thực tiễn đặt ra rằng, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có khá phức tạp dưới nhiều hình thức, thủ đoạn đơn giản có, tinh vi có nhằm hợp pháp hóa tài sản phạm tội để đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc gia tăng phức tạp tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chung, cũng như đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đặt ra vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nhằm 2
- đáp ứng đòi hỏi của xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện tinh thần cải cách tư pháp theo định hướng của Đảng và tinh thần của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-05-2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020". Hơn thế nữa, về mặt lý luận, việc nghiên cứu đưa ra các dấu hiệu cũng như cơ sở pháp lý cụ thể góp phần làm sáng tỏ các hành vi tội phạm, tạo tiền đề cho công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Từ các cơ sở nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Luật Hình sự Việt Nam” (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài, tội chứa chấp hoặc tiêu th ụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm có tính tinh vi và diễn biến tội phạm phức tạp. Loại tội phạm này đã được một số nhà luật học nghiên cứu, đề cập trong một số giáo trình, sách, báo, bài viết gần đây gồm có: - Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm)- tập 9 của ThS Đinh Văn Quế, Nxb Tp Hồ Chí Minh; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001 Các công trình nói trên các tác giả đã đề cập nội dung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc bình luận và đưa ra các khái niệm, dấu hiệu một cách đơn giản, khái quát làm khuôn mẫu nghiên cứu mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và 3
- có hệ thống về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có dưới góc độ pháp lý hình sự. - Đề tài: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Luật Hình sự Việt Nam”- Luận văn Thạc sỹ năm 2007 của tác giả Trần Thị Thu Nam; Đề tài: “Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An”- khóa luận tốt nghiệp năm 2009 của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh: Các đề tài trên đều đã đề cập đến tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có dưới góc độ luật Hình sự và Tội phạm học. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu đã cách đây khá xa, vì vậy, tình hình tội phạm và các dấu hiệu, điều kiện phạm tội hiện nay đã có nhiều biến đổi. Ngoài ra, đề tài cũng chưa đi sâu làm rõ vấn đề các hình thức trách nhiệm hình sự của tội phạm. Vấn đề về tội phạm nguồn chưa được đưa ra. Hơn nữa, các đề tài mới chỉ đưa ra phân tích chung hoặc trên một địa bàn huyện của tỉnh. Mà thực tế, địa bàn thành phố Hà Nội lại là một điểm nóng của tội phạm lại chưa được đi sâu nghiên cứu. - Các bài viết “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Luật Hình sự Việt Nam”- Tạp chí Luật học số 05.2004 của Thạc sỹ Phạm Văn Báu; “Một số vấn đề về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 7 tháng 9 năm 2007 của tác giả Trần Quang Tiệp; “Yếu tố định lượng đối với tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”- Trang thông tin TAND tối cao 2013 của tác giả Hồ Vĩnh Phú, “Bàn về Điều 250 Bộ luật Hình sự”- Tạp chí Tòa án nhân dân số 11 tháng 6/2004 của tác giả Lê Văn Luật cũng đã đề cập về tội phạm này dưới góc độ Luật Hình sự và Tội phạm học. Các bài viết mới chỉ đưa ra một cách khái quát về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, một số vấn đê cần lưu ý nhưng chưa đi 4
- vào phân tích chuyên sâu các vấn đề về tội phạm cũng như thực tiễn xét xử của tội phạm. Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu được trình bày ở trên, vấn đề về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội còn bỏ ngỏ. Đến thời điểm này, đề tài “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Luật Hình sự Việt Nam” (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) vẫn có tính mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu mà luận văn hướng tới là trên cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử của tội phạm góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận chuyên sâu đối với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Cũng qua đó hình thành cái nhìn từ thực tiễn xét xử các vụ án về tội phạm làm cơ sở cho việc nhận thức cũng như áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự xử lý về tội phạm. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu, luận văn cũng đề xuất những giải pháp mới nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu đã đặt ra ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn đặt ra các vấn đề sau: Thứ nhất, nghiên cứu và đưa ra khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thứ hai, làm rõ các hình thức pháp lý đối với tội phạm chứa chấp 5
- hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; so sánh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với một số tội phạm khác. Thứ ba, phân tích, làm rõ vấn đề thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án. Từ đó, đưa ra đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài Phạm vi nghiên cứu của luận văn về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam dưới góc độ pháp lý hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian 5 năm từ năm 2011 đến năm 2015. Tại thời điểm người viết nghiên cứu đề tài này, Bộ luật Hình sự 2015 vẫn chưa có hiệu lực. Các quy định hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được tiến hành theo Bộ luật Hình sự 1999. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đê tài 5.1. Phương pháp luận Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là phương pháp được tác giả lựa chọn làm cơ sở nghiên cứu luận văn. Ngoài ra, tác giả dựa trên các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh 6
- vực trong đó có lĩnh vực đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, 6. Những đóng góp mới của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn có thể kể đến: - Phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, đưa ra vấn đề về tội phạm nguồn, phân tích sự phát triển các quy định về tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong lịch sử, đối chiếu các quy định của Bộ luật Hình sự 1999 và Bộ luật Hình sự 2015 và so sánh các quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam với một số nước trên thế giới. - Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, các hình thức pháp lý của tội phạm và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội, nêu lên những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng như cả nước nói chung. 7. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Về mặt lý luận, luận văn có ý nghĩa cung cấp thêm cơ sở lý luận góp phần làm phong phú về mặt tài liệu nghiên cứu khoa học để tham khảo cho 7
- các bài viết, công trình nghiên cứu, bài giảng có liên quan. Về mặt thực tiễn, luận văn đưa ra thực tiễn, đánh giá, dự báo diễn biến tình hình tội phạm và đề xuất những giải pháp hợp lý, có ý nghĩa trong việc xử lý tội phạm nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và ở nước ta nói chung. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của luật Hình sự Việt Nam Chương 2: Các hình thức pháp lý đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Bộ luật Hình sư 1999 Chương 3: Thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng. 8
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Theo từ điển luật học, chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có là "(hành vi) cất giấu hoặc tạo điều kiện cho việc cất giấu những tài sản mình biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có" [51, tr.275]. Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là "(hành vi) mua, trao đổi, nhận hoặc giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản mình biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có" [51, tr.781]. Tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 09/2011/TTLT-BCA-BQP- BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ban hành ngày 30/11/2011 Hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tội rửa tiền (Sau đây gọi tắt là Thông tư 09/2011) quy định: Chứa chấp tài sản là một trong các hành vi sau đây: cất giữ, che giấu, bảo quản tài sản; cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất giữ, che dấu, bảo quản tài sản đó và tiêu thụ tài sản là một trong các hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó. Hiểu một cách chung nhất, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản so người khác phạm tội mà có là hành vi cất giấu, tạo điều kiện cho việc cất giấu hoặc mua, trao đổi, nhận, giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản mình biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có. 9
- Cũng theo từ điển này, tài sản được hiểu: Là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm: vật có thực, vật đang tồn tại và sẽ có như hoa, lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo mẫu đã được thoả thuận giữa các bên, tiền và các giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản [51, tr.778]. Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản". Đối với vật là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải là vật có thực, vật đang tồn tại, có giá trị và nằm trong sự chiếm hữu của con người, “đối tượng của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ có thể là tài sản (các đối tượng vật chất, hàng hóa, tiền) do phạm tội mà có trừ các đối tượng vật chất là hàng cấm ) do phạm tội mà có”[2, tr.6]. Tiền và giấy tờ có giá cũng là những đối tượng tài sản của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, đối với giấy tờ có giá cần lưu ý bởi nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Giấy tờ có giá được chia làm hai loại gồm: Giấy tờ có giá ghi danh và Giấy tờ có giá vô danh. Với đối tượng là tài sản trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì giấy tờ có giá ghi danh sẽ không thỏa mãn được là đối tượng tác động của tội phạm bởi loại giấy tờ này chỉ chủ sở hữu đứng tên mới có khả năng thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến nó. Giấy tờ có giá vô danh "là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá" (Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 04/01/2005). Với giấy tờ có giá vô 10
- danh, người phạm tội có thể tự thực hiện các giao dịch dân sự. Do đó, giấy tờ có giá vô danh sẽ là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có [22, tr.7]. "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" (Điều 181 Bộ luật Dân sự 2005). Quyền tài sản là loại tài sản quyền gắn liền với chủ sở hữu, do đó, tuỳ thuộc vào quyền tài sản nhất định mới là đối tượng tác động của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì có những quyền tài sản chỉ chủ sở hữu mới có thể thực hiện quyền này trong giao dịch dân sự. Thông tư số 09/2011, tại Khoản 3 Điều 1 có hướng dẫn về "tài sản" bao gồm: "vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; bất động sản, động sản, hoa lợi, lợi tức, vật chính, vật phụ, vật chia được, vật không chia được, vật tiêu hao, vật không tiêu hao, vật chùng loại, vật đặc định, vật đồng bộ và quyền tài sản". Như vậy, những "tài sản" được pháp luật ghi nhận, thuật ngữ "tài sản" trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có sự tương ứng với quy định về "tài sản" trong Bộ luật Dân sự 2005. Từ khái niệm tội phạm được ghi nhận tại Điều 8 BLHS, định nghĩa khoa học về tội phạm với những dấu hiệu được phân tích ở trên, tác giả xin đưa ra khái niệm Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau: Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi nguy hiểm cho xã hội khi biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có vẫn cất giấu, tạo điều kiện cho việc cất giấu hoặc mua, trao đổi, nhận, giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, trái pháp luật hình sự, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự 11
- pháp luật xã hội chủ nghĩa. 1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Căn cứ quy định cụ thể về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, những yếu tố đặc trưng của cấu thành tội phạm (CTTP) tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được thể hiện như sau: 1.2.1. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó [47, tr. 86]. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013- đạo luật cơ bản của nước ta ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu của công dân: "1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ". Từ đây, nền tảng cơ bản về quyền sở hữu của công dân được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo hộ. Mọi sự xâm phạm sẽ được bảo vệ bởi ngành luật tương ứng. Tội phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có biết rõ tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản có được từ hành vi phạm pháp, tuy không có sự hứa hẹn trước với người có tài sản do phạm tội mà có, nhưng vẫn chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó vì mục đích vụ lợi. Hành vi của người phạm tội đã xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, khuyến khích việc thực hiện tội phạm cũng như gây khó khăn cho hoạt động tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Việc xác định khách thể của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản 12
- do người khác phạm tội mà có là căn cứ quan trọng để định tội cũng như phân biệt tội phạm với vi phạm pháp luật khác; khách thể của tội phạm sẽ cho thấy rõ bản chất, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Khách thể chung là "tổng hợp các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật Hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định" [6, tr. 351]. Khách thể chung của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài do người khác phạm tội mà có là trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xác định khách thể chung của tội phạm sẽ đưa ra cơ sở pháp lý chung khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi phạm tội bị pháp luật hình sự cấm. Khách thể trực tiếp là "một quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật hình sự cụ thể bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một tội phạm nhất định nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định" [6, tr. 351]. Khách thể trực tiếp của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là trật tự quản lý nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có do tội phạm này có tác động xấu gây ảnh hưởng đến hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội phạm, cũng như gây khó khăn cho hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể tội phạm bị người thực hiện hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [47, tr. 94]. Đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tài sản do (người khác) phạm tội mà có. Đó có thể là bất kỳ tội phạm nào được quy định trong Bộ luật Hình sự mà kết quả trực tiếp của nó là chủ thể có được tài sản một cách bất hợp pháp. Nếu tài sản do người khác phạm tội mà có là đối tượng phạm tội của tội khác thì người có hành vi chứa 13
- chấp, tiêu thụ tài sản đó bị truy cứu TNHS về tội phạm tương ứng mà BLHS quy định đối với hành vi tàng trữ, tiêu thụ các loại tài sản đó [27, tr.307]. Khi nghiên cứu đối tượng tác động của tội phạm này cần lưu tâm đến các loại tài sản do phạm tội mà có gồm những loại tài sản nào như đã phân tích ở phần khái niệm trên. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có xâm phạm đến khách thể là trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa được pháp luật Hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, loại tội phạm này lại được hình thành chỉ khi có tội phạm nguồn tạo ra đối tượng tác động cho tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy vì bản thân điều luật 250 BLHS về tội phạm đã thể hiện, hành vi phạm tội của tội phạm cấu thành khi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, vấn đề "Tội phạm nguồn" lại chưa được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu về tội phạm này. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tác giả đưa ra khái niệm về tội phạm nguồn: "Tội phạm nguồn là tội phạm tạo ra các loại tài sản từ đó có thể trở thành đối tượng tài sản của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Xuất phát từ tội phạm nguồn, cùng với các yếu tố cấu thành tội phạm khác, tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mới đủ căn cứ hình thành. Như vậy, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là một loại tội phạm phái sinh, có thuộc tính tự nhiên phụ thuộc vào tội phạm nguồn. Nếu không có tội phạm nguồn thì không có tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tội phạm nguồn là một trong những căn cứ quan trọng để xác định cấu thành 14