Luận văn Thuế thu nhập đối với công ty hợp danh và doanh nghệp tư nhân theo pháp luật Việt Nam

pdf 118 trang vuhoa 25/08/2022 8660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thuế thu nhập đối với công ty hợp danh và doanh nghệp tư nhân theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_thue_thu_nhap_doi_voi_cong_ty_hop_danh_va_doanh_ngh.pdf

Nội dung text: Luận văn Thuế thu nhập đối với công ty hợp danh và doanh nghệp tư nhân theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ LAN HƢƠNG THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI CÔNG TY HỢP DANH VÀ DOANH NGHỆP TƢ NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà nội - 2010
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ LAN HƢƠNG THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI CÔNG TY HỢP DANH VÀ DOANH NGHỆP TƢ NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Ngô Huy Cƣơng Hà nội - 2010 1
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN ĐỖ THỊ LAN HƢƠNG 2
  4. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các hình MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ THU NHẬP 6 ĐỐI VỚI CÔNG TY HỢP DANH VÀ DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN 1.1 Khái quát về thuế thu nhập 6 1.1.1. Khái niệm thu nhập và thuế thu nhập 6 1.1.2. Cở sở đời của thuế thu nhập 7 1.1.3. Các loại thuế thu nhập 8 1.1.4. Nguyên tắc đánh thuế thu nhập 11 1.1.5. Đối tượng nộp thuế thu nhập| 14 1.2. Khái quát về Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân 19 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của Công ty hợp danh 19 1.2.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân 24 1.3. Những vấn đề pháp lý đặt ra về thuế thu nhập liên quan đến Công ty 33 hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân 1.4. Khảo sát kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài về thuế thu nhập liên 38 quan đến Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân và một số bài học cho Việt Nam 1.4.1. Thuế thu nhập theo pháp luật Nhật Bản 39 1.4.2. Thuế thu nhập theo pháp luật Trung Quốc 41 1.4.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 44 3
  5. Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI CÔNG 47 TY HỢP DANH VÀ DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM TỪ 1990 ĐẾN NAY 2.1. Thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân 47 giai đoạn 1990 - 2008 2.1.1. Khái quát pháp luật về thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và 47 Doanh nghiệp tư nhân giai đoạn 1990-2008 2.1.2. Đánh giá tình hình thực thi thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và 58 Doanh nghiệp tư nhân giai đoạn 1990-2008 2.2. Thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân áp 69 dụng từ 2009 2.2.1. Những nội dung cơ bản của chính sách thuế thu nhập đối với Công ty 69 hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân 2.2.2. Một số nhận định khái quát về chính sách thuế TNDN và TNCN đối 83 với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân từ năm 2009 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THUẾ THU NHẬP ĐỐI 92 VỚI CÔNG TY HỢP DANH VÀ DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM 3.1. Định hướng hoàn thiện chính sách thuế thu nhập đối với Công ty hợp 92 danh và Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam 3.2. Quan điểm hoàn thiện chính sách thuế thu nhập đối với Công ty hợp 94 danh và Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam 3.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế thu nhập đối với Công ty hợp 96 danh và Doanh nghiệp tư nhân 3.3.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập đối với Công ty hợp 96 danh và Doanh nghiệp tư nhân 3.3.2. Công tác tổ chức thực hiện 99 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107 4
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CTHD : Công ty hợp danh DNTN : Doanh nghiệp tư nhân TNCN : Thu nhập cá nhân TNDN : Thu nhập doanh nghiệp 5
  7. DANH MỤC BẢNG, BIỂU Số hiệu Tên bảng, biểu Trang bảng, biểu 1.1 So sánh sự giống và khác nhau giữa thành viên hợp 28 danh và thành viên góp vốn 1.2 So sánh mức thuế thực tế phải nộp của cá nhân kinh 36 doanh và DNTN 2.1 So sánh Pháp lệnh thuế thu nhập đối với ngƣời có thu 54 nhập cao giai đoạn 1991-2004 2.2 Số thuế thu nhập đối với ngƣời có thu nhập cao trong 64 tổng thu ngân sách Nhà nƣớc giai đoạn 1991 – 2008 2.3 Số lƣợng ngƣời nộp thuế thu nhập đối với ngƣời có thu 66 nhập cao qua các năm 2.4 Số thu từ thuế TNDN và thuế TNCN của cả nƣớc năm 83 2009 6
  8. DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ Số hiệu Tên bảng, biểu Trang bảng, biểu 1.1 Doanh nghiệp tƣ nhân 24 1.2 Công ty hợp danh thông thƣờng 26 1.3 Công ty hợp danh hữu hạn 26 2.1 Thu nhập khởi điểm kê khai thuế thu nhập cao 55 2.2 Thuế TNDN trong tổng thu thuế. 59 2.3 Mức động viên thuế TNDN của DNTN vào NSNN 60 2.4 Mức động viên thuế TNDN của CTHD vào NSNN 61 2.5 Thuế thu nhập đối với ngƣời có thu nhập cao trong 65 tổng thu ngân sách Nhà nƣớc giai đoạn 1991-2008 7
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử - thuế ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại, phát triển của Nhà nước. Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy một khi Nhà nước chỉ làm nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ở chừng mực nhất định. Cùng với sự phát triển của xã hội, Nhà nước có thêm nhiệm vụ điều hành, quản lý nền kinh tế, chăm lo đời sống, văn hóa xã hội của cộng đồng để đảm bảo cho việc chi tiêu của Nhà nước thì nhu cầu tất yếu là phải gia tăng nguồn thu tài chính và thuế được Nhà nước sử dụng như một phương thức cơ bản để động viên nguồn tài chính cho ngân sách quốc gia. Mặc dù vậy, mức động viên này phải phù hợp với tình hình và mức độ tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập quốc dân, khả năng đóng góp của dân điều đó có nghĩa phải đảm bảo nguyên tắc hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và người nộp thuế. Về vấn đề này, Montesqiueu đã viết: “Phải vận dụng trí thông minh và tính thận trọng để tính toán, điều chỉnh giữa hai phần: phần lấy của dân và phần để lại cho dân. Không phải là tính toán cái gì mà dân có thể đóng góp mà cần tính toán dân phải đóng góp cái gì. Nếu tính những gì người dân có thể đóng góp thì phải tính khả năng đóng góp thường xuyên ở mức ít nhất” [23] Ở Việt Nam, trong tiến trình đổi mới kinh tế và đặc biệt là trước xu thế toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, sự giảm dần hàng rào thuế quan do yêu cầu của tự do hóa thương mại là một tất yếu, ảnh hưởng và làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách Nhà nước; bên cạnh đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu thu ngân sách cũng thay đổi theo hướng nguồn thu tích lũy từ trong nước tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân sách Nhà nước thì việc xây dựng hệ thống chính sách thuế minh bạch, đơn giản và hiệu quả là vô cùng quan trọng 8
  10. góp phần đảm bảo cho sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, nâng cao tỷ trọng thu nội địa để ổn định thu ngân sách nhà nước. Tuy vậy, yêu cầu đảm bảo nguồn thu ngân sách, đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng cao của Chính phủ không có nghĩa là động viên với bất kỳ giá nào, việc động viên nộp thuế phải phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế cũng như khả năng chi trả của các tầng lớp dân cư, tôn trọng nguyên tắc đánh thuế theo khả năng để đảm bảo tính khả thi của chính sách thuế. Xét trên phương diện thuế thu nhập và theo nguyên tắc không đánh thuế trùng thì mỗi khoản thu nhập phát sinh chỉ phải chịu một lần thuế. Điều đó có nghĩa là nếu một khoản thu nhập đã chịu thuế thu nhập cá nhân thì đương nhiên không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp và ngược lại, nếu chịu thuế thu nhập doanh nghiệp thì không thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân nữa. Tuy nhiên quy định về thuế thu nhập liên quan đến Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay chưa thực sự tạo ra sự công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế cũng như trong môi trường kinh doanh giữa các doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đề ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện chính sách thuế thu nhập theo pháp luật hiện hành của Việt Nam đã và đang là vấn đề cấp thiết được đặt ra. Trong khả năng của mình, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân theo pháp luật Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay, ở nước ta đã có một số tài liệu, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân hoặc nghiên cứu về loại hình Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân ở những góc độ khác nhau, chẳng hạn như: - “Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam” – Tác giả: PGS.TS Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, NXB Tài chính (2002) - “Luật thuế thu nhập cá nhân đối với vấn đề đánh trùng và bỏ lọt thuế” – Tác giả: Ths. Đào Ngọc Báu – Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh - “Luật thuế thu nhập doanh nghiệp mới tác động thế nào tới các doanh nghiệp” – Tạp chí tài chính số 02/2009 9
  11. - “Mối quan hệ giữa các sắc thuế thu nhập trong hệ thống thuế” – Tác giả: Nguyễn Văn Hiệu, Tạp chí thuế Nhà nước số 02/2002 - “Pháp luật về Doanh nghiệp tư nhân – thực trạng và phương hướng đổi mới” – Luận văn thạc sỹ của tác giả Đỗ Huy Trung (1997) - “Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện” – Luận án Phó tiến sĩ khoa học của tác giả Vũ Xuân Trường (1995) - “Thuế - Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế” – Tác giả: PGS.TS Quách Đức Pháp (1996) - “Thuế thu nhập – Thực trạng và kiến nghị” – Tác giả Vũ Văn Trường, Tạp chí tài chính số 06/1994 Các tài liệu, công trình trên đây hoặc chỉ đề cập một cách riêng lẻ vấn đề về thuế thu nhập, về Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân, hoặc chỉ đề cập một số khía cạnh vấn đề về thuế thu nhập cá nhân đối với các loại hình doanh nghiệp, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về vấn đề thuế thu nhập đối với công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam. Thực tế triển khai các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này đã cho thấy còn nhiều bất cập, chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện chính sách thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu sự tác động, tương tác, ảnh hưởng của thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân Nhiệm vụ nghiên cứu: Hệ thống hóa các vấn đề liên quan đến thuế thu nhập, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân Thống kê phân tích các vấn đề về thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân trong thời gian qua, trên cơ sở đó đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân. 10
  12. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam Phạm vi nghiên cứu: Đây là một đề tài rất rộng, trong phạm vi luận văn này tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân. Phần thuế thu nhập cá nhân đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân sẽ được tác giả nghiên cứu kỹ trong một đề tài khác. Thời gian nghiên cứu sẽ được tác giả chọn trong khoảng từ năm 1990 đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng nhiều phương pháp như thống kê, so sánh, điều tra thực tiễn phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa từ đó rút ra những ưu điểm trong quy định của pháp luật Việt Nam về thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân, đồng thời làm rõ được những mặt còn hạn chế, bất cập trong các quy định này; nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trong việc xây dựng và áp dụng các quy định pháp lý về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhâp cá nhân đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân; xem xét tính phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam trên cơ sở đó đưa ra định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân. 6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn Hệ thống lại được các vấn đề về thuế thu nhập, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân. Trên cơ sở nghiên cứu sự ảnh hưởng của thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân sẽ có những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách thuế thu nhập đối với hai loại hình Doanh nghiệp này. 11
  13. 7. Bố cục của luận văn Luận văn gồm 3 chương Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân theo pháp luật Việt Nam. Chương 2. Thực trạng chính sách thuế thu nhập đối với Công ty Hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân từ năm 1990 đến nay. Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện thuế thu nhập đối với Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân theo pháp luật Việt Nam. 12
  14. Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI CÔNG TY HỢP DANH VÀ DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN 1.1. Khái quát về thuế thu nhập 1.1.1. Khái niệm thu nhập và thuế thu nhập 1.1.1.1. Khái niệm thu nhập Nhà kinh tế học người Mỹ Paul .A.Samuelson đưa ra điṇ h nghiã về thu nhâp̣ như sau: “thu nhập là tổng số tiền kiếm được hoặc thu góp được trong một khoảng thời gian nhất định, (thường là một năm)” [29]. Thuâṭ ngữ “tiền” ở đây đươc̣ hiểu là những khoản thu dưới dạng tiền tệ hay hiện vật được tính thành tiền , nó bao gồm cả phần sản xuất để tự tiêu dùng , nhâṇ đươc̣ từ các hoaṭ đôṇ g sản xuất , kinh doanh, dịch vụ, từ lao đôṇ g hoăc̣ không lao đ ộng, từ quyền sở hữu về tài sản, về tiền mà có hoăc̣ tiêu dùng các dic̣ h vu ̣không phải thanh toán. Theo từ điển Winkipedia: Thu nhập trong kinh tế học vi mô là phần chênh lệch giữa khoản thu về và khoản chi phí đã bỏ ra. Loại thu nhập nay lại gồm thu nhập từ lao động (tiền công, tiền lương bao gồm cả lương hưu, các khoản trợ cấp bao gồm cả học bổng) và thu nhập tài chính (lãi tiết kiệm, lãi mua bán chứng khoán, thu từ cho thuê bất động sản ) và các thu nhập khác (tiền thưởng ) [40]. Điṇ h nghĩa về thu nhập trong từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra như sau , thu nhập là số tiền, hàng hóa hoặc dịch vụ mà một cá nhân, công ty hay một nền kinh tế nhận trong một khoảng thời gian nhất định theo tháng, quý hoặc năm”, thu nhập được tạo nên từ lao động, từ chuyển giao tài sản [39]. Thu nhâp̣ là môṭ phaṃ trù trừ u tươṇ g . Khái niệm thu nhập dưới góc độ kinh tế và khái niêṃ thu nhâp̣ dưới góc đô ̣pháp lý là không hoàn toàn giống nhau . Xét dưới góc độ kinh tế, thu nhập là tổng các giá trị nhận được, thu được trong khoảng thời gian nhất định của một chủ thể (các giá trị ở đây được biểu hiện bằng tiền tệ, giá trị các hình thức vật chất, phi vật chất, không phân biệt nguồn hình thành thu nhập là từ lao động hay tài sản); Xét dưới góc độ pháp lý, thu nhập là các khoản tiền hoặc vật chất mà các chủ thể nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc từ các hành vi hợp pháp khác và được xác định trên cơ sở chênh lệch giữa 13
  15. doanh thu và chi phí tạo ra doanh thu và thu nhập khác. Có thể khái quát thu nhâp̣ là toàn bô ̣quyền lơị kinh tế mà cá nhân hoăc̣ tổ chứ c nhâṇ đươc̣ trong môṭ thời kỳ nhất điṇ h (thường là môṭ năm ) bao gồm cả chi phí bỏ ra và giá trị gia tăng nhận về từ việc bỏ ra đó. Về hình thức, quyền lợi kinh tế này có thể là tiền bạc, hàng hóa, dịch vụ hay một đặc quyền ưu đãi nào đó mà cá nhân hoặc tổ chức này chắc chắn nhận được. Về nguồn gốc, quyền lợi kinh tế này có thể xuất phát từ hoạt động kinh doanh (bao gồm cả sản xuất, buôn bán đầu tư. Hoạt động làm công có thể xem như là hoạt động cung cấp sức lao động) và các hoạt động không kinh doanh. Trong đó, thu nhập từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gọi là doanh thu, thu nhập từ các hoạt động không kinh doanh của doanh nghiệp gọi là thu nhập khác. 1.1.1.2. Khái niệm Thuế thu nhập Thuế thu nhập là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập của các tổ chức kinh doanh, các cá nhân có thu nhập phát sinh từng lần hoặc trong một khoảng thời gian xác định từ một số nguồn nhất định. Nó biểu hiện sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế thu nhập không có khả năng chuyển giao gánh nặng cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế. Cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, thu nhập quốc dân đầu người ngày càng lớn thì khả năng huy động nguồn tài chính thông qua thuế thu nhập ngày càng nhiều. Với ưu điểm đảm bảo sự công bằng trong việc điều tiết thu nhập thặng dư của người nộp thuế, trong hệ thống thuế ở các quốc gia, thuế thu nhập là loại thuế áp dụng có tính phổ biến và rất được coi trọng, đặc biệt ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. 1.1.2. Cơ sở ra đời của thuế thu nhập Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập đảm bảo công bằng xã hội. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường, việc phân phối thu nhập chủ yếu thông qua cơ chế thị trường, đó là khả năng lao động, chất lượng lao động và sức mạnh về tư liệu sản xuất, tài sản, tiền vốn và một số yếu tố khác. Ai có được nhiều những yếu tố trên sẽ có ưu thế chiếm giữ phần thu nhập xã hội nhiều 14
  16. hơn. Sự phân phối mang tính kinh tế này tất yếu dẫn đến sự phân cực giàu nghèo. Rõ ràng trong xã hội hiện đại thu nhập của mỗi tổ chức, cá nhân, gia đình là không thể đồng đều trong khi đó những nhu cầu sống tối thiểu thì lại gần như nhau. Những người không có khả năng lao động, không có thu nhập và thu nhập quá thấp không đảm bảo cho mức sống sinh hoạt tối thiểu cần có một lượng thu nhập nhất định để mưu sinh, Nhà nước cần thiết phải bù đắp một phần cho những người này nhằm giúp họ thoát khỏi khó khăn, đảm bảo cho họ có được mức sinh hoạt tối thiểu trong cuộc sống. Thuế thu nhập chính là một trong những công cụ để Nhà nước thực hiện yêu cầu này. Hơn nữa, việc đánh thuế vào người có nhiều thu nhập cũng là lẽ công bằng, bởi cũng nhờ vào xã hội mà họ có được nguồn thu nhập đó. Thứ hai, sự ra đời của thuế thu nhập còn bắt nguồn từ nhu cầu tài chính của Nhà nước, Nhà nước nào cũng cần có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của mình. Cùng với xu thế phát triển kinh tế xã hội, khả năng mang lại thu nhập cho mỗi người ngày càng cao, Nhà nước tìm thấy khả năng huy động nguồn tài chính to lớn cho mình thông qua thuế thu nhập. Thứ ba, thuế thu nhập là công cụ để Nhà nước quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội. Một trong những lý thuyết căn bản của Keynes là lý thuyết về tính hữu dụng giảm dần của thu nhập - mức thu nhập càng cao, đến một mức độ nhất định thì tính hữu dụng của nó càng thấp. Do vậy, để tăng phúc lợi xã hội, cần thiết phải điều tiết bớt thu nhập của những đối tượng có thu nhập cao và phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập thấp hơn để tăng tính hữu dụng của thu nhập toàn xã hội. Trong xã hội hiện đại, Nhà nước ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều tiết các mặt hoạt động kinh tế, xã hội của cộng đồng. Thu nhập của mỗi cá nhân, tổ chức hay một quốc gia là chỉ tiêu quan trọng quyết định vấn đề tích lũy, đầu tư, tiết kiệm, tiêu dùng đến vấn đề phân bổ nguồn lực trong xã hội. Thông qua việc đánh thuế vào thu nhập với những cách thức khác nhau, Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết của mình. 1.1.3. Các loại thuế thu nhập Do thuế thu nhập có đối tượng đánh thuế là thu nhập phát sinh nên một trong 15
  17. những nội dung quan trọng của chính sách thuế thu nhập là phải xác định được thu nhập chịu thuế. Trong nền kinh tế thị trường các khoản thu nhập của tổ chức, cá nhân rất đa dạng phong phú, việc đưa ra định nghĩa tổng quát về thuế thu nhập là rất khó. Thông thường các nhà nghiên cứu kinh tế, pháp lý thường đưa ra phương pháp liệt kê các khoản thu nhập của tổ chức, cá nhân. Theo đối tượng chủ thể được hưởng thu nhập, thuế thu nhập cấu thành hệ thống chính sách thuế thu nhập là: - Thuế thu nhập doanh nghiệp; - Thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, vì các lý do đặc thù, đôi khi người tra tách riêng một số thuế thu nhập theo loại thu nhập để tiện điều chỉnh như: - Thuế thu nhập đánh vào hoa lợi sử dụng đất; - Thuế thừa kế tài sản; - Thuế đánh vào quà biếu, quà tặng; - Thuế đánh vào thu nhập trên vốn; - Thuế đánh vào cổ phiếu, trái phiếu. Tùy theo các hình thức, quy mô của từng thu nhập phát sinh và chính sách của nhà nước với mỗi loại thu nhập, mà hệ thống chính sách thuế thu nhập của từng nước có thể được thiết kế khác nhau. Tuy nhiên, dù có thiết kế như thế nào thì hệ thống chính sách thuế thu nhập cũng phải dựa theo một trong hai mô hình sau: * Mô hình hệ thống chính sách thuế cổ điển. Trong mô hình thuế thu nhập cổ điển, các loại thuế thu nhập không liên thông với nhau. Ở đây, dòng thu nhập bị cắt quãng để đánh thuế một cách độc lập, vì vậy không thể có điều kiện để kiểm tra sự đầy đủ của các dòng thu nhập nhằm hạn chế hiện tượng che giấu thu nhập trong mối quan hệ giữa hoạt động tìm kiếm thu nhập và hoạt động tiêu dùng thu nhập. * Mô hình hệ thống chính sách thuế thu nhập liên kết khấu trừ. Là mô hình hệ thống chính sách thuế thu nhập có liên hệ chặt chẽ giữa các sắc thuế trong hệ thống. Trong hệ thống này, dòng thu nhập được phát sinh trong 16
  18. mỗi chu kỳ đều được theo dõi chặt chẽ. Việc đánh thuế ở hình thức thu nhập trước đều được coi như phần đã ứng nộp khi tính thuế cho hình thức thu nhập sau. Các loại thu nhập đã bị đanh thuế ở khâu trước sẽ được khấu trừ hoặc được xác định không là đối tượng bị đánh thuế đối với sắc thuế đánh sau. Về lý thuyết, thực hiện mô hình này có thể cho các nhà quản lý một cái nhìn tổng thể dòng thu nhập luân chuyển trong một thời kỳ của nền kinh tế, qua đó có thể đưa ra những chính sách về thu nhập kịp thời để điều tiết nền kinh tế mà vẫn không bị e ngại bị ảnh hưởng đến tổng thu nhập quốc gia trong một thời kỳ. Việc khấu trừ thu nhập bị đánh thuế cũng sẽ hạn chế tình trạng tránh thuế. Việc kiểm tra, kiểm soát thu nhập được thực hiện thông suốt trên mối quan hệ nhân quả giữa hành vi kiếm thu nhập và hành vi sử dụng thu nhập. Tuy nhiên, mô hình này cũng có khá nhiều hạn chế: Thứ nhất, tính khả thi của mô hình này thấp. Trong thực tế, việc theo dõi dòng thu nhập của từng thời kỳ qua các hình thức luân chuyển trong nền kinh tế rất khó khăn. Việc xác định nguồn gốc và các mối quan hệ giữa các loại thu nhập để tiến hành khấu trừ nhiều khi không thực hiện được dễ dàng như đã định. Thứ hai, với việc tạm thu và khấu trừ của hệ thống làm cho việc thu chi nguồn ngân sách từ thuế thu nhập sẽ không ổn định, gây khó khăn cho việc hoạch định các chiến lược liên quan đến tổng thu ngân sách Nhà nước. Thứ ba, công tác quyết toán và khấu trừ phát sinh nhiều, làm cho thủ tục hành chính gia tăng, chi phí xã hội cho việc thu thuế cũng gia tăng theo. Thứ tư, việc miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp không có tác dụng thực tế, vì những khoản không bị đánh thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ phải bị đánh thuế thu nhập cá nhân hoặc thuế thu nhập dạng khác ở mức độ cao hơn. Tuy nhiên, nếu có thể quản lý tốt dòng thu nhập trên cơ sở áp dụng công nghệ máy tính trong việc khấu trừ tốt, mô hình thuế thu nhập liên kết khấu trừ mang tính khoa học, hiệu quả xã hội rất lớn. Thuế thu nhập đã được áp dụng từ lâu trên thế giới: ở Anh năm 1799, ở Pháp năm 1842, ở Nhật năm 1887, ở Mỹ năm 1913, ở Trung Quốc năm 1936 ở các 17
  19. nước phát triển, thuế thu nhập thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu từ thuế. Tuy nhiên, mức thuế cao hay thấp, đánh vào tổng thu nhập hay đánh vào tổng khoản thu nhập khác nhau của các chủ thể thường phụ thuộc vào quan điểm điều tiết thu nhập và mục tiêu đặt ra trong chính sách phân phối thu nhập của từng nước trong từng thời kỳ nhất định. Nhìn chung, hầu hết các nước đều áp dụng thống nhất hai loại thuế: thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập công ty. Hiện nay ở Việt Nam, thuế thu nhập được thực hiện dưới hai hình thức: Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp (sự khác biệt về tên gọi là do những nguyên nhân lôgic của những sự khác nhau trong ngôn ngữ luật pháp giữa các nước quy định về hình thức đầu tư bởi những loại công ty khác nhau và sự khác nhau về chính sách thuế của mỗi nước đối với các loại công ty này). 1.1.4. Nguyên tắc đánh thuế thu nhập Nguyên tắc thứ nhất, đánh thuế trên cơ sở thu nhập hiện hữu Cần khẳng định là không phải mọi khoản thu nhập phát sinh đều được xếp vào diện thu nhập có thể bị đánh thuế. Thuế thu nhập chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế. Thu nhập chịu thuế là phần thu nhập quy định cơ sở đánh thuế thu nhập. Vì thế, thu nhập chịu thuế được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập nhận được sau khi miễn trừ một số khoản chi phí của người nộp thuế. Tùy theo chính sách thuế của mỗi nước mà nội dung, phương pháp xác định các khoản thu nhập phát sinh đều có khả năng xếp vào thu nhập chịu thuế theo nguyên tắc: Một là, thu nhập có thể bị đánh thuế là bất cứ khoản phát sinh nào dù bằng tiền hay hiện vật, không phân biệt từ nguồn sản xuất, kinh doanh hay lao động, đầu tư sau khi loại trừ những loại thu nhập được pháp luật quy định không bị đánh thuế thu nhập. Thu nhập được quy định không bị đánh thuế thu nhập thường là những khoản còn lại sau khi nộp thuế thu nhập hoặc một loại thuế tương đương ở một khâu nào đó. Chúng cũng có thể là những khoản thu nhập nhỏ, lặt vặt tổ chức thu không có hiệu quả. Nói cách khác, thu nhập chịu thuế phải gồm hầu hết các khoản thu nhập chủ yếu phát sinh, không phân biệt hình thái và nguồn gốc của chúng. Hai là, thu nhập chịu thuế phải là thu nhập ròng. Điều này có nghĩa là thu 18
  20. nhập chịu thuế phải là thu nhập sau khi đã trừ các chi phí hợp lý để tạo ra nó và các khoản thu nhập được phép giảm trừ. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp thì thu nhập chịu thuế là doanh thu đã trừ các chi phí kinh doanh hợp lý. Đối với thuế thu nhập cá nhân thì thu nhập chịu thuế là thu nhập sau khi đã trừ đi các chi phí cần thiết hợp lý tạo ra thu nhập đó. Trên thực tế, tính chất hợp lý của các loại chi phí được khấu trừ phụ thuộc vào năng lực quản lý của nhà nước trong lĩnh vực thuế. Để giản tiện và giảm chi phí hành thu, nhiều nơi quy định việc trừ các chi phí cần thiết thông qua việc định ra mức khởi điểm chịu thuế hoặc suất miễn thu. Ba là, việc xác định thu nhập chịu thuế phải đảm bảo tính khả thi cho công tác quản lý. Một số nhà kinh tế đưa ra quan điểm cho rằng nên đánh thuế trên cơ sở thu nhập hoàn chỉnh, tức là thu nhập hiện hữu cộng với lãi vốn (dù lãi có thực hay mới chỉ là hứa hẹn). Nhưng ý tưởng này có tính khả thi kém do sự phức tạp và không chắc chắn của việc xác định thu nhập chịu thuế. Vì vậy, đa số các nhà hoạch định chính sách thuế đều nhất trí cho rằng thu nhập chịu thuế thu nhập chỉ nên giới hạn trong phạm vi thu nhập hiện hữu hoặc nếu có đánh thuế trên lãi vốn cũng chỉ đánh với thuế suất 0% mà thôi. Ở hầu hết các nước thu nhập chịu thuế được xác định trong các trường hợp cụ thể như: Thu nhập phát sinh từ những giao dịch trên thị trường dưới hình thức tiền tệ; hoặc thu nhập phát sinh từ những giao dịch trên hình thức tiền tệ sau khi trừ đi các khoản chi phí khách quan gắn liền với quá trình tạo ra thu nhập. Và tùy theo điều kiện cũng như hoàn cảnh của từng nước mà các khoản miễn trừ nay được quy định khác nhau. Nguyên tắc thứ hai, đánh thuế thu nhập theo phương pháp lũy tiến Thuế thu nhập là loại thuế trực thu, thường được các nước xem là công cụ hữu hiệu để điều tiết thu nhập đảm bảo cho sự công bằng xã hội. Để đáp ứng tốt đòi hỏi này, thông thường thuế thu nhập được thiết kế theo biểu thuế lũy tiến. Phương pháp này một mặt có tác dụng tích cực trong việc khắc phục tính lũy thoái của thuế gián thu, mặt khác hạn chế sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, bởi lẽ, đây là phương pháp hiệu quả nhất để đánh thuế theo “khả năng nộp thuế” của đối tượng. 19
  21. Thuế suất lũy tiến đảm bảo tỷ lệ nộp thuế so với thu nhập càng tăng khi mức thu nhập tăng lên. Như vậy, thu nhập chịu thuế càng cao thì thuế suất thuế thu nhập cũng càng cao. Đây là một phương pháp có chế độ ổn định tự động cao, làm cho hệ thống thuế trở nên linh hoạt hơn. Mặc dù vậy, để tính được mức thuế cho phù hợp là vấn đề không hề đơn giản. Vào cuối thế kỷ XIX, một số nhà kinh tế cho rằng, khi thu nhập càng tăng thì độ thỏa dụng biên của thu nhập càng giảm. Thuế thu nhập và sự phân phối lại thu nhập của Nhà nước từ người giàu sang người nghèo làm tăng tổng thu nhập biên của xã hội. Vì vậy, áp dụng thuế suất lũy tiến đánh vào người có thu nhập cao sẽ làm tăng tính hữu dụng đối với thu nhập và giảm sự mất mát của xã hội. Đây là cơ sở ra đời cho việc áp dụng tính lũy tiến trong việc nộp thuế. Trên thực tế, nguyên tắc lũy tiến thường được sử dụng nhiều đối với thuế TNCN. Thuế TNDN thông thường không áp dụng thuế suất lũy tiến mà áp dụng thuế suất ổn định. Có quan điểm cho rằng, thuế TNDN, xét về mặt bản chất chỉ là một hình thức thuế ứng trước của thuế TNCN, người chịu thuế cuối cùng là các cá nhân góp vốn để hình thành ra các doanh nghiệp đó chứ không phải là bản thân các doanh nghiệp. Vì vậy, việc áp dụng thuế suất lũy tiến đối với thuế TNDN sẽ chỉ làm phức tạp thêm hệ thống thuế, đồng thời gây ra tâm lý bất lợi về gánh nặng thuế cho các doanh nghiệp. Lập luận này đặc biệt đúng với các nước có nền kinh tế tư nhân hóa ở mức độ cao. Nguyên tắc thứ ba, quy ước thời gian để xác định thu nhập chịu thuế. Việc tạo ra thu nhập có tính chất tương đối về mặt thời gian. Những khoản thu nhập nhận được ở thời điểm hiện tại có thể là kết quả của các hoạt động lao động hoặc đầu tư trong quá khứ, nhưng cũng có thể chỉ là thu nhập ứng trước của các hoạt động hứa hẹn trong tương lai. Thực tế là thu nhập phát sinh trong khoảng thời gian này có thể sẽ khác với thu nhập phát sinh trong khoảng thời gian khác. Do vậy, để đảm bảo tính khả thi và sự công bằng trong đánh thuế, người ta thường phân đoạn thời gian để việc tính thuế được đơn giản, thuận tiện hơn. Thông thường, khoảng thời gian một năm được chấp thuận để làm căn cứ xác định các cơ sở tính thuế. Năm tính thuế thường trùng với năm ngân sách. Một số quốc gia áp dụng năm 20