Luận văn Thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam

pdf 91 trang vuhoa 25/08/2022 8800
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_thuc_trang_phap_luat_ve_bao_hiem_xa_hoi_tu_nguyen_o.pdf

Nội dung text: Luận văn Thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ LAN ANH THùC TR¹NG PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI Tù NGUYÖN ë VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ LAN ANH THùC TR¹NG PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI Tù NGUYÖN ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HIỀN PHƢƠNG HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2015 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Võ Lan Anh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 6 1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội tự nguyện 6 1.2. Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội tự nguyện 9 1.3. Vai trò của Bảo hiểm xã hội tự nguyện 12 1.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật đối với Bảo hiểm xã hội tự nguyện 13 1.4.1. Đối tƣợng tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện 15 1.4.2. Các chế độ Bảo hiểm xã hội tự nguyện 16 1.4.3. Quỹ Bảo hiểm xã hội tự nguyện 18 1.4.4. Quản lý và tổ chức thực hiện Bảo hiểm xã hội tự nguyện 19 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 21 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM 22 2.1. Thực trạng quy định pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện 22 2.1.1. Đối tƣợng tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện 24 2.1.2. Về mức đóng Bảo hiểm xã hội tự nguyện 27 2.1.3. Các chế độ Bảo hiểm xã hội tự nguyện 29 2.1.4. Quỹ Bảo hiểm xã hội tự nguyện 38
  5. 2.1.5. Quản lý và tổ chức thực hiện Bảo hiểm xã hội tự nguyện 41 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam 44 2.2.1. Kết quả thực hiện pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện 44 2.2.2. Hạn chế trong thực hiện pháp luật Bảo hiễm xã hội tự nguyện 50 2.2.3. Nguyên nhân hạn chế 56 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 60 Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN Ở VIỆT NAM 61 3.1. Các yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện 61 3.1.1. Phù hợp với chính sách và định hƣớng phát triển Bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nƣớc 61 3.1.2. Đảm bảo công bằng trong bảo vệ thu nhập của mọi ngƣời lao động 63 3.1.3. Mở rộng phạm vi các đối tƣợng tham gia hƣớng tới bao phủ toàn bộ lực lƣợng lao động xã hội 63 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện 65 3.2.1. Bổ sung thêm các chế độ cho Bảo hiểm xã hội tự nguyện nhƣ chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp 66 3.2.2. Xây dựng chính sách hỗ trợ của Nhà nƣớc về mức đóng Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho một số nhóm đối tƣợng đặc thù 69 3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện 72 3.3.1. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật về BHXH tự nguyện theo hƣớng đa dạng hóa các hình thức triển khai và phối hợp sự tham gia của nhiều tổ chức đoàn thể 72
  6. 3.3.2. Tạo mọi điều kiện để ngƣời lao động dễ dàng tiếp cận và tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện 74 3.3.3. Nâng cao nghiệp vụ của cán bộ Bảo hiểm xã hội tự nguyện 75 3.3.4. Tăng cƣờng áp dụng các ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và tổ chức thực hiện Bảo hiểm xã hội tự nguyện 75 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 77 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BHXH Bảo hiểm xã hội BHTN Bảo hiểm thất nghiệp BHYT Bảo hiểm y tế ILO Tổ chức lao động quốc tế - International Labour Organization
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số ngƣời tham gia BHXH giai đoạn 2008- 2013 45 Bảng 2.2: Thu Quỹ BHXH từ đóng góp của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động giai đoạn 2008- 2012 48 Bảng 2.3: Cân đối thu – chi Quỹ BHXH tự nguyện giai đoạn 2008- 2012 49 Bảng 2.4: Mức đóng BHXH tự nguyện hằng tháng hiện nay 53 Bảng 3.1: Tỷ lệ ngƣời lao động không đƣợc tham gia các chính sách ngắn hạn 67
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề an sinh xã hội đƣợc xem là một trong những nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở mọi quốc gia trên thế giới. Với tƣ cách là một trụ cột trong hệ thống chính sách an sinh xã hội, BHXH thực sự đã trở thành một công cụ đắc lực và hiệu quả giúp cho Nhà nƣớc điều tiết xã hội trong nền kinh tế thị trƣờng, gắn kết giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng, tiến bộ và phát triển xã hội bền vững. Tại Việt Nam, việc thực hiện BHXH cho mọi ngƣời lao động thông quan việc mở rộng độ bao phủ và nâng cao hiệu quả của chính sách BHXH tự nguyện nhằm phát huy đầy đủ vai trò trụ cột của BHXH, góp phần quan trọng không chỉ cho sự phát triển kinh tế mà còn nhằm mục tiêu ổn định xã hội và an sinh cho mọi ngƣời dân. Những nội dung này đã đƣợc cụ thể hóa tại Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ƣơng khoá XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020. Nghị quyết này nêu rõ: Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nƣớc, xã hội và ngƣời dân, giữa các nhóm dân cƣ trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng và với mục tiêu Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực lƣợng lao động tham gia BHXH; 35% lực lƣợng lao động tham gia BHTN [18]. Tiếp đó, tại Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 – 2020 tiếp tục khẳng định và đặt ra mục tiêu “Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ BHXH, BHYT; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện ” [31]. 1
  10. Nƣớc ta hiện là một nƣớc đang phát triển, lực lƣợng lao động khu vực phi chính thức và lao động trong các lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp chiếm tỷ trọng cao (khoảng 70% lực lƣợng lao động của cả nƣớc). Chính đội ngũ này đã góp phần quan trọng vào phát triển nền kinh tế nƣớc nhà. Ngoài ra, khu vực không chính thức còn “gánh đỡ” cho nền kinh tế của nƣớc ta trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế (trong khi các doanh nghiệp thuộc khu vực chính thức bị phá sản hoặc cắt giảm nhân công, ngƣời lao động buộc phải chuyển sang khu vực phi chính thức), giúp tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thấp, cải thiện về điều kiện lao động, tăng thu nhập. Chính vì vậy, việc thực hiện tốt chính sách BHXH tự nguyện sẽ góp phần quan trọng vào việc mở rộng hơn quyền và nghĩa vụ tham gia BHXH cho ngƣời lao động và bình đẳng cho mọi thành phần lao động. Có thể nói việc xây dựng các quy định của pháp luật liên quan đến chế độ BHXH tự nguyện có tầm đặc biệt quan trọng bởi hiện nay đối tƣợng lao động thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 70% lực lƣợng lao động. Do đó việc hoàn thiện pháp luật và thực hiện các quy định về BHXH tự nguyện có hiệu quả thì hệ thống an sinh xã hội ở nƣớc ta mới có thể phát triển thực sự vững chắc. Vì vậy việc ban hành và thực hiện các quy định về BHXH tự nguyện là một vấn đề cấp thiết và phù hợp với nguyện vọng của đại đa số ngƣời lao động. Đây là nhu cầu chính đáng và thiết thực cần đƣợc Nhà nƣớc và xã hội quan tâm thực hiện. Việc nghiên cứu đề tài về thực trạng pháp luật của BHXH tự nguyện để từ đó hoàn thiện các chính sách pháp luật có liên quan đến BHXH tự nguyện là hết sức thiết thực và cần thiết. Xuất phát từ nhận thức về nhu cầu nói trên, với mong muốn đóng góp một phần công sức của bản thân vào việc đánh giá thực trạng pháp luật, đƣa ra một số giải pháp thực hiện đối với BHXH tự nguyện của Việt Nam hiện 2
  11. nay, đƣợc sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo và bạn bè, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đề tài đƣợc nghiên cứu trong bối cảnh nƣớc ta đang tiến hành một loạt các biện pháp an sinh xã hội nhằm đảm bảo đời sống của ngƣời lao động, các quy định của pháp luật về an sinh xã hội liên quan đến BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện ngày càng hoàn thiện. BHXH tự nguyện là một vấn đề mới tại Việt Nam nên những công trình nghiên cứu đã đƣợc công bố về mảng đề tài này chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Một số đề tài đã đƣợc các tác giả nghiên cứu về bảo hiểm xã hội tự nguyện nhƣ sau: Bài viết “Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Xuân Thu, đăng trên Tạp chí Luật học, số 9/2006; Bài viết “Bàn về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Hoài Thu đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 7/2007; đặc biệt có các công trình đƣợc thực hiện ở cấp độ luận văn thạc sỹ, với đề tài “Bảo hiểm xã hội tự nguyện, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng”, luận văn thạc sỹ của Lê Thị Thu Hƣơng, do TS. Nguyễn Hữu Chí hƣớng dẫn năm 2007 và gần đây có đề tài: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật”, luận văn thạc sỹ luật học của Hoàng Quốc Đạt, do TS. Nguyễn Thị Kim Phụng hƣớng dẫn năm 2012 Tuy nhiên nhìn chung các tác giả mới chỉ dừng lại ở một số vấn đề lý luận, tổng quan và thực tiễn thực hiện mà chƣa đi sâu vào nghiên cứu thực trạng pháp luật của Việt Nam về BHXH tự nguyện. Vì vậy, với đề tài này tác giả sẽ tập trung đi sâu vào nghiên cứu và phân tích thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về BHXH tự nguyện để từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ thực hiện hiệu quả chính sách BHXH tự nguyện trên thực tế. 3
  12. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu: Tác giả làm sáng tỏ thực trạng của các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về BHXH tự nguyện, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện hiệu quả các quy định của pháp luật về BHXH tự nguyện trong thực tế. Nhiệm vụ nghiên cứu: làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận của BHXH tự nguyện; thực trạng pháp luật về BHXH tự nguyện tại Việt Nam hiện nay; các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả về BHXH tự nguyện. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu trong phạm vi nhƣ sau: - Luận giải một số vấn đề lý luận về BHXH tự nguyện. - Phân tích và đánh giá thực trạng quy định pháp luật BHXH tự nguyện và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam. - Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện ở Việt Nam 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đƣờng lối của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc về BHXH tự nguyện và quan điểm của Tổ chức Lao Động Quốc tế (ILO) về BHXH tự nguyện qua một số Công ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Phương pháp nghiên cứu: Để đạt đƣợc mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả đã sử dụng một số các phƣơng pháp khoa học trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó coi trọng phƣơng pháp thu thập thông tin, khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp, nhận xét thực tiễn.v.v. 4
  13. 5. Những đóng góp mới của đề tài - Luận văn đã phân tích đƣợc những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH tự nguyện nhƣ khái niệm, đặc điểm, vai trò, sự điều chỉnh của pháp luật đối với BHXH tự nguyện. - Luận văn cũng đã phân tích và đánh giá đƣợc thực trạng pháp luật về BHXH tự nguyện tại Việt Nam hiện nay. - Luận văn cũng đã đƣa ra những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về BHXH tự nguyện đồng thời nâng cao hiệu quả việc thực hiện BHXH tự nguyện. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam. Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam. 5
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội tự nguyện Con ngƣời muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải lao động để tạo ra các giá trị giúp thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, không phải lúc nào cuộc sống của con ngƣời cũng thuận lợi, có thu nhập thƣờng xuyên, sức khỏe ổn định mà nó luôn tiềm ẩn những nguy cơ, rủi ro nhƣ: thiên tai, lũ lụt, ốm đau, tai nạn, những biến động xã hội, và không ai tránh đƣợc quy luật sinh lão bệnh tử. Khi đó, khả năng lao động của mỗi ngƣời bị giảm sút, thậm chí là mất khả năng lao động khiến thu nhập bị ảnh hƣởng, trong khi các nhu cầu của cuộc sống lại đặt ra cấp thiết hơn. Điều này không chỉ ảnh hƣởng trực tiếp đến bản thân và gia đình mỗi ngƣời mà còn ảnh hƣởng đến sự phát triển chung của toàn xã hội. Để tạo ra cơ chế hỗ trợ một phần thu nhập cho ngƣời lao động khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, các nƣớc trên thế giới ngay từ rất sớm đã xây dựng các loại hình BHXH. Tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội cũng nhƣ mức độ phát triển, mỗi quốc gia xây dựng cho mình một chính sách riêng, nhƣng tựu chung hiện có hai loại hình BHXH là: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình đƣợc áp dụng cho những ngƣời làm việc trong khu vực chính thức, bao gồm: cán bộ, công chức Nhà nƣớc và những ngƣời lao động có quan hệ lao động ổn định. Đối với loại hình này, cả hai bên trong quan hệ lao động (ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động) đều có trách nhiệm tham gia đóng góp tạo dựng quỹ BHXH bắt buộc. Còn BHXH tự nguyện là hình thức tự tham gia của ngƣời lao động để 6
  15. hình thành Qũy BHXH tự nguyện. Khái niệm BHXH tự nguyện không phải là một khái niệm mới, nó đã đƣợc hình thành và sử dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới nhƣ các nƣớc Châu Âu và các châu lục khác. Về giải thích từ ngữ, theo Từ điển Tiếng Việt thì “Tự nguyện là theo yêu cầu, đề nghị của chính mình, xuất phát từ ý muốn của bản thân” [60, tr.886]. Nhƣ vậy có thể hiểu bản chất của BHXH tự nguyện chính là sự tự do ý chí của ngƣời tham gia, xuất phát từ chính nhu cầu và nguyện vọng của ngƣời lao động mà không có sự bắt buộc tham gia từ các cơ quan quản lý nhà nƣớc hay bất kì cá nhân, tổ chức nào khác. Còn khái niệm BHXH có thể đƣợc hiểu là: BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho ngƣời lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không đƣợc sử dụng, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho ngƣời lao động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội [1]. Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: “BHXH tự nguyện là loại hình BHXH hình thành trên sự kết hợp giữa việc tổ chức, bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có nhu cầu bảo hiểm” [56, tr.87] Theo khoản 3 Điều 3 giải thích từ ngữ Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 thì “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội”. Theo khoản 3 Điều 3 giải thích từ ngữ Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 (đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp 7
  16. thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014 có hiệu lực từ 01/01/2016) thì: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất”. Về bản chất, BHXH tự nguyện áp dụng cho những đối tƣợng là ngƣời lao động không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và theo nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện. Đây là chế độ BHXH của Nhà nƣớc, do nhà nƣớc ban hành, nhằm tạo điều kiện pháp lý để mọi ngƣời lao động đƣợc tham gia bằng việc giành một phần thu nhập của mình đóng góp vào quỹ BHXH tự nguyện để đƣợc hƣởng khi có nhu cầu. Với các quy định của pháp luật về chế độ BHXH tự nguyện, Nhà nƣớc đã tạo điều kiện để mọi ngƣời lao động đƣợc quyền tham gia và hƣởng BHXH theo quy định của pháp luật. Từ những định nghĩa nêu trên, có thể khẳng định, dù đƣợc hiểu theo cách nào thì BHXH tự nguyện là loại hình BHXH do ngƣời lao động tự nguyện tham gia, dựa trên sự tự do ý chí của họ và ngƣời tham gia đóng góp một phần thu nhập vào Qũy BHXH tự nguyện để hƣởng các chế độ bảo hiểm theo quy định của pháp luật (pháp luật quy định về các chế độ BHXH tự nguyện mà ngƣời tham gia đƣợc hƣởng, mức hƣởng, điều kiện hƣởng, ). Nhƣ vậy, BHXH tự nguyện là loại hình BHXH mà ngƣời lao động tự nguyện tham gia, đƣợc lựa chọn một trong các mức đóng và phƣơng thức đóng pháp luật đã quy định phù hợp với thu nhập của mình để hƣởng bảo hiểm xã hội. Việc tham gia vào BHXH tự nguyện tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của ngƣời lao động, pháp luật không bắt buộc ngƣời lao động phải tham gia. Nhà nƣớc có nhiệm vụ xây dựng chính sách pháp luật về BHXH tự nguyện nhằm động viên, khuyến khích ngƣời lao động tham gia. 8
  17. 1.2. Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội tự nguyện BHXH tự nguyện là một loại hình BHXH, do đó nó mang các đặc điểm của BHXH nói chung, đồng thời lại có những điểm khác biệt với các loại hình BHXH khác . Xuất phát từ bản chất của BHXH là quá trình tổ chức đền bù hậu quả của những rủi ro xã hội hoặc các sự kiện bảo hiểm (Sự đền bù này đƣợc thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung, hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH; Nhằm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho ngƣời lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không đƣợc sử dụng; Nhằm góp phần bảo đảm an toàn kinh tế cho ngƣời lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội), có thể thấy BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng có một số đặc trƣng cơ bản sau: Thứ nhất, ngƣời lao động khi tham gia BHXH tự nguyện và đảm bảo các điều kiện luật định thì đƣợc đảm bảo thu nhập của mình cho tới lúc chết. Đây là đặc trƣng riêng có của BHXH nói chung, thể hiện tính xã hội rất cao mà không một loại hình bảo hiểm nào có đƣợc. Tuy nhiên, tùy thuộc vào thiết kế các chế độ BHXH tự nguyện ở mỗi quốc gia, ở mỗi thời kỳ mà quyền lợi của ngƣời tham gia là khác nhau. Ở một số nƣớc, BHXH tự nguyện đƣợc thiết kế với đầy đủ các chế độ ngắn hạn và dài hạn, thu nhập của ngƣời tham gia đƣợc bảo đảm (bảo hiểm) cả trong và sau quá trình lao động. Cụ thể: Khi còn làm việc, ngƣời lao động đƣợc trợ cấp khi bị ốm đau, lao động nữ đƣợc trợ cấp thai sản khi sinh con; ngƣời bị tai nạn lao động đƣợc trợ cấp tai nạn lao động; Khi không còn làm việc ngƣời lao động đƣợc hƣởng chế độ hƣu trí (ở Việt Nam còn gọi là hƣởng lƣơng hƣu); Khi chết thì ngƣời thân của ngƣời lao động đƣợc trợ cấp tiền mai táng và trợ cấp tiền tuất Nhƣng ở một số nƣớc khác (nhƣ Việt Nam) thì thu nhập của ngƣời tham gia BHXH tự nguyện chỉ 9
  18. đƣợc bảo hiểm khi quá trình lao động kết thúc với các sự kiện: hết tuổi lao động hoặc ngƣời lao động qua đời. Thứ hai, các sự kiện bảo hiểm trong BHXH tự nguyện liên quan đến thu nhập của ngƣời lao động. Nó có thể là: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết (tùy thuộc vào quy định các chế độ BHXH tự nguyện). Do những sự kiện và rủi ro này mà ngƣời lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc khả năng lao động không đƣợc sử dụng (mất việc làm), dẫn đến việc họ bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ hoạt động nghề nghiệp. Trong những trƣờng hợp đó, ngƣời lao động cần phải có khoản thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống và sự bù đắp này đƣợc thông qua các chế độ trợ cấp của BHXH tự nguyện. Thứ ba, ngƣời lao động khi tham gia BHXH tự nguyện có quyền đƣợc hƣởng trợ cấp BHXH tự nguyện, tuy nhiên quyền này chỉ có thể trở thành hiện thực khi họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm. Bên cạnh những đặc điểm trên, BHXH tự nguyện còn mang những nét đặc trƣng riêng có nhƣ sau: Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện thường không có quan hệ lao động chính thức,đa phần là những người lao động tự tạo việc làm, nông dân, ngư dân và lao động tự do. Mọi đối tƣợng trong xã hội, không phân biệt thành phần kinh tế, vùng miền, mức thu nhập nếu có nhu cầu và điều kiện đều có thể tham gia BHXH tự nguyện. Những đối tƣợng này chiếm số lƣợng đông đảo trong xã hội. Khác với ngƣời lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, có quan hệ lao động chính thức, có sự phân chia nghĩa vụ đóng BHXH với ngƣời sử dụng lao động, những ngƣời thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện hầu nhƣ không có quan hệ lao động với ngƣời sử dụng lao động, không có thu nhập ổn định, không có sự chia sẻ của giới chủ trong việc đóng phí BHXH, do vậy họ phải tự bỏ chi phí đóng góp và việc tham gia phụ thuộc 10
  19. vào ý thức và điều kiện kinh tế của chủ thể tham gia. Với đặc điểm về đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện là loại trừ những ngƣời thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, Nhà nƣớc đã và đang hƣớng tới bao trùm, phổ quát BHXH. Việc tham gia BHXH tự nguyện mang tính chất tự nguyện, phụ thuộc vào ý chí của chủ thể tham gia. Ngƣời tham gia BHXH tự nguyện có quyền lựa chọn việc tham gia hay không tham gia, có thể lựa chọn mức đóng và phƣơng thức đóng phù hợp với nhu cầu và thu nhập của mình trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Việc quy định này hoàn toàn phù hợp bởi lẽ đối tƣợng tham gia loại hình bảo hiểm này thƣờng có thu nhập không thƣờng xuyên và không ổn định, do đó pháp luật đã linh hoạt trong việc cho phép ngƣời lao động lựa chọn, thay đổi mức thu nhập làm căn cứ đóng bảo hiểm cũng nhƣ phƣơng thức đóng BHXH tự nguyện. Ngoài ra, về mặt lý luận, ngƣời tham gia BHXH tự nguyện đƣợc tự do ý chí trong việc lựa chọn chế độ BHXH phù hợp với nhu cầu của mình. Hiện nay, chính sách BHXH tự nguyện của một số quốc gia quy định nhiều chế độ bảo hiểm khác nhau nhƣ: hƣu trí, tử tuất, thai sản, ốm đau, cho ngƣời tham gia lựa chọn tùy thuộc vào khả năng và nguyện vọng của họ. Tuy nhiên, yếu tố tự nguyện trong các quy định của pháp luật BHXH tự nguyện mang tính chất tƣơng đối và có giới hạn. Cụ thể, các đối tƣợng có thể tự do trong việc lựa chọn tham gia BHXH tự nguyện hay không, nhƣng khi đã quyết định tham gia thì buộc phải tuân thủ các quy định của pháp luật về mức đóng, mức hƣởng, điều kiện hƣởng, BHXH tự nguyện còn có tính linh hoạt trong thiết kế chế độ, cách thức đóng phí phù hợp với nhu cầu của người tham gia. Về mức đóng: BHXH tự nguyện có nhiều mức phí khác nhau để ngƣời tham gia dễ dàng lựa chọn sáo cho phù hợp với khả năng kinh tế và nhu cầu của mình và có thể đóng theo tháng, theo quý, theo năm. Thậm chí đối với những ngƣời lao động nông nghiệp có thể đóng phí theo mùa vụ cho phù hợp với thực tế sản xuất kinh 11
  20. doanh. Về tính linh hoạt trong thiết kế các chế độ bảo hiểm: Hiện nay, ở nƣớc ta BHXH tự nguyện mới chỉ quy định có hai chế độ là hƣu trí và tử tuất. Tuy nhiên, nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định nhiều chế độ khác nhau trong quy định về BHXH tự nguyện. 1.3. Vai trò của Bảo hiểm xã hội tự nguyện Bảo hiểm xã hội là trụ cột chính, là xƣơng sống trong hệ thống an sinh xã hội, đã đem lại chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống của ngƣời lao động, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Vì vậy, cùng với các loại hình BHXH khác, BHXH tự nguyện có vai trò quan trọng đối với ngƣời lao động cũng nhƣ sự phát triển bền vững của xã hội nói chung. Trước hết, BHXH tự nguyện có vai trò quan trọng đối với ngƣời lao động. Do đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện là những ngƣời lao động tự do, hầu nhƣ không có quan hệ lao động với chủ sử dụng lao động, thu nhập thƣờng thấp, không ổn định nhƣ: nông dân, những ngƣời kinh doanh, buôn bán tự do, nên khi tham gia BHXH tự nguyện sẽ đảm bảo phần nào thu nhập cho họ và gia đình khi gặp phải những rủi ro nhƣ ốm đau, tai nạn lao động, già yếu không còn sức khỏe để tiếp tục lao động. Thứ hai, việc tham gia BHXH tự nguyện còn giúp ngƣời lao động có ý thức trong việc tiết kiệm đầu tƣ những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết chi dùng khi già cả, mất sức lao động, góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình. Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, giúp ngƣời lao động ổn định về mặt tâm lý, giảm bớt áp lực khi ốm đau, tai nạn, tuổi già. Ngƣời lao động tham gia BHXH tự nguyện đƣợc đảm bảo về mặt thu nhập, do đó cuộc sống gia đình cũng đƣợc đảm bảo an toàn. Thứ ba, BHXH tự nguyện tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã hội, cùng truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên 12
  21. trong xã hội và góp phần thực hiện công bằng xã hội, phân phối lại thu nhập xã hội trên cơ sở sự tƣơng trợ để thiết lập hệ thống an sinh xã hội bền vững. Các chế độ của BHXH tự nguyện sẽ tạo sự công bằng giữa những ngƣời đƣợc tham gia BHXH bắt buộc và những ngƣời lao động tự do, tự hành nghề. Cùng với Qũy BHXH tự nguyện và sự hỗ trợ của Nhà nƣớc, BHXH tự nguyện giảm gánh nặng những chi phí khi cuộc sống của ngƣời dân gặp khó khăn, tạo sự chủ động về mặt tài chính. Đồng thời, sự bình đẳng trong việc mọi ngƣời lao động đều đƣợc tham gia BHXH ở các thành phần kinh tế khác nhau đã tạo sự thúc đẩy phát triển bền vững của thị trƣờng lao động. Ngoài ra, thông qua việc tham gia BHXH tự nguyện, mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và đông đảo lực lƣợng ngƣời lao động thuộc khu vực phi chính thức trở nên khăng khít hơn, quyền lợi của đối tƣợng lao động này đƣợc đảm bảo, từ đó họ tin tƣởng vào chế độ xã hội và sẵn sàng cống hiến sức lao động cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nƣớc. 1.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật đối với Bảo hiểm xã hội tự nguyện Xuất phát từ những đặc điểm về kinh tế - xã hội – chính trị mà mỗi quốc gia thiết kế cho mình mô hình BHXH riêng, phù hợp với trình độ phát triển cũng nhƣ nhu cầu của ngƣời lao động. Do đó, hiện nay trên thế giới có nhiều mô hình thực hiện BHXH nhƣ: Mô hình BHXH nhà nƣớc thuần túy (mô hình này có đặc điểm là quản lý đƣợc mọi đối tƣợng trong thị trƣờng lao động ở, có quỹ BHXH đủ khả năng chi trả các trợ cấp BHXH trong mọi trƣờng hợp); Mô hình BHXH quốc gia và BHXH ngành (bắt buộc) (ở mô hình này, ngoài hệ thống BHXH quốc gia, pháp luật BHXH cho phép tổ chức BHXH ngành/ lĩnh vực phù hợp với những đặc thù về nghề nghiệp. Ví dụ hệ thống BHXH cho công chức, thực hiện các chế độ BHXH cho công chức và viên chức công; hệ thống BHXH cho quân đội; hệ thống BHXH cho nhân 13
  22. viên hàng không, đƣờng sắt ); Mô hình BHXH kết hợp giữa bắt buộc và tự nguyện. Ở mô hình này, mỗi quốc gia lại thiết kế cho mình một hệ thống BHXH khác nhau, nhƣng tựu chung lại, có thể chia các quốc gia này thành hai nhóm, tƣơng ứng với 2 loại hình BHXH tự nguyện nhƣ sau: Nhóm thứ nhất, BHXH tự nguyện đƣợc thực hiện trên cơ sở nền tảng của BHXH bắt buộc và đƣợc gọi là BHXH tự nguyện bổ sung. Theo mô hình này, ngƣời lao động ngoài việc tham gia BHXH bắt buộc có thể tham gia thêm BHXH tự nguyện để nâng cao quyền lợi khi thụ hƣởng. Và khi tham gia BHXH tự nguyện bổ sung, ngƣời lao động không bị buộc phải tham gia tất cả chế độ mà đƣợc quyền lựa chọn chế độ phù hợp với nhu cầu cá nhân. Thực tế triển khai cho thấy, chế độ BHXH tự nguyện bổ sung đƣợc ngƣời lao động chủ yếu lựa chọn là chế độ hƣu trí bổ sung. Các quốc gia khác nhau khi triển khai BHXH tự nguyện bổ sung đã xây dựng cho mình những quy định riêng về nội dung, phƣơng thức và cách tổ chức thực hiện. Ví dụ, Cộng hòa liên bang Đức quy định về mức thu nhập tối thiểu của những ngƣời tham gia BHXH tự nguyện bổ sung để đảm bảo duy trì việc đóng góp. Nhƣng cũng có quốc gia không khống chế mức thu nhập tối thiểu này, quan điểm của họ cho rằng ngƣời lao động có thể hạn chế chi tiêu hiện tại để tích lũy cho về già, khi ốm đau, Chính sách này nhằm khuyến khích ngƣời lao động tham gia BHXH tự nguyện bổ sung. Tuy pháp luật về BHXH tự nguyện bổ sung ở các nƣớc là khác nhau, song đều có đặc điểm chung là nó thƣờng đƣợc áp dụng đối với các chế độ dài hạn. Nhóm thứ hai, BHXH tự nguyện đƣợc thiết kế tồn tại song song và độc lập với BHXH bắt buộc, trong đấy BHXH tự nguyện đƣợc áp dụng cho các đối tƣợng là nông dân, lao động nông thôn, lao động trong các hộ gia đình, các nông trại có quy mô nhỏ, những ngƣời tự tạo việc làm, (nói chung là các đối tƣợng không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc) và phần nhiều chỉ 14
  23. đƣợc quy định cho các chế độ BHXH dài hạn (hƣu trí tuổi già, tàn tật, tử tuất). Hiện nay, chỉ những quốc gia chƣa bao trọn đƣợc đối tƣợng tham gia bảo hiểm mới áp dụng mô hình này, còn lại đa số các nƣớc trên thế giới đều xây dựng mô hình BHXH tự nguyện bổ sung. 1.4.1. Đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện Từ những phân tích về các mô hình BHXH tự nguyện nêu trên chúng ta thấy rằng, đối với mỗi mô hình lại có đối tƣợng tham gia là khác nhau, cụ thể: Đối với mô hình BHXH tự nguyện bổ sung, đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện không bị loại trừ những ngƣời thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc mà theo đó, mọi ngƣời lao động và cả ngƣời sử dụng lao động khi có nhu cầu đều đƣợc quyền tham gia BHXH tự nguyện theo quy định của pháp luật. Họ tự nguyện đóng góp một phần thu nhập của mình vào Qũy BHXH theo chế độ tự nguyện từ đó nâng cao quyền thụ hƣởng của mình, đặc biệt là quyền thụ hƣởng chế độ hƣu trí đƣợc áp dụng phổ biến ở các nƣớc phát triển, do thực tế ở các nƣớc này chế độ BHXH đã phần nào phổ quát đƣợc các lực lƣợng lao động trong xã hội, nên pháp luật các quốc gia này quy định đối tƣợng tham gia thƣờng là những ngƣời lao động và doanh nghiệp tham gia BHXH bắt buộc, Đối với mô hình BHXH tự nguyện tồn tại độc lập với BHXH bắt buộc, thƣờng thì đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện là những ngƣời trong độ tuổi lao động và không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, họ thực hiện đóng phí BHXH để bảo hiểm cho mình hoặc cho ngƣời thân đƣợc hƣởng BHXH. Nhƣ vậy, BHXH tự nguyện ở mô hình này đƣợc áp dụng cho tất cả những ngƣời lao động thuộc khu vực “phi chính thức” (nhƣ nông dân, ngƣời lao động tự do, tiểu thƣơng ) và có thể nói mọi đối tƣợng trong xã hội, không phân biệt thành phần kinh tế, vùng miền, mức thu nhập nếu có nhu cầu và điều kiện đều có thể tham gia BHXH tự nguyện [53]. 15