Luận văn Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam

pdf 110 trang vuhoa 25/08/2022 6880
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_thuc_tien_ap_dung_phap_luat_ve_bao_dam_tien_vay_ban.pdf

Nội dung text: Luận văn Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THU ÁNH THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THU ÁNH THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS LÊ THỊ THU THỦY HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Lê Thị Thu Ánh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ÁP DỤNG 5 PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Khái quát chung về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp 5 của bên thứ ba 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng tài sản 5 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế 11 chấp của bên thứ ba 1.2. Áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp 20 của bên thứ ba 1.3. Những yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật về bảo đảm 24 tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba 1.4. Khái quát pháp luật Việt Nam về bảo đảm tiền vay bằng tài 26 sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM 30 TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 2.1. Về chủ thể tham gia hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản 30 thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại 2.2. Về hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên 44 thứ ba
  5. 2.3. Về xử lý tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay của bên thứ ba 67 2.4. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay 83 bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam 2.4.1. Đánh giá chung 83 2.4.2. Những bất cập và tồn tại 84 Chƣơng 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ 86 ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và phƣơng hƣớng hoàn 86 thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba 3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo 88 đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba 3.3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo đảm 93 tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam KẾT LUẬN 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Bảo đảm tiền vay là vấn đề trọng tâm và có vai trò to lớn trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thƣơng mại (NHTM) hiện nay, nhằm hạn chế rủi ro khi NHTM cho khách hàng vay vốn đồng thời đảm bảo sự an toàn cho hệ thống ngân hàng. Hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự nói chung và bảo đảm tiền vay nói riêng. Thực tiễn hoạt động tín dụng ngân hàng cho thấy, trong số các biện pháp bảo đảm tiền vay thì thế chấp là biện pháp bảo đảm đƣợc sử dụng phổ biến nhất. Thế chấp tài sản để bảo đảm tiền vay có hai trƣờng hợp: thế chấp tài sản của chính bên vay (bên có nghĩa vụ) và thế chấp tài sản của bên thứ ba. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba có một số đặc thù khác biệt so với thế chấp thông thƣờng. Việc khách hàng vay sử dụng tài sản của bên thứ ba để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay của mình bằng hình thức thế chấp trong thời gian vừa qua đƣợc sử dụng rộng rãi. Nhiều tranh chấp hợp đồng tín dụng xuất phát từ bảo đảm tiền vay bằng hình thức thế chấp tài sản của bên thứ ba cũng gây nhiều tranh cãi bởi còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Có thể nói, dù đƣợc quy định tản mạn trong nhiều văn bản khác nhau, pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng thế chấp nói chung và bảo đảm tiền vay bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba nói riêng vẫn chƣa hoàn thiện. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba thời gian gần đây còn nhiều vƣớng mắc, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Từ cán bộ Tòa án, cán bộ cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền về bảo đảm tiền vay, ngân hàng và cả khách hàng đều gặp những khó khăn nhất định trong 1
  7. quá trình áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba. Xuất phát từ tính chất đặc thù của bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba, xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba, việc nghiên cứu để phát hiện những bất cập, tồn tại, vƣớng mắc để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba là rất cần thiết. Đó là lý do tác giả lựa chọn vấn đề “Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam” làm đề tài cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay nói chung và bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba nói riêng đã đƣợc đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu nhƣ: - Lê Thị Thu Thủy (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, NXB Tƣ pháp, Hà Nội. - Hoàng Thị Quỳnh Trang (2013), Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng bất động sản tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội. - Đỗ Thanh Huyền (2011), Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội. - Đoàn Thái Sơn (2012), Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba, Tạp chí ngân hàng số 12/2012. Các công trình nghiên cứu nói trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả triển khai đề tài của mình. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nói trên chỉ đề cập đến bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba với tƣ 2
  8. cách là một phần nhỏ trong công trình nghiên cứu của mình. Hiện nay, cùng với sự thay đổi của chính sách, pháp luật; thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này còn nhiều quan điểm khác nhau gây nên sự tranh cãi, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của xã hội. Do đó, việc nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba, từ đó đƣa ra những đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vấn đề này là rất cần thiết và có ý nghĩa. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu cơ bản của đề tài là tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại các ngân hàng thƣơng mại, chỉ ra những tồn tại, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật vấn đề này, từ đó, đề xuất một số giải pháp có cơ sở lý luận và phù hợp thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại các ngân hàng thƣơng mại. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất định, luận văn cũng có đề cập đến một số quy phạm quốc tế có liên quan. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các quy định về chủ thể, hợp đồng và xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba, thực tiễn hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại NHTM và xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 3
  9. Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; đƣờng lối của Đảng về Nhà nƣớc và pháp luật. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành nhƣ: phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic Đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào các vụ việc trong thực tiễn xét xử, cũng nhƣ thông tin trên mạng Internet để tổng hợp và làm sáng tỏ các nội dung cần nghiên cứu của đề tài. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về áp dụng pháp luật bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam 4
  10. CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1 Khái quát chung về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm tiền vay bằng tài sản Hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay của các ngân hàng thƣơng mại (NHTM) nói riêng là một loại hình kinh doanh tiền tệ phức tạp. Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, vay mƣợn tiền tệ có hoàn trả cả gốc và lãi giữa NHTM và khách hàng vay. Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM cũng rất phức tạp và đa dạng. Pháp luật của hầu hết các nƣớc đều có quy định cụ thể về an toàn trong hoạt động tín dụng, trong đó bảo đảm tiền vay đƣợc xem là quan trọng nhất. Bảo đảm tiền vay là vấn đề trọng tâm và có vai trò to lớn trong hoạt động cho vay của các NHTM hiện nay. Trong hoạt động cho vay của NHTM, bảo đảm tiền vay đƣợc hiểu là những biện pháp bảo đảm việc trả nợ vốn vay. Nói cách khác, bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận của ngƣời đi vay và NHTM trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm thiết lập các biện pháp tác động mang tính chất dự phòng để đảm bảo việc trả nợ vốn vay, ngăn ngừa vi phạm và tạo khả năng khắc phục hậu quả do vi phạm nghĩa vụ trả nợ tiền vay gây ra. Khoản 1 Điều 2 Nghị định 178/1999/NĐ-CP định nghĩa “ Bảo đảm tiền vay là việc TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay”. Có thể chia bảo đảm tiền vay thành hai loại: bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo đảm tiền vay không bằng tài sản; trong đó bảo đảm tiền vay bằng 5
  11. tài sản bao gồm: cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay hoặc của bên thứ ba, có thể bằng tài sản hiện hữu hoặc tài sản hình thành từ vốn vay. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là loại bảo đảm tiền vay mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay đƣợc cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay hoặc của bên thứ ba. Trong trƣờng hợp khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ hoặc bên thứ ba không thực hiện nghĩa vụ thì tài sản bảo đảm tiền vay sẽ đƣợc xử lý để thu hồi nợ cho NHTM. Bộ luật dân sự (BLDS) Việt Nam 2005 quy định 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cƣợc, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp. Biện pháp cầm giữ tài sản, hàng hóa đƣợc quy định trong Bộ luật hàng hải. Khoản 1 Điều 94 Luật các TCTD 2010 quy định: “Tổ chức tín dụng phải yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính của mình, mục đích sử dụng vốn hợp pháp, biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi quyết định cấp tín dụng”. Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các TCTD quy định về các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản bao gồm: cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay hoặc của bên thứ ba, bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm quy định 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhƣ trong Bộ luật dân sự 2005. Trên thực tế, số lƣợng các biện pháp bảo đảm đƣợc sử dụng trong hoạt động cho vay của các NHTM ít hơn so với các biện pháp bảo đảm đƣợc quy định trong BLDS và Nghị định 163. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và bảo đảm tiền vay có chung đặc điểm là sử dụng tài sản cụ thể để bảo đảm thi hành nghĩa vụ. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là việc bên có nghĩa vụ (khách hàng vay vốn) hoặc bên thứ ba dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ xác lập đƣợc thực hiện. Thực chất, ở loại biện pháp này, bên bảo 6
  12. đảm xác nhận cho bên nhận bảo đảm có quyền năng chi phối đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Để quyền đó đƣợc vẹn toàn, pháp luật phải tính đến việc dựa vào đâu để xác định quyền sở hữu của ngƣời bảo đảm (giấy tờ gốc, bản gốc, bản sao có công chứng, trƣờng hợp không có giấy chứng nhận quyền sở hữu thì nhƣ thế nào?), hay là việc công khai hóa quyền của ngƣời nhận bảo đảm đối với tài sản của ngƣời bảo đảm (đăng ký giao dịch bảo đảm). Tài sản bảo đảm có thể là bất động sản, động sản, quyền tài sản. Khi nghĩa vụ bị vi phạm - khách hàng không trả nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng ngân hàng hoặc bên thứ ba thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản dùng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tại NHTM đƣợc xử lý để thu hồi nợ, bảo đảm quyền lợi cho bên có quyền. Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay có đối tƣợng trực tiếp là tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của ngƣời bảo đảm đƣợc đem ra bảo đảm cho chính nghĩa vụ của ngƣời đó. Trong biện pháp bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba thì đối tƣợng trực tiếp đƣợc đƣa ra bảo đảm là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên thứ ba để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bên có nghĩa vụ. Vậy trong bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay chỉ có hai bên chủ thể mang quyền và nghĩa vụ quan hệ với nhau; nghĩa vụ có đƣợc thực hiện, thực hiện đúng hay không chỉ phụ thuộc vào bên có nghĩa vụ. Nếu có ngƣời thứ ba xuất hiện làm nhiệm vụ quản lý tài sản thì ngƣời này không đóng vai trò quyết định trong thực hiện nghĩa vụ chính. Ngƣợc lại, trong biện pháp bảo đảm có tài sản của bên thứ ba, có ba bên chủ thể và xét cho cùng bên thứ ba đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện nghĩa vụ khi nó phát sinh. [19, tr 51.] Bảo đảm tiền vay bằng tài sản có những đặc điểm cơ bản sau: 7
  13. Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản tồn tại bên cạnh nghĩa vụ trả nợ của hợp đồng tín dụng mà nó bảo đảm. Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định: “1. Hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chƣa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trƣờng hợp có thoả thuận khác. 2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm, trừ trƣờng hợp có thoả thuận khác. 3. Hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phƣơng chấm dứt thực hiện mà các bên chƣa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trƣờng hợp có thoả thuận khác. 4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phƣơng chấm dứt thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm, trừ trƣờng hợp có thoả thuận khác. 5. Trong trƣờng hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.” Theo quy định tại Điều 15 nói trên, nếu áp dụng cho hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp tài sản thì có thể hình dung mối tƣơng quan về hiệu lực giữa hai hợp đồng này (hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp) nhƣ sau: 8
  14. Trường hợp thứ nhất, có hai khả năng xảy ra: - Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhƣng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên hoặc bởi ý chí đơn phƣơng của một bên nhƣng chƣa đƣợc thực hiện thì hợp đồng thế chấp bị chấm dứt. Cần lƣu ý rằng theo quy định của điều luật nêu trên thì trong trƣờng hợp này, hợp đồng thế chấp bị chấm dứt, nghĩa là đã có hiệu lực rồi sau đó mới chấm dứt hiệu lực do không cần thiết duy trì hiệu lực của hợp đồng thế chấp nữa, chứ không phải là hợp đồng thế chấp bị vô hiệu ngay từ khi ký kết. - Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhƣng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên hoặc bởi ý chí đơn phƣơng của một bên và đã đƣợc thực hiện một phần hoặc toàn bộ thì hợp đồng thế chấp không bị đƣơng nhiên chấm dứt, trừ trƣờng hợp các bên có thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thế chấp này vì thấy không cần thiết phải tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa. Trong trƣờng hợp này, nếu hợp đồng thế chấp không bị chấm dứt trong khi tổ chức tín dụng đã giải ngân cho khách hàng thì bên nhận thế chấp (tổ chức tín dụng) có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi số tiền đã giải ngân cho khách hàng. Ngoài việc bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay phát sinh từ hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản còn có thể đƣợc sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả tiền cho tổ chức tín dụng trong trƣờng hợp hợp đồng tín dụng bị vô hiệu nhƣng tổ chức tín dụng đã thực hiện giải ngân cho khách hàng. Trường hợp thứ hai, hợp đồng thế chấp bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, chấm dứt đơn phƣơng sẽ không ảnh hƣởng đến hiệu lực của hợp đồng tín 9
  15. dụng, trừ trƣờng hợp các bên tham gia hợp đồng tín dụng thỏa thuận hủy bỏ hay chấm dứt hợp đồng này. Về khía cạnh pháp luật thực định, tại Điều 410 Bộ luật Dân sự 2005, tuy nhà làm luật vẫn mô tả rõ bản chất pháp lý của mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ nhƣng đồng thời cũng khẳng định rằng, các quy định về mối quan hệ này không áp dụng cho các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự, trong đó có biện pháp thế chấp tài sản. Theo ý kiến chúng tôi, nhà làm luật lựa chọn giải pháp này cho mối quan hệ giữa hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm với hợp đồng bảo đảm là khá hợp lý, vì nó giúp cho bên chủ nợ tránh đƣợc những rủi ro về kinh tế trong trƣờng hợp hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bị vô hiệu mà bên chủ nợ (bên nhận bảo đảm) đã thực hiện hợp đồng này với ngƣời đối ƣớc.[26] Bộ luật dân sự Nga năm 1995 khoản 2, 3 Điều 329 cũng quy định về sự vô hiệu của thỏa thuận về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không làm ảnh hƣởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng và cũng đƣợc áp dụng trong lĩnh vực bảo đảm tiền vay tại các NHTM. [19, tr 48.] Thứ hai, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ tín dụng giữa NHTM và khách hàng vay vốn Thứ ba, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là các biện pháp mang tính dự phòng Thứ tƣ, phạm vi bảo đảm không vƣợt quá phạm vi nghĩa vụ đã đƣợc xác định trong nội dung quan hệ chính Thứ năm, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản đƣợc áp dụng trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên, đƣợc thiết lập trong phạm vi các biện pháp bảo đảm 10
  16. Thứ sáu, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ chỉ bị xử lý khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ trả nợ Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nói chung và các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản nói riêng dù đƣợc ghi nhận dƣới bất kỳ hình thức nào đều nhằm mục đích bảo đảm sự ổn định và phát triển bình thƣờng của các quan hệ tài sản, bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các chủ thể giao lƣu dân sự, kinh tế. Sự tồn tại của cả hệ thống bảo đảm tiền vay bằng tài sản thông qua quy chế bảo đảm tiền vay là điều kiện quan trọng cho thị trƣờng tín dụng phát triển. Do đó, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản đóng vai trò to lớn trong hoạt động cấp tín dụng, làm giảm nguy cơ thiệt hại cho ngân hàng, bảo đảm an toàn đối với các khoản vay, là cơ sở để ngân hàng bảo toàn và phát triển hoạt động cấp tín dụng của mình đối với các chủ thể trong nền kinh tế. [19] 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba Áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ vay của khách hàng tại ngân hàng là việc làm phổ biến trong hoạt động cấp tín dụng tại các ngân hàng. Nhận tài sản bảo đảm của bên thứ ba là việc ngân hàng nhận tài sản bảo đảm thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm (chủ sở hữu tài sản bảo đảm hay còn gọi là “bên thứ ba”) để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay của bên vay vốn (bên có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm) với ngân hàng. Hợp đồng bảo đảm đƣợc ký kết trong trƣờng hợp này là hợp đồng bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba. Mối quan hệ hợp đồng này thƣờng có sự tham gia của ba bên: ngân hàng với vai trò là bên nhận bảo đảm, đồng thời là bên cho vay trong quan hệ cấp tín dụng; chủ sở hữu tài sản là bên 11
  17. bảo đảm hay còn gọi là bên thứ ba mang tài sản của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay với ngân hàng; và khách hàng vay là bên đƣợc bảo đảm. Trƣờng hợp thế chấp tài sản bảo đảm thì hợp đồng bảo đảm đƣợc gọi là hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba. Tuy nhiên, thời gian vừa qua, khi khách hàng vay không trả đƣợc nợ vay ngân hàng theo thỏa thuận, ngân hàng lại tiến hành xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất của bên bảo đảm (bên thứ ba) để thu hồi nợ vay theo quy định của Luật đất đai 2003, và bên thứ ba khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên hợp đồng bảo đảm vô hiệu. Trên thực tế, khi giải quyết loại tranh chấp này, một số tòa án nhân dân các cấp (cả cấp sơ thẩm và phúc thẩm) đã tuyên hợp đồng bảo đảm của bên thứ ba là vô hiệu với lý do chủ yếu cho rằng, đây là mối quan hệ ba bên nên đáng lẽ các bên liên quan phải ký kết hợp đồng bảo lãnh (giữa ba bên), chứ không phải là hợp đồng thế chấp. Ðiều đáng lƣu ý ở đây là các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba này đã đƣợc các bên liên quan hoàn tất thủ tục công chứng tại văn phòng công chứng và đăng ký thế chấp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Vấn đề đặt ra ở đây là việc bên thứ ba thế chấp tài sản thuộc quyền sở hữu của mình đề bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của bên vay (bên đƣợc bảo đảm) trong hoạt động cho vay của các NHTM về mặt bản chất pháp lý phải đƣợc hiểu nhƣ thế nào? [23] Ðiều 346 Bộ luật Dân sự 1995 quy định: “Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền ”. Nhƣ vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự 1995, thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính mình đối với bên có quyền. 12
  18. Tuy nhiên, Ðiều 342 Bộ luật Dân sự 2005 đã thay đổi quy định về thế chấp nhƣ sau: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)” và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Nhƣ vậy, có thể thấy, các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 đã bỏ quy định bên thế chấp bắt buộc phải đồng thời là bên có nghĩa vụ trong quy định về thế chấp của Bộ luật Dân sự 1995. Hay nói cách khác, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bằng thế chấp tài sản có thể là nghĩa vụ của chính bên thế chấp (chủ sở hữu tài sản) hoặc có thể là nghĩa vụ của ngƣời khác không phải là bên thế chấp. Do vậy, hiểu một cách chính xác, quan hệ "thế chấp" đƣợc quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 sẽ xảy ra trong hai trƣờng hợp: + Trƣờng hợp thứ nhất: Thế chấp là việc dùng tài sản của mình đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình đối với bên có quyền. + Trƣờng hợp thứ hai: Thế chấp là việc dùng tài sản của mình đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của ngƣời khác đối với bên có quyền. Ở trƣờng hợp thứ hai sẽ xuất hiện bên thứ ba tham gia vào quan hệ thế chấp, và xét về mặt bản chất đó chính là trƣờng hợp "thế chấp tài sản của bên thứ ba". Điều 3.1 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012) quy định: “Bên bảo đảm là bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình, dùng quyền sử dụng đất của mình, dùng uy tín hoặc cam kết thực hiện công việc đối với bên nhận bảo đảm để 13
  19. bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của chính mình hoặc của ngƣời khác, bao gồm bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cƣợc, bên ký quỹ, bên bảo lãnh và tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở trong trƣờng hợp tín chấp”. Tùy biện pháp bảo đảm là bảo lãnh hay thế chấp mà chủ thể của nó đƣợc gọi là bên bảo lãnh hay bên thế chấp. Trong quan hệ tín dụng, hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính, hợp đồng bảo đảm là hợp đồng phụ, bên bảo đảm nếu độc lập với bên vay vốn thì còn đƣợc gọi là bên thứ ba (là bên không tham gia xác lập hợp đồng tín dụng) và với quy định nêu trên thì bên thứ ba có thể lựa chọn: dùng tài sản hay dùng uy tín, cam kết (hoặc cả hai) để xác lập giao dịch bảo đảm. Về vấn đề bảo lãnh, Ðiều 366 Bộ luật Dân sự 1995 quy định: “1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; 2. Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc bằng việc thực hiện công việc”. Nhƣ vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự 1995, bảo lãnh là quan hệ ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh (bên có quyền) và bên đƣợc bảo lãnh (bên có nghĩa vụ). Trong đó, ngƣời bảo lãnh cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện thay nghĩa vụ cho bên có nghĩa vụ bằng tài sản (đối vật) hoặc bằng việc thực hiện công việc (đối nhân). Tuy nhiên, Ðiều 362 Bộ luật Dân sự 2005 đã thay đổi quy định về bảo lãnh nhƣ sau: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) 14
  20. cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”. Nhƣ vậy, có thể thấy, các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 đã bỏ quy định cho phép bên bảo lãnh thực hiện cam kết bảo lãnh bằng tài sản. Hay nói cách khác, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, bảo lãnh là việc bên bảo lãnh cam kết thực hiện thay nghĩa vụ cho bên đƣợc bảo lãnh (bên có nghĩa vụ) mà không đƣa ra bất kỳ tài sản nào để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Bảo lãnh chỉ áp dụng trong trƣờng hợp bên bảo lãnh không chỉ định một tài sản cụ thể nào của mình để đảm bảo cho cam kết thực hiện nghĩa vụ. Nếu bên bảo lãnh chỉ định một tài sản cụ thể nào đó làm tài sản đảm bảo, lúc này giao dịch sẽ trở thành cầm cố hay thế chấp. Từ phân tích trên thấy rằng, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp không phải đƣợc phân biệt bằng việc xem xét quan hệ đó có hai hay ba bên tham gia, mà điểm cơ bản để phân biệt quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp là: quan hệ bảo lãnh là quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không có chỉ định tài sản cụ thể đảm bảo, mà biện pháp đảm bảo chính là thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đƣợc đảm bảo, còn quan hệ thế chấp là quan hệ đảm bảo thực hiện nghĩa vụ có chỉ định tài sản cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Hiện nay trong rất nhiều vụ tranh chấp tín dụng, tòa thƣờng “nhầm lẫn” giữa thế chấp tài sản với bảo lãnh bởi chƣa nắm bắt kịp sự thay đổi trong các quy định pháp luật về vấn đề này. [28] 15
  21. Thế chấp tài sản của ngƣời thứ ba - Theo quy định tại khoản 1, điều 4, Nghị định 163, tài sản bảo đảm có thể thuộc sở hữu của bên thứ ba mà ngƣời này dùng tài sản đó để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền. Trƣờng hợp này là bên thứ ba dùng tài sản của mình để bảo đảm trực tiếp nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp (tức là bên có quyền) và nó khác với việc bên thứ ba bảo đảm nghĩa vụ bằng bảo lãnh (điều 44, Nghị định 163). Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ đƣợc bảo đảm, bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản thế chấp. Nếu giá trị tài sản thế chấp không đủ để thanh toán nghĩa vụ đƣợc bảo đảm, bên thế chấp không phải thanh toán phần còn thiếu. Tóm lại, về mặt bản chất, việc bên thứ ba chứ không phải là bên vay thế chấp tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bên vay tại các NHTM phải đƣợc hiểu là thế chấp chứ không phải là bảo lãnh căn cứ vào quy định của luật gốc về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và bảo đảm tiền vay tại NHTM nói riêng. Hiện nay, trong tất cả các văn bản luật chuyên ngành và văn bản hƣớng dẫn thi hành luật liên quan đến bảo đảm tiền vay đều quy định theo hƣớng chuyển bảo lãnh bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba thành thế chấp tài sản của bên thứ ba. Khoản 1 Ðiều 31 Nghị định số 84/2007/NÐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDÐ), thu hồi đất, thực hiện QSDÐ, trình tự, thủ tục bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi nhà nƣớc thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai quy định: “Bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật Ðất đai được hiểu là thế chấp bằng quyền sử dụng đất cho người thứ ba vay vốn theo quy định của Bộ luật Dân sự (sau đây gọi chung là thế chấp bằng quyền sử dụng đất). Khoản 4 Ðiều 72 Nghị định 163/2006/NÐ-CP ngày 29/12/2006 của 16