Luận văn Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

pdf 85 trang vuhoa 24/08/2022 4220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_toi_chong_nguoi_thi_hanh_cong_vu_tu_thuc_tien_tinh.pdf

Nội dung text: Luận văn Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG BÁ CHINH TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG BÁ CHINH TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI - 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đặng Bá Chinh
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ 9 1.1. Khái niệm và dấu hiệu đặc trưng của tội chống người thi hành công vụ 9 1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ 15 1.3. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với một số tội khác. 19 1.4. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội chống người thi hành công vụ 23 Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TẠI TỈNH ĐỒNG NAI 29 2.1. Khái quát tình hình xét xử tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai 29 2.2. Thực tiễn xét xử tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai 35 2.3. Nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế 56 Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ 60 3.1. Tăng cường nhận thức đúng về áp dụng pháp luật 60 3.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật 61 3.3. Nâng cao khả năng, năng lực, trình độ, kỹ năng của người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát viên ) 67 3.4. Các giải pháp khác 68 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCT : Bộ Chính trị BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CP : Chính phủ CTTP : Cấu thành tội phạm ĐCS : Đảng cộng sản ĐTV : Điều tra viên HĐXX : Hội đồng xét xử NQ : Nghị quyết PLHS : Pháp luật hình sự QĐHP : Quyết định hình phạt TAND Toà án nhân dân TANDTC Toà án nhân dân tối cao TCNTHCV Tội chống người thi hành công vụ TNHS : Trách nhiệm hình sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  6. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tình hình tội phạm và tình hình tội chống người thi hành công vụ được đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020 Bảng 2.2. Tình hình tội chống người thi hành công vụ và tội phạm thuộc Chương XXII (các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính) được xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020 Bảng 2.3. Tình hình tội chống người thi hành công vụ và tội phạm thuộc Chương XXII (các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính) được xét xử phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020 Bảng 2.4. Tỷ lệ số vụ án phúc thẩm tuyên sửa, hủy án sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020 Bảng 2.5. Chế tài được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020 Bảng 2.6. Nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 35 năm đổi mới được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong những thập niên vừa qua, đã đạt được những thành tựu đáng kể về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Từ chính sách đúng đắn này, Việt Nam đã có một diện mạo mới, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội. Cũng từ thời điểm này, Việt Nam bắt đầu bước vào một thời kỳ mới về đường lối đối ngoại, thời kỳ hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa tạo ra những cơ hội nhất định đối với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đứng trước những thử thách. Bên cạnh sự thay đổi về đường lối kinh tế, quá trình hội nhập và xu thế toàn cầu hóa, đã đặt ra yêu cầu về cải cách một cách rộng rãi trong xã hội Việt Nam, trong đó, có những nội dung lớn là cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp. Hệ quả của nền kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, khoa học, kỹ thuật và sự ảnh hưởng của văn hóa, lối sống phương Tây đã dẫn đến sự phức tạp trong các mối quan hệ xã hội, trong quan niệm sống và hành vi con người. Đặc biệt trong thời gian qua, tội chống người thi hành công vụ ngày càng diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng, tại những địa bàn trọng yếu về an ninh trật tự, đặc biệt là tỉnh Đồng Nai. Đồng Nai là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có vị trí hết sức quan trọng, là cửa ngõ phía đông thành phố Hồ Chí Minh và là một trung tâm kinh tế lớn của cả phía Nam, nối Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên với toàn bộ vùng Đông Nam Bộ. Đồng Nai được xem là một tỉnh cửa ngõ đi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ - vùng kinh tế phát triển và năng động nhất cả nước. Đồng thời, Đồng Nai cũng là một trong ba góc nhọn của tam 1
  8. giác phát triển thành phố Hồ Chí Minh - Bình Dương - Đồng Nai. Dân cư tập trung phần lớn ở thành phố Biên Hòa với hơn 1 triệu dân và ở 2 huyện Trảng Bom, Long Thành. Tỉnh lỵ của Đồng Nai hiện nay là thành phố Biên Hòa, cách Thành phố Hồ Chí Minh 30 km, cách Hà Nội 1.684 km theo đường Quốc lộ 1A, là thành phố trực thuộc tỉnh có dân số đông nhất cả nước, quy mô dân số tương đương với hai thành phố trực thuộc trung ương là Đà Nẵng và Cần Thơ. Những năm gần đây, tình hình tội phạm nói chung và tội phạm chống người thi hành công vụ nói riêng ở Đồng Nai diễn biến rất phức tạp, đối tượng phạm tội ngày càng liều lĩnh, coi thường tính mạng người khác; các vụ chống người thi hành công vụ thường xảy ra chủ yếu với lực lượng công an đang làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, an toàn giao thông (Theo thống kê của Công an tỉnh Đồng Đồng Nai, trong những tháng đầu năm 2020 và năm 2019, trên địa bàn tỉnh xảy ra 14 vụ chống người thi hành công vụ. Đặc biệt, từ đầu năm 2020 đến nay xảy ra 4 vụ chống người thi hành công vụ có tính chất, mức độ nghiêm trọng, gây thương tích nặng cho một số cán bộ, chiến sĩ). Các đối tượng chống người thi hành công vụ trước đó đã có hành vi vi phạm pháp luật (trộm cắp tài sản, đánh bạc, sử dụng ma túy, đua xe trái phép ) vì muốn thoát khỏi lực lượng chức năng nên tìm mọi cách chống trả. Hành vi chống người thi hành công vụ gây thiệt hại không nhỏ cho hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Việc phòng ngừa, ngăn chặn hành vi chống người thi hành công vụ và đấu tranh với loại tội phạm này gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp với lý do chống người thi hành công vụ mang tính bạo lực, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của cán bộ, người được giao công vụ làm tổn hại sức khỏe và tài sản. Đồng thời, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, gây bất bình trong nhân dân. Tuy nhiên, đối tượng thực hiện tội phạm chống người thi hành công vụ thường là những thành phần bất hảo hoặc là có mối quan hệ quen biết với nhiều người trong cơ 2
  9. quan nhà nước (con ông, cháu cha); người làm chứng và những người liên quan thì ngại cung cấp thông tin vì sợ bị trả thù. Quá trình giải quyết sự việc từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đều gặp không ít khó khăn, trở ngại. Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các loại tội phạm hình sự nói chung và TCNTHCV nói riêng và khắc phục những vấn đề còn vướng mắc, ảnh hưởng đến công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án chống người thi hành công vụ ở tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, học viên đã chọn đề tài nghiên cứu: “Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến đề tài, đã có nhiều công trình đề cập đến dưới các góc độ khác nhau, tiêu biểu như: 2.1. Giáo trình và sách chuyên khảo Võ Khánh Vinh (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, phần các tội phạm (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Ths. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần tội phạm, tập VIII: Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính và tội phạm về môi trường), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM; GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên, 2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (phần các tội phạm), Nxb Tư pháp, Hà Nội; GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2014), Bình luận khoa học luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Khoa học xã hội; Nguyễn Vũ Tiên và Đỗ Đức Hồng Hà (2010), Hỏi – đáp một số vấn đề về các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong Bộ luật Hình sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội; v.v 3
  10. Nhận xét: Các công trình nêu trên nghiên cứu về tội chống người thi hành công vụ với một số dấu hiệu pháp lý, cùng với các tội danh khác quy định trong BLHS; chưa đi sâu phân tích những tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành và văn bản hướng dẫn thi hành cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội danh này từ đó kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng đúng pháp luật trong thực tiễn. 2.2. Dưới góc độ đề tài luận án tiến sỹ và luận văn thạc sỹ Luận văn thạc sĩ luật học, Bùi Hoài Thương (2016), Tội chống người thi hành công vụ trong luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội. Nhận xét: Luận văn đã phân tích được các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ, lịch sử lập pháp các quy định về tội này, quy định của một số quốc gia trên thế giới về tội chống người thi hành công vụ, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, luận văn nghiên cứu tội chống người thi hành công vụ trong bối cảnh BLHS năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật, trên phạm vi cả nước, trong giai đoạn 2012 đến 2016, khác về phạm vi không gian và cách xa thời gian tác giả nghiên cứu. Luận văn thạc sĩ luật học, Nguyễn Anh Tuấn (2017), Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội. Nhận xét: Luận văn đã phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ, lịch sử lập pháp các quy định về tội này, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tại tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, luận văn nghiên cứu tội chống người thi hành công vụ trong bối cảnh BLHS năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật, trên phạm vi thời gian và không gian khác đề tài tác giả nghiên cứu. 4
  11. Luận văn thạc sĩ, luật học Phạm Quốc Huy (2020), Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội. Nhận xét: Luận văn đã phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ theo quy định của BLHS năm 2015, lịch sử lập pháp các quy định về tội này, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tại thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, luận văn nghiên cứu tội chống người thi hành công vụ trên phạm vi thời gian và không gian khác đề tài tác giả nghiên cứu. Ngoài ra, còn có một số luận văn thạc sĩ khác như: Nghiêm Xuân Cương (2021), Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, Học viện khoa học xã hội; Phạm Quốc Huy (2020), Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Học viện khoa học xã hội; Trần Hoàng Vũ (2019), Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Học viện khoa học xã hội; Vũ Thị Dịu (2018), Áp dụng pháp luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn thành phố Hải Phòng, Học viện khoa học xã hội; v.v Nhận xét: Các luận văn nếu trên cũng đã phân tích được các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ, lịch sử lập pháp các quy định về tội này, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, so với các luận văn trên thì tác giả nghiên cứu trên phạm vi không gian khác, dựa trên số liệu thống kê và các bản án của TAND tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020 nên không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. 2.3. Đề tài nghiên cứu và bài viết trên các tạp chí chuyên ngành Bài viết “Tội chống người thi hành công vụ và một số tội khác có dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam”, của tác giả Phạm Văn Báu đăng trên Tạp chí luật học số 06-2005 (tr 9-11). 5
  12. Bài viết “Hoàn thiện căn cứ pháp lý cho tội chống người thi hành công vụ bị gây thương tích”, của tác giả Ngô Văn Lượng đăng trên Tạp chí Khoa học kiểm sát số 03-2018 (tr 26-28). Bài viết "Hình phạt đối với tội phạm chống người thi hành công vụ ở một số quốc gia" của TS. Nguyễn Toàn Thắng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 15/2020, tr. 58-60. Bài viết "Hoàn thiện căn cứ pháp lý cho tội chống người thi hành công vụ khi người thi hành công vụ bị gây thương tích" của Ngô Văn Lượng đăng trên Tạp chí Khoa học kiểm sát số 23/2018, tr. 25-27. Nhận xét: Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu tội chống người thi hành công vụ với khía cạnh nhỏ về mặt lý luận hoặc từ thực tiễn mà chưa đi sâu nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn tội chống người thi hành công vụ một cách đầy đủ, toàn diện. Nhận xét chung: Các đề tài, công trình nghiên cứu trên cơ bản đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu, đánh giá tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ. Các kết quả nghiên cứu về lí luận của các công trình nêu trên sẽ được tác giả tiếp thu, phát triển trong luận văn của mình. Tuy nhiên, những công trình trên đều đã được thực hiện cách đây một thời gian, có đề tài nghiên cứu từ thực tiễn ở một địa phương nhất định, nhưng các địa phương có tính đặc thù, đặc điểm khác nhau nên có những cách áp dụng pháp luật, xử lý có nét khác biệt và chưa có đề tài nghiên cứu nào về “Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”. Do vậy, học viên đã chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ cơ sở các vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về TCNTHCV trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm việc xác định tội danh 6
  13. và quyết định hình phạt đối với TCNTHCV theo pháp luật Việt Nam và đề suất sửa đổi, bổ sung chế định liên quan đến TCNTHCV trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau: - Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về tội chống người khi thi hành công vụ. - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Đồng Nai, những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu các chương trên, luận văn đưa ra một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội chống người thi hành công vụ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về TCNTHCV, được quy định tại Điều 330 BLHS 2015. Đồng thời, tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật quy định về TCNTHCV tại tỉnh Đồng Nai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi những lý luận về TCNTHCV, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự gắn với thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai. Các số liệu thu thập tại TAND tỉnh Đồng Nai từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật, về đấu tranh, phòng chống tội phạm. 7
  14. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Học viên đã trực tiếp tổng hợp các tài liệu liên quan đến TCNTHCV và nghiên cứu, phân tích, đánh giá ộm t số vụ án phạm tội chống người thi hành công vụ xảy ra tại tỉnh Đồng Nai. Những phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về TCNTHCV. Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu trong luận văn góp phần nâng cao hiệu quả xử lý các vụ án hình sự về TCNTHCV, đồng thời làm cơ sở để trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung một số chế định của pháp luật liên quan đến TCNTHCV trong hệ thống pháp luật hình sự nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội chống người khi thi hành công vụ. Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội chống người thi hành công vụ. 8
  15. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ 1.1. Khái niệm và dấu hiệu đặc trưng của tội chống người thi hành công vụ 1.1.1. Khái niệm tội chống người thi hành công vụ - Về khái niệm công vụ Để hiểu rõ khái niệm tội chống người thi hành công vụ, chúng ta cần hiểu rõ bản chất của công vụ và chống người thi hành công vụ là như thế nào? Ở nước ta hiện nay, trong các văn bản pháp luật, thuật ngữ “công vụ” chưa được hiểu thống nhất, cụ thể: Nghị quyết số 04/NQ-HĐTPTANDTC: “Công vụ là một công việc mà cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội giao cho một người thực hiện” [13]. Nhận xét: Kể từ khi BLHS năm 1985 được ban hành thì đây là văn bản pháp luật đầu tiên đề cập đến khái niệm công vụ, nhưng đây là khái niệm công vụ theo nghĩa rộng, không giới hạn phạm vi, chủ thể của công vụ. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan” [28, Điều 2]. Nhận xét: Có thể thấy quy định này đã chỉ ra đặc điểm quan trọng nhất của công vụ đó là việc thực hiện phải tuân theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và quy định có liên quan (tính đúng pháp luật) và giới hạn phạm vi chủ thể của hoạt động công vụ là cán bộ, công chức. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 có nội dung xác định: “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện 9
  16. nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án” [26]. Nhận xét: Có thể thấy trong khái niệm này thì phạm vi của công vụ chỉ trong ba lĩnh vực là quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Đây là những lĩnh vực có việc ban hành nhiều quyết định cá biệt, có tính chất mệnh lệnh - phục tùng và tác động tới từng cá nhân cụ thể và chủ thể của hoạt động này là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ. Từ các quan điểm trên, có thể hiểu công vụ phải là hoạt động quản lý nhà nước và là hoạt động thực hiện đúng quy định của pháp luật, tức là những hoạt động được thực hiện dựa trên cơ sở quy định của pháp luật, được giới hạn trong ba lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Chủ thể của công vụ là người thuộc các cơ quan nhà nước hoặc được cơ quan nhà nước giao quyền thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Hoạt động không đúng pháp luật là hoạt động “làm trái công vụ” và rõ ràng không phải là công vụ. - Về người thi hành công vụ Tương tự như khái niệm “công vụ” chưa được nhận thức thống nhất, nên “người thi hành công vụ” cũng có nhiều cách hiểu khác nhau: Nghị quyết 04/NQ-HĐTPTANDTC quy định: “Người thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện chức năng, nghiệp vụ của mình và cũng có thể là những công dân được huy động làm nghiệp vụ (như: tuần tra, canh gác ) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội”. Theo hướng dẫn trên thì người thi hành công vụ gồm: 10
  17. + Người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. + Những công dân được huy động làm nhiệm vụ theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 quy định: “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án” [26, Điều 3]. Nghị định số 208/2013/NĐ-CP ngày 17/12/2013 của Chính phủ quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ xác định, người thi hành công vụ “ là cán bộ, công chức, viên chức, sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân và xã hội” [7, Điều 3]. Từ những định nghĩa trên, tác giả rút ra một số đặc điểm của người thi hành công vụ như sau: + Thứ nhất, người thi hành công vụ là người có thẩm quyền thực hiện công vụ nhất định, bao gồm hai nhóm là: Người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án. Người tuy không được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào làm việc trong các cơ quan nhà nước nhưng được các cơ quan nhà nước hay người có chức vụ quyền hạn giao thực hiện một nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án. 11
  18. + Thứ hai, người thi hành công vụ phải đang thực hiện một công vụ nhất định. Một người chỉ thực sự là người thi hành công vụ khi đang thực hiện công vụ (hoạt động đúng pháp luật) theo đúng thẩm quyền. Nếu việc thực hiện công vụ chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc thì không còn là “đang thực hiện công vụ”. + Thứ ba, việc thực hiện công vụ của cá nhân phải đúng pháp luật. Đặc điểm đúng pháp luật này xuất phát từ bản chất của công vụ. Người thi hành công vụ theo đúng nghĩa phải là người thực hiện hoạt động đúng pháp luật cả về nội dung, hình thức và thẩm quyền. Từ những phân tích trên có thể hiểu: Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước hoặc người khác đang tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án theo đúng pháp luật và đúng thẩm quyền do cơ quan nhà nước giao. *Khái niệm tội chống người thi hành công vụ Về khái niệm tội chống người thi hành công vụ cũng được nhiều tác giả đề cập trong các công trình khoa học khác nhau: Từ điển Luật học định nghĩa: “Chống người thi hành công vụ là (hành vi) cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của mình bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc là hành vi cưỡng ép người đó thực hiện hành vi trái pháp luật” [4, tr.143]. Tác giả Đinh Văn Quế có quan điểm: Chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật [21, tr.4]. Đồng quan điểm với tác giả Đinh Văn Quế, các tác giả Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng có quan điểm: Chống người thi hành công vụ là hành vi 12
  19. dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật [5, tr.518] Nhận xét: Các quan điểm trên đều thống nhất ở nội hàm khái niệm tội chống người thi hành công vụ là đó là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Trong BLHS hiện hành nhà làm luật chưa đưa ra khái niệm pháp lý về tội chống người thi hành công vụ nhưng khái niệm tội phạm đã được ghi nhân tại Điều 8 BLHS, theo đó tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đây là khái niệm pháp lý tương đối hoàn chỉnh về tội phạm, là cơ sở quan trọng để xây dựng khái niệm các tội phạm cụ thể, trong đó có tội chống người thi hành công vụ. Tội chống người thi hành công vụ là tội phạm được pháp điển hóa lần đầu tiên trong BLHS năm 1985 cho đến nay. Tội này được quy định tại Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính, đó là nhóm các tội xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước, của người thi hành công vụ trong các lĩnh vực quản lý xã hội, trong một số trường hợp còn gây thiệt hại về tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của người khác, với hành vi “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật” [25, Điều 330]. Như vậy, hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc cưỡng ép người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật bằng các thủ đoạn khác nhau 13
  20. (như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần), những hành vi này đã xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, làm giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan, tổ chức đó và có thể xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của chính người thi hành công vụ. Do vậy, người thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ phải là người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và mong muốn thực hiện hành vi đó nhằm xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của người thi hành công vụ nói riêng và của cơ quan nhà nước nói chung. Từ những nội dung được phân tích trên có thể hiểu, tội chống người thi hành công vụ như sau: Tội chống người thi hành công vụ là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, bằng cách sử dụng các thủ đoạn khác nhau để cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, do người có năng lực TNHS, đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật thực hiện, qua đó xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính được luật hình sự bảo vệ. 1.1.2. Dấu hiệu đặc trưng của tội chống người thi hành công vụ Từ phân tích tại tiểu mục 1.1.1, có thể rút ra một số dấu hiệu đặc trưng của tội chống người thi hành công vụ, như sau: Thứ nhất, tội chống người thi hành công vụ xâm phạm hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính, tố tụng và thi hành án, xâm phạm sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, làm giảm hiệu quả quản lý của các cơ quan này. Tội chống người thi hành công vụ xâm hại đến các quan hệ xã hội trên thông qua việc tác động trực tiếp đến người đang thi hành công vụ. Thứ hai, chủ thể của tội chống người thi hành công vụ là chủ thể thường, chỉ đòi hỏi thỏa mãn điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự (đủ 14
  21. tuổi chịu TNHS theo quy định của luật và không thuộc trường hợp trong tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển do mắc bệnh). Thứ ba, hành vi phạm tội của tội này là hành vi cố ý trực tiếp cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ. Việc cản trở này có thể được thực hiện bằng các thủ đoạn như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác có khả năng cản trở người thi hành công vụ. 1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ Tội chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 330 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), thuộc Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính, đó là nhóm các tội xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước, của người thi hành công vụ trong các lĩnh vực quản lý xã hội, trong một số trường hợp còn gây thiệt hại về tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của người khác. Các dấu hiệu pháp lý của tội danh này được thể hiện, như sau: * Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Đối với tội chống người thi hành công vụ thì khách thể trực tiếp của tội phạm là hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của người thi hành công vụ nói riêng, của cơ quan nhà nước nói chung. Do vậy, hành vi này được quy định nhằm giữ gìn trật tự công cộng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của người thi hành công vụ. Để xâm phạm đến những khách thể này thì, người phạm tội phải tác động vào đối tượng tác động của tội phạm, đây là bộ phận của khách thể, thông qua đối tượng này mà xâm phạm đến khách thể. Đối tượng tác động 15
  22. của tội phạm này là người đang thi hành công vụ, thông qua việc xâm phạm đến họ mà xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ công. *Mặt khách quan của tội phạm Đây là những biểu hiện của tội phạm ra ngoài thế giới khách quan, gồm: hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, những yếu tố khác của mặt khách quan như: thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện phạm tội; v.v . - Về hành vi khách quan: Hành vi khách quan của tội này được thể hiện là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. + Dùng vũ lực được hiểu là hành vi của người phạm tội dùng sức mạnh thể chất (đấm, đá, bóp cổ, sử dụng công cụ, phương tiện như dao, gạch đá ) tác động vào cơ thể của người thi hành công vụ với mục đích cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. + Đe dọa dùng vũ lực được hiểu là sự tác động bằng cử chỉ, lời nói có tính răn đe, uy hiếp tinh thần để làm cho người thi hành công vụ lo sợ vũ lực sẽ xảy ra. Sự đe dọa phải xảy ra trên thực tế và có cơ sở để người bị đe dọa tin rằng lời đe dọa đó sẽ được thực hiện nếu người thi hành công vụ tiếp tục thực hiện công vụ của mình hoặc không thực hiện các hành vi trái pháp luật theo yêu cầu của người phạm tội. + Thủ đoạn khác được hiểu là các thủ đoạn tuy không phải là dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực nhưng vẫn có thể uy hiếp được tinh thần người thi hành công vụ như đe doạ sẽ công bố những tin tức, tài liệu bất lợi cho người thi hành công vụ hoặc cho người thân thích của họ, đe doạ huỷ hoại tài sản; 16