Luận văn Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thuc_hien_phap_luat_ve_phong_chong_bao_luc_gia_dinh.pdf
Nội dung text: Luận văn Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THỊ DUYÊN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH HỒ CHÍ MINH, năm 2020 1
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực được các cơ quan cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác Học viên Huỳnh Thị Duyên 2
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 8 1.2. Chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực 16 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 26 Kết luận chương 1 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 31 2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Thành phố Hồ Chí Minh 31 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Thành phố Hồ Chí Minh 43 2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại thành phố Hồ Chí Minh 57 Kết luận chương 2 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 66 3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 66 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 69 Kết luận chương 3 KẾT LUẬN 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLGĐ Bạo lực gia đình PCBLGĐ Phòng, chống bạo lực gia đình 4
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Số vụ bạo lực gia đình giai đoạn từ năm 2015 -2019 39 Bảng 2.2: Tổng hợp các hình thức bạo lực gia đình từ năm 2015 -2019 40 Bảng 2.3: Số liệu phân tích nạn nhân là phụ nữ từ năm 2015 -2019 42 Bảng 2.4: Thống kê tình hình xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình năm 2015 -2019 56 5
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Đề tài Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời gian gần đây, tình trạng bạo lực gia đình trở thành vấn nạn của xã hội. Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả cho con người, nhất là đối với phụ nữ; biết bao phụ nữ bị tổn thương nặng nề về thể chất, trí tuệ và tinh thần; biết bao gia đình tan vỡ; biết bao nạn nhân là trẻ em phải sống lang thang không nơi nương tựa Chính vì vậy, phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là vấn đề cấp bách hiện nay. Mặc dù, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quan tâm tới công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Khẳng định qua hệ thống văn bản pháp luật khá đầy đủ điều chỉnh về phòng, chống bạo lực gia đình trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân như: Hiến pháp, Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật phòng, chống bạo lực gia đình, một số luật khác và các văn bản dưới luật có liên quan. Tuy nhiên, thực tiễn pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cũng còn nhiều hạn chế: bạo lực gia đình vẫn diễn biến phức tạp dưới nhiều hình thức gây ảnh hưởng đến gia đình, việc thực thi pháp luật và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình chưa đầy đủ và thiếu hiệu quả. 1
- Thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh, công tác phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ còn nhiều hạn chế nhất định: công tác tuyên truyền phòng, chống bạo lực gia đình chưa sát với đối tượng, các nguồn lực xã hội dành cho công tác này còn thiếu; nhiều vụ bạo lực gia đình chưa được thống kê đầy đủ; nhận thức về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình của người dân còn hạn chế, đặc biệt là phụ nữ với tâm lý “không muốn vạch áo cho người xem lưng” do đó tình trạng bạo lực gia đình còn xảy ra phổ biến. Trước thực trạng trên, đòi hỏi phải có thêm những nghiên cứu để tìm ra giải pháp cụ thể để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, không ngừng nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình đặc biệt là đối với phụ nữ. Nhằm góp phần thực hiện mục tiêu trên, học viên chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Với đề tài này, học viên muốn được góp một phần công sức của mình vào việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mới mẻ, mà là hiện tượng xã hội có tính phổ biến trên Thế giới. Bạo lực gia đình là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước và quốc tế. Những bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài cụ thể như: - Nguyễn Thị Kim Phụng (2009), Tổng quan về bạo lực và pháp luật phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em. Tạp chí Luật học. Bài viết đã phân tích một cách tổng quan về bạo lực và pháp luật phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em. Với các quy định hiện hành về bạo lực và biện pháp 2
- phòng chống bạo lực, đặc biệt là đưa vào thực thi Luật phòng chống bạo lực gia đình, hy vọng tình trạng bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em sẽ ngày càng giảm trong xã hội. - Nguyễn Thị Ngọc Bích (2009), Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Tạp chí Luật học. Bài viết làm rõ một số vấn đề về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phòng, chống bạo lực gia đình được pháp luật quy định dưới các góc độ: Trong hoạt động phòng ngừa bạo lực gia đình; bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính với người có hành vi bạo lực gia đình. - Ngô Thị Hường (2006), Bạo lực gia đình - Một hình thức thể hiện sự bất bình đẳng nam nữ. Tạp chí Luật học. Tìm hiểu về thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của bạo lực gia đình ở Việt Nam. Đưa ra giải pháp về pháp luật đối với việc ngăn chặn và hạn chế bạo lực gia đình ở Việt Nam. Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác có liên quan như: - Trần Thị Hòe (2010), Pháp luật Quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Tạp chí Khoa học chính trị. - Lê Lan Chi (2011), Bàn về ranh giới xử lý hình sự và xử lý hành chính các hành vi bạo lực gia đình. Tạp chí Nhà nước và pháp luật. - Võ Tuấn Anh (2012), Phòng, ngừa tội phạm có liên quan đến bạo lực gia đình trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Hoàng Thương (2016), Thành phố Hồ Chí Minh: Đẩy mạnh các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình. - Nguyễn Thị Trang (2016), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam. 3
- - Nguyễn Thị Ngọc Tú (2017), Quản lý Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. - Huỳnh Thị Phúc (2018), Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. - Viện nghiên cứu Quyền con người (2008), Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã phân tích, đánh giá vấn đề bạo lực gia đình dưới nhiều khía cạnh khác nhau, phân tích được các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta, thực tiễn thực hiện pháp luật về PCBLGĐ ở một vài địa phương, xây dựng được các quan điểm, giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về PCBLGĐ trong thời gian tới. Tuy nhiên việc nghiên cứu vấn đề cụ thể về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại thực tiễn một địa bàn cụ thể là thành phố Hồ Chí Minh thì chưa có đề tài nào đề cập tới. Đề tài “Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là công trình khoa học độc lập, có tham khảo nhưng không trùng lắp với các công trình nghiên cứu trên, nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận và pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu 4
- Mục đích tổng quan của Luận văn là phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và đề xuất những giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu và phân tích cơ sở lý luận của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình theo những quy định hiện hành. - Phân tích tình hình bạo lực gia đình đối với phụ nữ và thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở thành phố Hồ Chí Minh; phân tích những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và làm rõ các nguyên nhân của hạn chế đó. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tập trung vào việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: lý luận, thực tiễn và những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019. 5
- 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Việt Nam về Nhà nước và pháp luật trong sự nghiệp đổi mới, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu đề tài cụ thể như sau: Chương 1 Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để làm rõ các khái niệm về bạo lực gia đình đối với phụ nữ, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Đồng thời, khát quát về chủ thể, nội dung và hình thức thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Chương 2 Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, đối chiếu so sánh, phương pháp diễn giải, phương pháp quy nạp để phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3 sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để rút ra những quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Trong thời gian qua, đã có một số đề tài, luận văn nghiên cứu về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, tuy nhiên những đề tài này chỉ đề cập đến một số khía cạnh này hay khía cạnh khác của phòng, chống bạo lực gia đình, 6
- chưa có đề tài nào nói về phòng, chống bạo lực gia đình riêng đối với đối tượng là phụ nữ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện về thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận thức của người dân về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới và có thể là kinh nghiệm thực tiễn cho các địa phương khác, đồng thời Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các vấn đề liên quan đến công tác gia đình, công tác phòng, chống bạo lực gia đình. 7. Cơ cấu luận văn gồm Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được chia thành ba chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ - Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Thành phố Hồ Chí Minh - Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Thành phố Hồ Chí Minh 7
- CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Khái niệm bạo lực gia đình đối với phụ nữ “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình” [33] theo Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007. Khái niệm thành viên trong gia đình được hiểu là: “Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột” [31] theo Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Theo tinh thần Luật Bình đẳng giới năm 2006 thì bạo lực gia đình còn được hiểu là sự phân biệt đối xử về giới “là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình” [32]. Bạo lực gia đình là một trong những hình thức ngấm ngầm nhất của nạn bạo lực chống lại phụ nữ. Nó phổ biến ở tất cả các xã hội. Trong những mối quan hệ gia đình, phụ nữ thuộc tất cả các lứa tuổi phải chịu đựng tất cả những 8
- loại bạo lực, kể cả đánh đập, hãm hiếp, bạo lực về tinh thần và những hành động bạo lực khác. Thiếu độc lập về kinh tế buộc nhiều phụ nữ phải chịu đựng các quan hệ bạo lực. Việc nam giới rũ bỏ một số trách nhiệm của họ trong gia đình cũng có thể là một hình thức bạo lực và ép buộc. Các hình thức bạo lực này gây nguy cơ cho sức khỏe của phụ nữ và làm giảm khả năng của phụ nữ tham gia vào đời sống gia đình và đời sống cộng đồng. Theo Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ của Liên hiệp quốc năm 1993 thì “bạo lực đối với phụ nữ có nghĩa là mọi hành vi bạo lực trên cơ sở giới tính dẫn đến hoặc có thể dẫn đến sự xâm hại về thể chất, tình dục hoặc tâm lý hoặc sự đau khổ cho phụ nữ kể cả việc đe dọa có những hành vi như vậy, việc cưỡng đoạt hoặc tước đoạt vô cớ tự do của phụ nữ, cho dù diễn ra trong đời sống công cộng hoặc riêng tư” [11]. Theo định nghĩa trên, bạo lực gia đình đối với phụ nữ bao gồm các hành vi bạo lực trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục, tâm lý xảy ra trong gia đình. Phần lớn bạo lực chống lại phụ nữ xảy ra trong gia đình và người gây ra bạo lực luôn luôn là nam giới, thường là chồng hoặc chồng cũ, người cha, người anh, người em trai, con trai, cháu trai. 1.1.1.2. Khái niệm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và đề cao thực hiện công tác xây dựng và phát triển gia đình theo mục tiêu bảo đảm xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ. Bên cạnh đó, cũng đặc biệt quan tâm, bảo vệ người phụ nữ, cụ thể được thể hiện qua Hiến pháp năm 1946, đã ghi nhận (Điều 1) “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, 9
- gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”; (Điều 9) “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” [12]. Hiến pháp năm 1959 (Điều 24), quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình” [13]. Hiến pháp năm 1980, có các quy định về gia đình rõ ràng, đầy đủ hơn: “gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con” [14]. Hiến pháp năm 2013 quy định các vấn đề chung có tính nguyên tắc về gia đình và quan tâm, bảo vệ hơn đối với phụ nữ tại Điều 26 “công dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội” [16]. Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác xây dựng và phát triển gia đình thời kỳ đổi mới như: Chỉ thị số 49/CT-TW ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật về dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội. Theo các quy định trên, có thể nói “Phòng, chống bạo lực gia đình là việc thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi mọi hành vi bạo lực trong gia đình, nhằm bảo đảm xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình 10
- đẳng, tiến bộ và tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình có điều kiện phát triển”. Vậy, “Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là việc thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi mọi hành vi bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình, giúp cho người phụ nữ tránh được bạo lực gia đình, đảm bảo các quyền con người và có cuộc sống hạnh phúc”. Qua những phân tích trên, có thể hiểu: “Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan tới hành vi bạo lực giữa các thành viên trong gia đình, nhằm bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của họ, tạo điều kiện cần thiết để xây dựng gia đình bình đẳng, hạnh phúc, văn minh, góp phần ổn định trật tự xã hội, thực hiện các mục tiêu về quyền con người, quyền công dân theo những chủ trương, đường lối chung đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận”. Như vậy, “Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan tới hành vi bạo lực gia đình đối với người phụ nữ trong gia đình, nhằm bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của họ, tạo điều kiện cần thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ, góp phần xây dựng gia đình bình đẳng, hạnh phúc, văn minh, góp phần ổn định trật tự xã hội”. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một việc làm khó khăn và lâu dài. Để bảo vệ người phụ nữ, bảo vệ quyền và vị trí của người phụ nữ trong xã hội, việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Việc PCBLGĐ đối với phụ nữ chỉ đạt được hiệu quả khi nó được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp 11
- luật, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đây chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ con người trong đó có người phụ nữ trước bạo lực gia đình. 1.1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ Khái niệm “Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, định hướng nhằm thực hiện hóa nội dung các quy định pháp luật bằng hành vi hợp pháp của các chủ thể”. Như vậy, ngoài việc không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước còn phải tổ chức thực hiện pháp luật nhằm thực hiện hóa nội dung các quy định pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình bằng hành vi hợp pháp của các chủ thể có liên quan. Theo đó, có thể hiểu: thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật”. Hay nói cách khác, thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình là hoạt động thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được tiến hành theo những hình thức pháp lý nhất định, có mối liên hệ và quy định lẫn nhau trong một cơ chế phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn lịch sử, nhằm hiện thực hóa các yêu cầu, nội dung của quy phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bảo đảm cho phòng, chống bạo lực gia đình được thiết lập và duy trì trong đời sống xã hội và gia đình. Vậy: thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật, góp phần bảo đảm 12
- quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ trong đời sống xã hội và gia đình. 1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ Thứ nhất, Chủ thể thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là toàn xã hội. Thứ hai, phạm vi thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là môi trường và những giới hạn không gian, địa lý để các chủ thể tiến hành các hoạt động thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Để xác định phạm vi thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ đòi hỏi Nhà nước phải quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ; chế độ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trong thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ mang tính chất quản lý hành chính. Thứ ba, nội dung thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ có nội hàm phong phú và bao trùm toàn bộ đời sống xã hội như: các chiến lược, chính sách, mục tiêu của Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Do đó, những nội dung không thể thiếu trong thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là các biện pháp thúc đẩy phổ biến, chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao nhận thức phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ cho đội ngũ cán bộ, những người có liên quan đến việc thực thi chính sách pháp luật đến công tác phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. 1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 13
- 1.1.3.1 Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là phương thức để những chủ trương, chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương, đường lối, chính sách về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, trên cơ sở đó Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách thành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Đảng ta rất quan tâm đến công tác đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình. Ngay từ năm 1982, đã lãnh đạo Chính phủ Việt Nam ký kết gia nhập “Công ước của Liên hiệp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ”, đồng thời ban hành các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao điều chỉnh các vấn đề có liên quan BLGĐ như Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới. Đặc biệt, là ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống BLGĐ, nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình, góp phần củng cố và xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc trong điều kiện hội nhập quốc tế. Việc ra đời của Luật Phòng, chống BLGĐ là cơ sở pháp lý để nâng cao vai trò, hiệu quả công tác phòng, chống BLGĐ của Việt Nam. Đó là cách thức có hiệu quả nhất để chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ được áp dụng thực hiện trong cuộc sống. 1.1.3.2. Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ giúp các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nâng cao ý thức pháp luật Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ có vai trò quan trọng trong việc củng cố, nâng cao ý thức pháp luật; giúp các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nắm vững pháp luật, nhận thức sâu sắc, 14
- hiểu biết đầy đủ hơn về chuẩn mực xã hội, những nguyên tắc cơ bản về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, sẽ nhận thức đầy đủ hơn về vai trò, trách nhiệm trong việc thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. 1.1.3.3. Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là biện pháp phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật Các chủ thể khi thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ sẽ nhận thức được giới hạn hành vi và tự giác thực hiện. Các chủ thể sẽ bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự khi bị phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. 1.2. Chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 1.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình hiện hành quy định trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị vũ trang nhân dân, các gia đình, dòng họ và công dân Việt Nam có liên quan đến việc thực hiện mục tiêu phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả cho con ngườim, do đó cần sự chung tay của toàn xã hội. Đặc biệt, mỗi cá nhânphải nâng cao trách nhiệm trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Thực hiện nghiêm các “quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống 15
- ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác. Kịp thời ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền” [33]. Trách nhiệm của gia đình là phải tăng cường “giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác. Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; can ngăn người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình. Phối hợp với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình” [33]. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên được quy định tại Điều 33 Luật phòng, chống bạo lực gia đình: tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác; kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác; tham gia phòng, chống bạo lực gia đình, chăm sóc, hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình; tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được giao thực hiện một số nhiệm vụ tại Điều 34 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 gồm: “các nhiệm vụ tại Điều 33 Luật phòng, chống bạo lực gia đình và một số nhiệm vụ như: Tổ chức cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; tổ chức các hoạt động dạy nghề, tín dụng, tiết kiệm để hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình” [33]. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị vũ trang nhân dân 16
- trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện công tác quản lý nhà nước, tuyên truyền, vận động và thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình tại địa phương, đơn vị theo quy định của pháp luật. 1.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 1.2.2.1 Thực hiện pháp luật về phòng bạo lực gia đình đối với phụ nữ Phòng ngừa bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một biện pháp rất quan trọng và có tác dụng lớn trong việc ngăn chặn và đẩy lùi bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Nếu thực hiện phòng ngừa tốt, bạo lực gia đình sẽ ít xảy ra hơn thì bạo lực gia đình đối với phụ nữ cũng ít đi. Nội dung về phòng ngừa bạo lực gia đình đối với phụ nữ cần thực hiện: - Việc thông tin, tuyên truyền những nội dung cơ bản của Luật phòng, chống bạo lực gia đình đến mọi tầng lớp nhân dân nhằm thay đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xoá bỏ bạo lực gia đình, bình đẳng giới, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là đối với người phụ nữ và nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam, vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội; tác hại của bạo lực gia đình; kiến thức về hôn nhân và gia đình; kỹ năng ứng xử, xây dựng gia đình hạnh phúc, xây dựng gia đình văn hoá và các nội dung khác có liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. - Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp trong gia đình cần phát huy vai trò, trách nhiệm của gia đình, dòng họ; hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp cần giải quyết kịp thời, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; tôn trọng sự tự nguyện của các bên; khách quan, công minh, có lý, 17