Luận văn Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay

pdf 99 trang vuhoa 24/08/2022 8241
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_thuc_hien_phap_luat_ve_giao_duc_va_dao_tao_o_tinh_b.pdf

Nội dung text: Luận văn Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bỡnh Định hiện nay Mở ĐầU
  2. 1. Tính cấp thiết của đề tài Quản lý xã hội bằng pháp luật là phương thức quản lý cơ bản của hầu hết các Nhà nước đương đại trên thế giới. Để quản lý xã hội, đòi hỏi mỗi Nhà nước phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ, vấn đề quan trọng hơn là tổ chức thực hiện như thế nào để pháp luật đó đi vào cuộc sống thực tiễn, để những quy định của Nhà nước được thực thi trong thực tế nhằm ổn định và phát triển xã hội theo định hướng của giai cấp cầm quyền. ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những mặt hạn chế, yếu kém: Việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, tình trạng thiếu hiểu biết pháp luật, coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến những khuyết điểm, yếu kém trong thời gian qua. Do đó, việc đề cao pháp luật, tôn trọng tính tối cao của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm túc là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Giáo dục và đào tạo là nền tảng phát triển của mọi quốc gia. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta đã có những mặt tiến bộ, nhất là từ khi có Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Luật Giáo dục (năm 1998) đã thực sự coi phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển, cho nên hệ thống giáo dục quốc dân đã được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh, góp phần vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh những thành tựu đó, giáo dục và đào tạo nước ta còn nhiều mặt yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi to lớn ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
  3. Hòa nhịp với tiến trình đổi mới của đất nước, cũng như các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, tỉnh Bình Định đã ra sức phấn đấu và đạt được những thành tựu trên các mặt của đời sống xã hội. Riêng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã có những bước phát triển: Quy mô trường lớp tiếp tục tăng, mạng lưới trường lớp phát triển rộng khắp đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân. Trình độ dân trí được nâng lên rõ rệt, chất lượng và hiệu quả giáo dục đã có những chuyển biến tích cực. Chính quyền các cấp ở tỉnh Bình Định đã tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục-đào tạo, đồng thời huy động nhiều nguồn vốn trong xã hội để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho trường lớp. Chủ trương xã hội hóa bước đầu có tác dụng, làm cho giáo dục và đào tạo thực sự là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân. Công tác thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định đã đạt được nhiều kết quả trên cả ba phương diện: tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định cũng còn những khiếm khuyết và yếu kém, dẫn đến tình trạng chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp; những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục chưa ngăn chặn kịp thời; công tác quản lý đối với giáo dục và đào tạo còn có những biểu hiện tùy tiện chưa tuân thủ pháp luật nên có ảnh hưởng đến yêu cầu ổn định, phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh nhà. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bỡnh Định hiện nay” để làm luận văn tốt nghiệp cao học luật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện pháp luật đang được đặt ra và là nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực đã có những công trình nghiên cứu như: - “Thực hiện pháp luật trong hoạt động của lực lượng Công an nhân dân để bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay ”, Luận án phó tiến sĩ Luật học của Đỗ Tiến Triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 1996.
  4. - “Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở ở tỉnh Bình Thuận hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Lê Trung Quân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2004. Riêng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau như: - “Tiếp tục đổi mới và phát triển giáo dục-đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX ”, của GS.VS. Phạm Minh Hạc, Tạp chí Giáo dục số 10, tháng 8-2001. - “Ngành giáo dục-đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và triển khai Nghị quyết Đại hội IX ” của Nguyễn Minh Hiển, Tạp chí Cộng sản số 22, tháng 8-2002. - “Khái niệm giáo dục và vai trò quan trọng của giáo dục qua các thời kỳ lịch sử ” của Nguyễn Đăng Tiến, Tạp chí Giáo dục, số 36, tháng 8-2002. - “Nỗ lực phấn đấu toàn diện làm cho giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu ” của Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Giáo dục, số 38, tháng 9-2002. - “Tổ chức thực hiện chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 ” của Tiến sĩ Phạm Văn Kha, Tạp chí Giáo dục, số 53, tháng 3-2003. - “Một số vấn đề cơ bản cần quan tâm khi triển khai đổi mới giáo dục bậc tiểu học ” của Đặng Huỳnh Mai, Tạp chí Giáo dục, số 54, tháng 3/2003. - “Nhận diện một số khó khăn trong quản lý nhà nước đối với giáo dục nước ta hiện nay ” của PGS.TS. Đặng Quốc Bảo, Tạp chí Giáo dục số 66, tháng 9-2003. - “Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục-chính sách và các mô hình ” của PGS.TS.Trần Khánh Đức, Tạp chí Giáo dục số 67, tháng 9-2003. - “Về phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, các lĩnh vực văn hóa-xã hội ”, Tạp chí Giáo dục, số 81, tháng 3-2004. - “Một số vấn đề về hoàn thiện Luật Giáo dục ” của PGS.TS Chu Hồng Thanh, Tạp chí Quản lý nhà nước, số tháng 11-2004. - “Hoàn thiện pháp luật về giáo dục ở Việt Nam hiện nay ” của Lê Thị Kim Dung, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004.
  5. Các công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung vào các vấn đề về: chính sách hoàn thiện hệ thống giáo dục và đào tạo; chính sách nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo; nghiên cứu lý luận và thực tiễn để xác định phương hướng và nội dung hoàn thiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam Đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Vì vậy, luận văn là công trình đầu tiên thực hiện đề tài này trong phạm vi một địa phương. Tuy vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tài liệu quý giá để tác giả tham khảo trong việc thực hiện đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo với tư cách là những phương tiện để đưa pháp luật về giáo dục và đào tạo vào cuộc sống thực tiễn, là biện pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo mà Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần phòng ngừa, hạn chế các vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định. - Luận cứ sự cần thiết phải đảm bảo vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước nói chung và ở tỉnh Bình Định nói riêng trong giai đoạn hiện nay. - Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định bao gồm cả những mặt đã làm được, những mặt chưa làm được, xác định nguyên nhân của những kết quả đạt được và những hạn chế, thiếu sót, rút ra những kinh nghiệm. - Trên cơ sở thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định, cùng với những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, luận văn bước đầu
  6. xây dựng các giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là vấn đề rộng và được thông qua các hình thức: tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo. Nhưng chủ yếu vẫn là hình thức thi hành (chấp hành) pháp luật và áp dụng pháp luật, do đó thi hành pháp luật và áp dụng pháp luật được xác định là đối tượng nghiên cứu chính của luận văn. Phạm vi vấn đề nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo về các nội dung: Tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo. Trọng tâm của luận văn giới hạn nghiên cứu tình hình từ khi Nhà nước ban hành Luật Giáo dục (năm 1998) cho đến trước khi Quốc hội thông qua Luật Giáo dục (sửa đổi, bổ sung). Giới hạn không gian nghiên cứu ở tỉnh Bình Định. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; bám sát đường lối, chủ trương của Đảng về thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa gắn với việc quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử, cụ thể. Ngoài ra luận văn còn kết hợp các phương pháp như: lôgíc, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
  7. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở một địa phương cụ thể. Vì vậy luận văn có một số vấn đề mới, cụ thể: - Xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. - Khái quát được những đặc thù của việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định. - Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định trên các mặt tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Từ đó luận văn đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định. 7. ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Thông qua việc làm rõ thực trạng của vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định - kết quả đã đạt được và những hạn chế, bất cập, luận văn góp phần khẳng định nhu cầu thực tiễn của việc bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định. Khẳng định, củng cố nhận thức về vị trí, vai trò và ý nghĩa của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo trong việc phát huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật, phòng ngừa và giảm thiểu các vi phạm pháp luật, để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, do đó làm phong phú thêm lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cấp ủy và chính quyền của tỉnh Bình Định trong việc xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo của Sở Giáo dục-Đào tạo của tỉnh trong việc nghiên cứu và chỉ đạo các hoạt động về giáo dục-đào tạo trong phạm vi tỉnh Bình Định. 8. Kết cấu của luận văn
  8. Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  9. Chương 1 Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo 1.1. Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật Để quản lý xã hội, quản lý nhà nước, các Nhà nước luôn quan tâm xây dựng những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo lợi ích của nhân dân, lợi ích của Nhà nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mà các chủ thể tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật. Pháp luật với ý nghĩa quan trọng của nó không chỉ dừng lại bằng các đạo luật mà vấn đề vô cùng quan trọng là “Pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, quản lý nhà nước; cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội ” [89, tr.225]. Với ý nghĩa thiết thực đó, vấn đề thực hiện pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng trong toàn bộ các hoạt động pháp luật đó là: xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật. 1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật Thực hiện pháp luật là hoạt động tiếp nối sau khi văn bản pháp luật được ban hành nhằm làm cho các qui định của pháp luật đi vào cuộc sống và trở thành qui tắc xử sự của các chủ thể pháp luật. Hiện nay đang có những định nghĩa khác nhau về thực hiện pháp luật. Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Nhà nước và Pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, thực hiện pháp luật được hiểu là “ quá trình hoạt động có mục đích làm cho những qui định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [40, tr.270]. Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thì: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có
  10. mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật ” [24, tr.369]. Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật ”[22, tr. 463]. Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện Hành chính Quốc gia thì: “Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho những quy tắc của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [39, tr.344]. Chúng ta thấy rằng, các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối đồng nhất về những nội dung cơ bản, đó là: Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Tuy nhiên, cũng có sự khác nhau trong các định nghĩa trên. Có định nghĩa nêu thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động, các định nghĩa khác lại chỉ nêu thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình . Theo chúng tôi, hiện tượng, quá trình hay quá trình hoạt động đều là những phạm trù có nội hàm riêng của nó nhưng có cùng mục đích là thực hiện những quy định của pháp luật, làm cho những quy định ấy trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật, đáp ứng yêu cầu đặt ra của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, hoạt động thực hiện pháp luật không chỉ là những hành vi đơn lẻ, độc lập, cắt khúc mà nó luôn luôn là một quá trình. Vì vậy, về khái niệm thực hiện pháp luật chúng tôi đồng ý với nội dung cơ bản trong các định nghĩa nêu trên và sắp xếp lại như sau: Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các qui định của pháp luật trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật và được thực hiện trong thực tế cuộc sống 1.1.2. Hình thức thực hiện pháp luật
  11. Các qui phạm pháp luật rất phong phú, đồng thời chúng cũng xác định quyền, nghĩa vụ thực hiện đối với các chủ thể khác nhau, vì thế hình thức thực hiện chúng cũng rất đa dạng. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (tập1) của Khoa Nhà nước và pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội đều cho rằng có bốn hình thức thực hiện pháp luật nhằm mục đích chuyển tải các qui phạm pháp luật vào cuộc sống thực tiễn, đó là: Tuân theo (tuân thủ) pháp luật (xử sự thụ động) là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Những qui phạm pháp luật cấm trong luật hình sự, luật hành chính được thực hiện dưới hình thức này. Ví dụ: Một công dân kiềm chế không thực hiện những hành vi mà Luật Hình sự ngăn cấm, tức là công dân đó đã tuân thủ các quy định của Luật Hình sự. Thi hành (chấp hành) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Những qui phạm pháp luật bắt buộc (những quy định nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi tích cực nhất định) được thực hiện ở hình thức này. Ví dụ: Công dân chấp hành tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc với hành động dũng cảm và tinh thần hy sinh quên mình. Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép). Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật qui định công dân có quyền khiếu nại và tố cáo. Một công dân biết một người nào đó có hành vi vi phạm pháp luật, nhưng công dân ấy có thể tố cáo (hoặc không tố cáo) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy công dân đó đã sử dụng (hoặc không sử dụng) pháp luật (quyền được tố cáo).
  12. áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trường hợp này các chủ thể thực hiện pháp luật thực hiện các qui định của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ: Nhà nước qui định cá nhân, tổ chức kinh doanh những ngành, nghề mà theo qui định của pháp luật phải nộp thuế thì phải có nghĩa vụ nộp thuế. Nếu cá nhân, tổ chức kinh doanh đó không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình, thì Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật, ra quyết định cưỡng chế bắt buộc cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình. Như vậy, thì thực hiện pháp luật được thực hiện thông qua bốn hình thức: tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, hình thức áp dụng pháp luật có sự khác biệt với các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể thực hiện pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn có sự tham gia của Nhà nước, thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. 1.1.3. Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật Một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với việc xây dựng pháp luật của Nhà nước ta là pháp luật phải là cơ sở của việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước, pháp luật phải là công cụ gìn giữ trật tự, kỷ cương xã hội, pháp luật là phương tiện xử sự của mọi công dân. Đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhu cầu khách quan của xã hội phải được phản ánh thông qua hệ thống pháp luật. Quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng vấn đề cơ bản không chỉ Nhà nước xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ, mà điều quan trọng hơn cả là pháp luật của Nhà nước phải được mọi thành viên trong xã hội tôn trọng và chấp hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để, pháp luật phải đi vào cuộc sống, phải biến thành hành động của mọi công dân, mọi tổ chức trong xã hội.
  13. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ cũng chưa đủ vì “pháp luật ở trạng thái đó vẫn là trạng thái “tĩnh” nó có thể tác động đến trật tự pháp luật, thúc đẩy quá trình phát triển của các quan hệ xã hội nhưng mức độ rất hạn chế và chủ yếu mới chỉ là thông qua ý thức pháp luật của công dân ở một bộ phận không đáng kể” [89, tr.225]. Pháp luật chỉ có thể phát huy hết tác dụng khi nó được tổ chức thực hiện tốt trong đời sống xã hội, khi các qui định của pháp luật trở thành những hành vi, cách xử sự thực tế của các cá nhân, tập thể trong cuộc sống hằng ngày. Trong đời sống xã hội có rất nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội đó. Thực tiễn cho thấy có rất nhiều văn bản pháp luật phát huy tác dụng tốt, đem lại hiệu quả thiết thực trong công tác quản lý, nhưng vẫn còn không ít văn bản pháp luật chưa phát huy được hiệu lực thi hành, không mang lại hiệu quả như mong muốn. Mặt tồn tại đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do chưa tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật. “Khi giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật có một khoảng cách lớn, tức là pháp luật được ban hành với khối lượng lớn mà ít đi vào cuộc sống, thì sẽ dẫn đến tình trạng pháp luật bị coi thường, không hiệu quả ” [89, tr.226]. Vì vậy, thực hiện pháp luật có vai trò to lớn trong việc chuyển văn bản pháp luật của Nhà nước được thực thi trong đời sống thực tiễn. Để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì phải có phương thức thực hiện tốt các hoạt động về pháp luật từ khâu xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thực hiện pháp luật, kiểm tra, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật. Để pháp luật phát huy hiệu lực, đạt hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì Nhà nước ngoài việc tạo lập môi trường chính trị-xã hội thuận lợi, nâng cao trình độ pháp lý cho cán bộ và nhân dân, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đòi hỏi phải xác lập cơ chế thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả. Như vậy có thể khẳng định rằng, thực hiện pháp luật có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật. Thực hiện pháp luật là hoạt động đưa pháp luật vào cuộc sống, biến những qui phạm pháp luật thành những hành vi, xử sự thực tế, hợp pháp của cá nhân, tập thể trong thực tiễn xã hội. Nếu không có tổ chức tốt
  14. việc thực hiện pháp luật thì ý chí của Nhà nước sẽ không đi vào đời sống thực tiễn, pháp luật sẽ không phát huy được hiệu lực, sẽ không đạt hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật không chỉ thể hiện trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật (xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật bảo vệ pháp luật) mà nó còn là “một mặt quan trọng của nền pháp chế ” [22, tr.515]. Kết quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn để xác định tính chất của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Sự thực hiện pháp luật là trung tâm của pháp chế. Xét trong mối quan hệ giữa pháp luật và thực hiện pháp luật, Lênin cho rằng dù pháp luật có tốt đến đâu thì đó cũng chỉ là khả năng quản lý, khả năng đấu tranh. Để biến khả năng đó thành hiện thực cuộc sống nhất thiết phải biết sử dụng khả năng đó như là phương tiện tổ chức quần chúng thì mới thắng được trật tự xã hội cũ cũng như mọi biểu hiện vô chính phủ. Pháp luật Xô - viết rất tốt vì những pháp luật này đã đem lại cho mọi người cái khả năng đấu tranh chống bệnh quan liêu và lề mề Thế nhưng có ai sử dụng khả năng đó không? Hầu như không có một ai ! Không những nông dân, chính cả một số rất lớn đảng viên cộng sản cũng không biết dùng pháp luật Xô - viết để đấu tranh chống bệnh lề mề và bệnh quan liêu [56, tr.214]. Thật vậy, nếu như không có sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác của các chủ thể pháp luật thì sẽ không có pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện đảm bảo sự thành công của sự nghiệp đổi mới, bởi vì việc yêu cầu tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, việc thực hiện nghiêm chỉnh những qui định Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan nhà nước,
  15. các tổ chức và mọi công dân là yêu cầu bắt buộc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức vấn đề này, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” [26, tr.132]. Quan điểm, tư tưởng trên của Đảng ta đã được thể chế hoá trong Hiến pháp năm 1992 và được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 năm 2001 của Quốc hội. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) qui định: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật [52, tr.17]. 1.2. cơ sở lý luận của Vấn đề Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo 1.2.1. Khái niệm pháp luật về giáo dục và đào tạo Theo Đại từ điển tiếng Việt (1998) của Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. “Giáo dục là tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [19, tr.734]; “Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở lên người có hiểu biết, có nghề nghiệp” [19, tr 593] Năm 1866, trong "Chỉ thị về các vấn đề gửi tới các đại biểu Ban Chấp hành Trung ương lâm thời", Các Mác đã viết: Chúng tôi hiểu giáo dục là gồm ba việc sau đây: Một là: trí dục. Hai là: thể dục - giống như những điều người ta dạy ở các trường thể dục và trong luyện tập quân sự. Ba là: dạy kỹ thuật bách khoa, việc dạy kỹ thuật bách khoa này làm cho các em biết những nguyên tắc cơ bản của tất cả mọi quá
  16. trình sản xuất, đồng thời làm cho trẻ em và thiếu niên có được những kỹ năng sử dụng những công cụ đơn giản nhất của tất cả các ngành sản xuất [43, tr.22-23]. Từ thế kỷ XX, sự biến đổi về kinh tế - xã hội và sự phát triển mau lẹ về khoa học kỹ thuật, khái niệm giáo dục được nhận thức ngày một sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Trong sách "Giáo dục học" của Ilina, nhà giáo dục học Xô - viết, khái niệm giáo dục được định nghĩa như sau: “ giáo dục là một quá trình truyền thụ kinh nghiệm lịch sử - xã hội cho các thế hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống xã hội và bước vào lao động sản xuất” [42, tr.6]. ở nước ta, cố giáo sư Hà Thế Ngữ đã nêu ra một định nghĩa như sau: “Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử-xã hội của loài người ” [69, tr. 32]. Trong luận văn thạc sĩ Luật của Lê Thị Kim Dung (năm 2004) có nêu: Giáo dục là hoạt động có mục đích, có chương trình, tác dộng vào con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỷ năng và lối sống, chuẩn bị cho đối tượng của giáo dục tham gia lao động, đi vào đời sống xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Giáo dục là hoạt động tất yếu của phát triển xã hội loài người, là một bộ phận cơ bản của quá trình tái sản xuất mở rộng lao động xã hội. Theo khái niệm rộng, giáo dục bao gồm cả đào tạo, cung cấp các nguồn nhân lực cần thiết cho từng lĩnh vực kinh tế-xã hội [21, tr.7]. Trên cơ sở đó, trong luận văn này giáo dục và đào tạo được hiểu như sau: Giáo dục và đào tạo là hoạt động có mục đích, có chương trình nhằm trang bị cho con người những tri thức, kinh nghiệm lịch sử - xã hội cần thiết và những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp nhất định để chuẩn bị tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất. Bác Hồ kính yêu của chúng ta lúc sinh thời là người rất quan tâm về giáo dục, Bác chỉ ra rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập , muốn cho dân mạnh nước giàu mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến
  17. thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà mà trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ ” [45, tr.3]. Bác cũng chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh yếu hèn đó là con đường phát triển giáo dục: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu ”. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (tháng 9/1945), Bác đã viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thể hiện qua câu nói bất hủ của Người: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người ”. Tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giáo dục luôn toả sáng tính cách mạng, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Cả cuộc đời cách mạng, Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là: “Làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành ”. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp phát triển nền giáo dục của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hệ thống mạng lưới trường lớp đã được phủ kín khắp các bản làng, thôn xóm trong cả nước, để thực hiện mục tiêu xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, rồi phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, tiến tới phổ cập trung học cơ sở, phổ cập trung học phổ thông Vấn đề phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã và đang được toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước ta đang tập trung và ưu tiên hơn trong việc đầu tư đối với các vùng khó khăn và thu được một số kết quả, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta trong giáo dục. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại “con đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt ” [26, tr.159]. Để đạt được các mục tiêu nói trên, giáo dục-đào tạo và