Luận văn Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thuc_thi_phap_luat_ve_boi_thuong_ho_tro_khi_nha_nuo.pdf
Nội dung text: Luận văn Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay
- hh TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN CAO HẢI YẾN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN CAO HẢI YẾN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. DOÃN HỒNG NHUNG Hà Nội - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Cao Hải Yến
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NN : Nhà nước QSDĐ : Quyền sử dụng đất SDĐ : Sử dụng đất UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa TP : Thành phố GPMB : Giải phóng mặt bằng TĐC : Tái định cư
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT. 9 1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 9 1.1.1. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. 9 1.1.2. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 12 1.2. Phân biệt giữa thu hồi đất với trưng thu, trưng dụng đất 12 1.3. Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 15 1.4. Cơ sở pháp luật của việc quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 18 1.5. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 21 1.5.1. Sự cần thiết phải bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 21 1.5.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 23 1.5.3. Nội dung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 28 1.5.4. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. . 33 Kết luận chương 1 38 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT QUA THỰC THI TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 39 2.1. Các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013. 39 2.1.1. Điều kiện để được bồi thường, hỗ trợ về đất. 39 2.1.2. Thu hồi đất không được Nhà nước bồi thường, hỗ trợ 44 2.1.3. Giá đất tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất 45 2.1.4. Các trường hợp được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất 50
- 2.1.5. Các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ về tài sản 61 2.2. Các chính sách hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm 65 2.2.1. Hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất. 65 2.2.2. Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. 67 2.2.3. Một số hỗ trợ khác. 68 2.3. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội. 69 2.3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Thành phố Hà Nội 69 2.3.2. Tình hình thực hiện bồi thường, hỗ trợ tại Thành phố Hà Nội . 70 2.3.3. Những kết quả đạt được trong thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội 74 2.3.4. Những tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại Thành phố Hà Nội 78 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 89 Chương 3 HOÀN THIỆN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT 90 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 90 3.2. Định hướng hoàn thiện thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. 92 3.3. Giải pháp hoàn thiện các quy định thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 93 3.4. Giải pháp tổ chức thực thi áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 103 3.4.1. Giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và chủ đầu tư khi Nhà nước thu hồi đất 103
- 3.4.2. Đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch hóa quá trình thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 106 3.4.3. Đảm bảo tuân thủ đúng trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 107 3.4.4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo phát sinh từ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 109 3.5. Các giải pháp bổ trợ thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 110 3.5.1. Đào tạo, nâng cao trình độ, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 110 3.5.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 111 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 112 KẾT LUẬN 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai được coi là “tấc vàng” bởi nó là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặt biệt không gì thay thế nổi của nhiều ngành sản xuất, thành phần quan trong hàng đầu của môi trường sống và là nền tảng để xây dựng các cơ sở kinh tế, khu dân cư, công trình văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia. Trước kia, ông cha ta đấu tranh và hy sinh để bảo vệ từng tấc đất của đất nước, bảo vệ vốn tài sản quốc gia vô cùng quý báu. Ngày nay để phát triển nước nhà, Đảng và Nhà nước ta cũng chú trọng đến việc khai thác vốn quý này phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện mục tiêu “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” như Nghị quyết Đại hội IX đề ra, hàng vạn ha đất được Nhà nước thu hồi để sử dụng vào xây dựng các khu công nghiệp, đô thị, cơ sở hạ tầng và phục vụ cho các mục đích quốc phòng, an ninh. Việc thu hồi đất đã đem lại những kết quả tích cực trong yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động từ ngành nghề nông, lâm nghiệp sang ngành công nghiệp, dịch vụ; chuyển dịch cơ cấu dân số từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp; các dự án thu hồi đất để xây dựng các công trình an sinh xã hội cũng góp phần đảm bảo hơn nữa đời sống của nhân dân. Tuy nhiên vấn đề thu hồi đất và những chính sách hỗ trợ sau khi thu hồi tài sản thuộc sở hữu toàn dân này lại là vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp bởi nó đã động chạm đến quyền lợi trực tiếp của người dân có đất bị thu hồi, nó tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội của cộng đồng dân cư nông thôn Chính vì vậy, vấn đề thu hồi đất hiện nay đang là một vấn đề “nóng”, được sự quan tâm của mọi đối tượng trong xã hội và của cả Nhà nước. 1
- Hiện nay, công tác thu hồi đất và thực hiện các chính sách hỗ trợ sau thu hồi gặp nhiều khó khăn, tồn tại nhiều vướng mắc, hiệu quả thấp, kể cả việc thu hồi đất để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho chính cộng đồng dân cư có đất bị thu hồi. Nhiều địa phương phải điều chỉnh lại quy hoạch, sửa đổi thiết kế dự án, chờ đợi do không giải phóng được mặt bằng hoặc do cơ sở hạ tầng không đảm bảo. Hậu quả là làm ảnh hưởng tiến độ, gây thiệt hại lớn về kinh tế của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng đất và Nhà nước, làm mất ổn định tình hình chính trị - xã hội ở các địa phương. Có rất nhiều nguyên nhân gây nên thực trạng này trong đó có nguyên nhân sâu sa là từ các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất chưa hoàn thiện. Nhận thức được vấn đề này, Nhà nước ta đã liên tục sửa đổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất hiện nay vẫn là mảng đề tài “nóng bỏng” cần sự quan tâm của Nhà nước và của toàn xã hội. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nhằm tìm ra giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thực thi vấn đề này trong thực tế vẫn là việc làm cần thiết ở nước ta hiện nay. Hà Nội với vị trí địa lý, chính trị đặc biệt quan trọng, là Thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Sự phát triển của Hà Nội trên các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội có tác động to lớn đến sự phát triển chung của đất nước. Với ý nghĩa như vậy, Đảng bộ và nhân dân Thủ đô Hà Nội đã không ngừng nỗ lực phấn đấu xây dựng Thủ đô phát triển về mọi mặt, nhằm tiến tới xây dựng một thủ đô hiện đại, văn minh. Để thực hiện được những mục tiêu đặt ra, Hà Nội cần một khối lượng diện tích không nhỏ để có thể xây dựng các công trình, phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao cơ sở hạ tầng, làm tiền đề góp phần tăng trưởng GDP hàng năm. Với một lượng không nhỏ các dự án trong tương lai đã đặt ra cho Hà Nội vấn đề lớn trong công tác bồi thường, GPMB khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố 2
- Hà Nội. Việc thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của Thủ đô và tác động lớn đến đời sống của hàng nghìn hộ gia đình. Chính vì vậy, Đảng ủy và UBND Thành phố Hà Nội cần có sự chuẩn bị đồng bộ về cơ chế, chính sách hợp lý, xây dựng được phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thích hợp nhằm giải quyết thấu đáo, tránh vướng mắc, gây kiện các vấn đề liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, hạn chế tình trạng mất ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Với ý nghĩa trên, tôi lựa chọn đề tài: “Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay” để nghiên cứu làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật học, qua những kiến thức lý luận và thực tiễn, tìm hiểu nguyên nhân và đóng góp ý kiến nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những chế định quan trọng của pháp luật đất đai. Chế định này khi đi vào cuộc sống trực tiếp đụng chạm đến lợi ích của người bị thu hồi đất, lợi ích của cộng đồng và lợi ích của nhà đầu tư nên đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của giới khoa học pháp lý. Thời gian vừa qua đã có một số công trình, sách báo pháp lý nghiên cứu về lĩnh vực này dưới góc độ lý luận và thực tiễn; tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của các tác giả: Trịnh Thị Hằng Nga, “Chế định pháp luật về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 1999; Nguyễn Vĩnh Diện, “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại Thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ (2012); Hoàng Thị Thu Trang, “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An”, Luận văn Thạc sĩ (2012); Nguyễn 3
- Thị Tâm, “Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013); Phạm Thu Thủy, “Pháp luật về Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”,; GS.TSKH. Đặng Hùng Võ, “Giải phóng mặt bằng, còn nhiều khiếu kiện”, Báo Kinh tế và Đô thị, số ra ngày 09/10/2006; Ts. Trần Quang Huy, “Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 10/2010; Ts. Nguyễn Quang Tuyến, “Công khai minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 3/2012; Ts. Doãn Hồng Nhung (Chủ biên), “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam”, sách chuyên khảo, NXB Tư pháp năm 2013; Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Chuyên đề “Bình luận và góp ý đối với các quy định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong dự thảo Luật Đất đai sửa đổi” của PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến đăng trong Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật Đất đai sửa đổi” tổ cức tại Đại học Luật Hà Nội; các nghiên cứu của GS.TSKH. Đặng Hùng Võ: “Cần sửa đổi, bổ sung gì cho Luật Đất đai 2003”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11 (148) tháng 6/2009 Các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước là nguồn tài liệu quý giá để tác giả Luận văn kế thừa và tiếp tục mở rộng nghiên cứu về vấn đề “bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất” trên các bình diện: cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật và trong thực tiễn thi hành. Có thể nói, các công trình nghiên cứu kể trên đã tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau để phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Điều này có tác dụng rất lớn đối với chặng đường bổ sung, hoàn thiện những quy định mới về vấn đề này trong Luật Đất đai năm 2013 để có thể đạt được hiệu quả cao trong thực tiễn áp dụng. 4
- 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn thi hành trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Đề tài nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để làm rõ những kết quả đạt được và đưa ra khó khăn, vướng mắc trong quá trình Nhà nước thu hồi đất. Nghiên cứu để tìm ra những nguyên nhân, những khó khăn tồn tại và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sỹ luật học, đề tài tập trung nghiên cứ hệ thống pháp luật thực định, các nguyên tắc pháp lý cũng như các quy định pháp luật của Việt Nam hiện hnàh trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Luận văn đã tiếp cận và phân tích, bình luận các quy định của Luật Đất đai năm 2013và các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 43/NĐ- CP ngày 15/05/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 47/NĐ-CP ngày 15/05/2014 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nghị định số 44/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định về giá đất Bên cạnh đó, Luận văn cũng tìm hiểu các quy định khác của pháp luật có liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội như: Luật Thủ Đô năm 2012, Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 Qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật, tác giả mong muốn làm rõ, cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để rút ra những kết quả đạt được trong công tác thực thi pháp luật về mảng đề tài này. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra những đánh giá, nêu ra 5
- những khó khăn, nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa trong công tác bồi thường, hỗ trợ. 4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, trong quá trình thực hiện luận văn sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: phương pháp luận nghiên cứu Khoa học của Chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp duy vật biện chứng lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, với mục tiêu tìm hiểu và đánh giá thực tiễn thi hành công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, luận văn còn sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá: Phân tích, tổng hợp số liệu, dữ liệu thu thập được tại Sở Tài nguyên và Môi trường một số tỉnh, thành phố, tại một số đơn vị thuộc Tổng cục Quản lý đất đai - Bộ Tài nguyên và Môi trường để đánh giá, phân tích thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. - Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để đối chiếu các quy định pháp luật, tìm ra các điểm bất cập, chưa phù hợp, chưa thống nhất trong hệ thống pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; điểm chưa phù hợp giữa quy định pháp luật với thực tiễn thi hành. - Phương pháp tổng - phân - hợp, quy nạp, diễn dịch: Phương pháp này được sử dụng khi nghiên cứu một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Luận văn đã tiếp cập, thu thập kế thừa các thông tin, tài liệu tổng kết thi hành Luật Đất đai năm 2013 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các số liệu của các công trình khoa học đã công bố để trên cơ sở đó phân tích, đánh giá pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, đồng thời nhận diện những tồn tại, bất cập của pháp luật về vấn đề này để đề xuất các giải pháp phù hợp theo mục tiêu đặt ra. 6
- 5. Mục đích nghiên cứu Luận văn đặt ra những mục đích nghiên cứu cơ bản sau đây: - Phân tích để làm rõ các vấn đề liên quan đến vấn đề thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; - Tìm hiểu tình hình thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại Thành phố Hà Nội, đưa ra những kết quả đạt được và những tồn tại, khó khăn, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại đó; - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và đi sâu nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật này trên địa bàn Thành phố Hà Nội; - Đưa ra những định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; 6. Tính mới của đề tài Tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình đi trước, Luận văn đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện và tập trung về pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trong đó tập trung đi vào thực tiễn về tình hình bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, Luận văn cũng nghiên cứu những quy định mới về pháp luật đất đai trong Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành, so sánh với những quy định cũ để thấy được những ưu điểm cũng như hạn chế trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa học trên những khía cạnh chủ yếu sau: Thứ nhất, hệ thống hóa những quy định mới nhất liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Qua việc tổng hợp những quy định mới, so sánh với quy định cũ, Luận văn đưa ra những định hướng để tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thồng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; làm rõ sự 7
- khác biệt trong việc Nhà nước thu hồi đất so với việc trưng thu, trưng dụng đất; nêu đặc điểm, bản chất của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để có thể phân biệt được với bồi thường trong các trách nhiệm pháp lý như: trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự; trách nhiệm hình sự; đánh giá ý nghĩa, tác động của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Thứ hai, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và thực trạng áp dụng mảng pháp luật này trên địa thành phố Hà Nội; đồng thời, Luận văn cũng chỉ ra được những đặc điểm riêng có của Hà Nội khác so với các địa phương khác, nhằm tìm ra được đặc trưng trong vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Trên cơ sở đó chỉ ra những tồn tại, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế này trong các quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn TP Hà Nội. Thứ ba, đề xuất những định hướng và các giải pháp cụ thể góp phần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng. 7. Bố cục Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được bố cục gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực thi tại thành phố Hà Nội. Chương 3: Hoàn thiện thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 8
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT. 1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 1.1.1. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Trong đời sống hàng ngày, “bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng trong trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng, “Bồi thường” là “Đền bù những tổn hại gây ra”.[18] Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trách nhiệm này xuất hiện trong nhiều ngành luật như: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong lĩnh vực dân sự; trách nhiệm bồi thường oan, sai do hành vi của các cơ quan tố tụng gây ra trong lĩnh vực pháp luật hình sự; trách nhiệm vật chất do hành vi của người lao động gây ra trong lĩnh vực pháp luật lao động Đối với lĩnh vực Luật đất đai nói riêng, thuật ngữ “bồi thường” khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra từ rất sớm. Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại Chương II đã đề cập việc “Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”. Tiếp sau đó, Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ về quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lâu niên, các hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng thành phố cũng đề cập vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đặc biệt khi Luật Đất đai năm 1987 ra đời, Hội động Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 quy định về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất rừng khi chuyển sang sử dụng 9
- vào mục đích khác, thuật ngữ “bồi thường” được thay thế bằng thuật ngữ “đền bù”. Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và các nghị định hướng dẫn thi hành, có thể kể đến như Nghị định số 90/CP ngày 17/08/1994 của Chính phủ ban hành quy định về việc đền bù thiệt hại khi NN thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 22/04/1998 của Chính phủ về đền bù thiệt hại khi NN thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng Mặc dù pháp luật không đưa ra giải thích chính thức xong có thể hiểu “đền bù thiệt hại” khi NN thu hồi đất là việc trả lại những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra, tương xứng với giá trị hoặc công lao mà người SDĐ đã đầu tư vào đất trong quá trình sử dụng. Khi đề cập đến thuật ngữ “đền bù” thiệt hại người ta hay nghĩ đến việc đền bù 100% giá trị của mảnh đất bị thu hồi. Trong khi đó, thuật ngữ “bồi thường” lại cho thấy rằng NN chỉ bồi thường những giá trị, thiệt hại hợp lý về đất và tài sản trên đất cho người SDĐ khi bị NN thu hồi đất. Mặt khác, nội hàm của thuật ngữ “đền bù” chỉ là việc NN đền bù thiệt hại do hành vi thu hồi đất gây ra cho người SDĐ mà không đi liền sau đó việc thực hiện các chính sách hỗ trợ, tái định cư. Do đó, khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001 được Quốc hội ban hành, thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và tiếp tục xuất hiện trong Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản đi kèm. Tiếp tục kế thừa Luật Đất đai 2003, thuật ngữ “bồi thường” cũng được sử dụng tại các văn bản luật đất đai hiện hành: Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 43/2014/ NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 44/2014/ NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định về giá đất, Thông tư số 37/2014/TT- BTNMT ngày 30/06/2014 Quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất 10
- Tại Khoản 12 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 có giải thích về thuật ngữ “bồi thường” như sau: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”. Như vậy, song song với việc thu hồi đất, NN tiến hành bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người SDĐ bị thu hồi. Việc bồi thường được NN tiến hành trên cơ sở trả lại giá trị quyền SDĐ được tính bằng tiền đối với diện tích đất thực tế bị thu hồi. Từ khái niệm trên, có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như sau: - Bồi thường khi NN thu hồi đất cũng là một loại trách nhiệm nhưng đây không phải là trách nhiệm dân sự mà là trách nhiệm NN. Loại trách nhiệm này chỉ được đặt ra khi NN có hành vi thu hồi đất. Nói cách khác, bồi thường về đất là hậu quả pháp lý của hành vi thu hồi đất của NN. - Bồi thường là trách nhiệm của Nhà nước nhằm bù đắp tổn thất về quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ do hành vi thu hồi đất của NN gây ra. Trách nhiệm này được quy định trong Luật đất đai; - Bồi thường là hậu quả pháp lý trực tiếp do hành vi thu hồi đất của NN gây ra. Điều này có nghĩa là chỉ phát sinh sau khi có quyết định hành chính về thu hồi đất của cơ quan NN có thẩm quyền; - Bồi thường được thực hiện trong mối quan hệ song phương giữa một bên là NN (chủ thể có hành vi thu hồi đất) với bên kia là người chịu tổn hại về quyền và lợi ích hợp pháp do hành vi thu hồi đất của NN gây ra; - Căn cứ để xác định bồi thường là diện tích thực tế bị thu hồi; thiệt hại thực tế về tài sản, cây cối, hoa màu trên đất và khung giá đất do NN quy định tại thời điểm thu hồi đất; - Người SDĐ khi bị NN thu hồi đất muốn được bồi thường phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định; - Người bị Nhà nước thu hồi đất không chỉ được bồi thường về đất mà còn được BTTH về tài sản trên đất và được hưởng các chính sách hỗ trợ, tái định cư của NN nhằm nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất; 11
- 1.1.2. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh thuật ngữ bồi thường, trong các văn bản pháp luật hiện hành còn đề cập đến khái niệm hỗ trợ khi NN thu hồi đất. Tại Luật Đất đai năm 2013, Khoản 14 Điều 4 có giải thích: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”. Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung thể hiện sự nhân đạo của Nhà nước, biểu hiện bản chất “của dân, do dân và vì dân” của Nhà nước ta nhằm hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với người dân vị thu hồi đất, thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới giúp đỡ một phần nào rủi ro mà họ phải gánh chịu đồng thời nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất. 1.2. Phân biệt giữa thu hồi đất với trưng thu, trưng dụng đất Trưng thu đất, trưng dụng đất và thu hồi đất là những khái niệm khá quen thuộc và được áp dụng nhiều trên thực tiễn. Mặc dù đây là ba cơ chế gắn liền với pháp luật đất đai ở nước ta, gắn liền với công cuộc đổi mới kinh tế, lợi ích công cộng của quốc gia. "Thu hồi đất hay trưng dụng đất đều dẫn đến hệ quả pháp lý là làm thay đổi quan hệ pháp luật quyền sử dụng đất. Theo đó, quyền sử dụng đất sẽ được chuyển dịch từ phía người sử dụng đất sang Nhà nước bằng các thủ tục hành chính nhất định. Tuy nhiên, xét về bản chất thì giữa thu hồi đất và trưng thu, trưng dụng đất là hoàn toàn khác nhau" [32, trang 78]. Thứ nhất, về khái niệm trưng thu đất, trưng dụng đất và thu hồi đất Đối với cơ chế trưng thu đất thì vấn đề trưng thu đất đã được đặt ra tại cuộc Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm1953–1956. Từ 12
- sau năm 1975 đến nay, việc trung thu, trưng mua chủ yếu thực hiện trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh. Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật cụ thể nào quy định riêng về cơ chế trưng thu đất. Do đó, có thể hiểu khái niệm trưng thu đất: trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước lấy đất và có bồi thường theo thời giá thị trường cho cá nhân, tổ chức bị trưng thu đất. Trưng dụng cũng được định nghĩa là việc cơ quan nhà nước tạm lấy đi (vật hoặc người thuộc quyền sở hữu hay quyền quản lý của tư nhân, tập thể hay cơ quan, xí nghiệp cấp dưới) để sử dụng trong một thời gian nào, một công việc nào đó, do yêu cầu đặc biệt. Hoặc “Trưng dụng là biện pháp hành chính cho phép một cơ quan nhà nước với điều kiện có bồi thường, buộc tư nhân phải cho nhà nước sử dụng một động sản hay bất động sản trong một thời gian nhất định”. Do đó, có thể hiểu, trưng dụng đất là việc Nhà nước điều chuyển quyền sử dụng một diện tích đất trong một giai đoạn tạm thời từ người sử dụng đất hợp pháp sang Nhà nước một cách bắt buộc theo thủ tục hành chính không do lỗi của người sử dụng đất. Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này” (khoản 5 điều 4 Luật đất đai năm 2003). Thứ hai, về cơ sở pháp lý của việc trưng dụng, trưng thu và thu hồi đất Theo Điều 23, Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008, trưng dụng tài sản là "việc Nhà nước sử dụng có thời hạn tài sản của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư thông qua quyết định hành chính trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia. Trong đó, đất đai là tài sản thuộc đối tượng trưng dụng" [28]. Đồng thời, Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008 cũng làm rõ cơ chế trưng dụng đất đai. Trưng dụng đất chỉ được thực hiện khi Nhà nước cần huy động một diện tích nhất định, theo mục đích nhất định, theo mục đích nhất định đã 13