Luận văn Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thuc_hien_phap_luat_ve_dan_chu_co_so_tu_thuc_tien_h.pdf
Nội dung text: Luận văn Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ HOÀNG MI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN DUY XUYÊN, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ HOÀNG MI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN DUY XUYÊN, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN THANH HÀ HÀ NỘI, năm 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn “Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Quảng Nam, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn Dương Thị Hoàng Mi
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ 8 1.1. Khái niệm và nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở 8 1.2. Khái niệm, vai trò và các hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở 22 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở 29 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN DUY XUYÊN, TỈNH QUẢNG NAM 33 2.1. Khái quát chung về huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam 33 2.2. Thực trạng triển khai việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở huyện Duy Xuyên 36 2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở huyện Duy Xuyên 49 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN DUY XUYÊN, TỈNH QUẢNG NAM 59 3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam 59 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam 62 KẾT LUẬN 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 CNH-HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa 2 DS-KHHGĐ Dân số - Kế hoạch hóa gia đình 3 HĐND Hội đồng nhân dân 4 Nxb Nhà xuất bản 5 UBND Ủy ban nhân dân 6 XHCN Xã hội chủ nghĩa
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết đề tài Dân chủ ngày nay đã trở thành một chuẩn mực giá trị của xã hội văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập của Việt Nam hiện nay, việc xây dựng nền dân chủ XHCN và thực hiện dân chủ ở cơ sở là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, nhất là sau khi có Chỉ thị 30/CT-TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Theo đó, dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở phải được thể chế hóa bằng pháp luật và phải được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm. Tuy nhiên, việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và các quy định pháp luật trong các văn bản pháp luật về dân chủ cơ sở thực hiện chưa hiệu quả. Một số mặt bất cập trong pháp luật và thực hiện pháp luật hiện hành về bầu cử. Thực tiễn ở địa phương, có một số đại biểu dân cử tuy đã không còn được tín nhiệm của nhân dân, song trên thực tế pháp luật lại chưa quy định rõ về các thủ tục để tiến hành bãi nhiệm (chưa xác lập được cơ chế để cử tri và nhân dân tiến hành bãi nhiệm). Vấn đề trưng cầu ý dân hiện nay đang còn khó thực hiện dù là đã có Luật trưng cầu ý dân 2015. Việc xây dựng Quy chế thực hiện dân chủ đơn vị mình còn có tính hình thức, thể hiện ít nhiều về sự sao chép lại Nghị định của Chính phủ Đây là vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu. Liên hệ đến tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Duy Xuyên nói riêng, bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền về các chính sách kinh tế - xã hội đến 1
- với người dân, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam đã triển khai Quyết định 350-QĐ/TU ngày 14/9/1998 về Thành lập Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (các huyện, thành phố và các cơ quan đều thành lập Ban Chỉ đạo do đồng chí cấp uỷ hoặc lãnh đạo chủ chốt chính quyền làm trưởng ban); các cấp ủy Đảng và chính quyền ở địa phương từng bước chú trọng phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở thông qua xây dựng kế hoạch thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương mình, cụ thể hoá một bước về nội dung, hình thức và các biện pháp thực hiện nhằm gia tăng sự đồng thuận xã hội trong thực thi các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Duy Xuyên nói riêng; tạo đà chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh vực đúng hướng CNH,HĐH; cũng như tạo các cơ hội việc làm và giải quyết việc làm cho người dân ở địa phương thông qua triển khai các chương trình phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, ổn định đời sống Tuy vậy, một số vấn đề tồn tại bất cập đang đặt ra trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở ở địa phương: (1) Trình độ dân trí chưa đồng đều, ý thức và năng lực thực hành dân chủ, năng lực giám sát của nhân dân còn thấp. Thói quen tùy tiện của một bộ phận nhân dân và việc tuân thủ pháp luật của người dân chưa cao, nhận thức về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân, giữa dân chủ với kỉ cương pháp luật còn chưa đầy đủ nên dễ bị lôi kéo lợi dụng, khiếu kiện đông người, gây rối trật tự công cộng; (2) Việc áp dụng kết hợp giữa hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong thực hiện các nội dung của pháp luật về dân chủ ở các xã, thị trấn trên địa bàn chưa được tăng cường; (3) Hiệu quả Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở không ít xã còn thấp. Một số nơi còn chưa chú trọng phát huy dân chủ từ cơ sở hoặc triển khai thực hiện pháp luật về quy chế dân chủ ở cơ sở thiếu 2
- nghiêm túc; (4) Chức năng giám sát của nhân dân chưa được coi trọng đối với nhiều công trình có quy mô lớn do cấp trên làm chủ đầu tư. Tình trạng quy hoạch “treo”, dự án “treo” diễn ra ở không ít nơi khiến người dân phản ứng Với lý do nêu trên, tác giả đăng ký lựa chọn đề tài nghiên cứu “Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam” để thực hiện luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là vấn đề đã nhận được sự quan tâm của các nhà quản lý, hoạch định chính sách, nhà khoa học. Tiêu biểu các công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề này ở nhiều góc nhìn tiếp cận, có thể kể đến dưới đây: - Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội. Công trình này làm rõ vai trò của dân chủ và dân chủ hóa ở nông thôn nước ta, làm rõ vai trò lý luận và thực tiễn đối với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đồng thời, tác giả chỉ ra vai trò thực hiện dân chủ của nông dân và coi vấn đề dân chủ là vấn đề bức xúc của nông dân, nhưng cũng là động lực để phát triển nông thôn hiện nay. - Hoàng Chí Bảo (2008), “Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội trong phát triển biền vững”, Tạp chí Triết học số 7 năm 2008. Bài nghiên cứu đã được tác giả chỉ ra: việc đồng thuận trong xã hội là cơ sở cho tính chặt chẽ trong sự liên minh, liên kết giữa các tổ chức xã hội đồng thời là điều kiện cho quá trình thực hiện dân chủ xã hội. Tuy vậy, nghiên cứu này chưa chỉ rõ cách thức, biện pháp để thiết lập sự đồng thuận xã hội, bài nghiên cứu này chủ yếu là đặt cách tiếp cận lý luận. - Phạm Văn Đức - Nguyễn Đình Hòa (2013), Dân chủ và phát huy dân chủ trong công tác tham mưu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ở 3
- nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, Số 11. Bài nghiên cứu này đã được nhóm tác giả nhận định: Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản là yêu cầu cấp thiết, là nội dung cơ bản của công tác xây dựng Đảng và việc phát huy dân chủ trong công tác tham mưu được xem là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản với tư cách đảng cầm quyền. - Cuốn “Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” của tác giả Nguyễn Trọng Thóc, xuất bản năm 2005; Cuốn “Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, tác giả Nguyễn Văn Niên, xuất bản năm 1996; Cuốn “Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền” của Hồ Bá Thâm - Nguyễn Tôn Thị Tường Vân, xuất bản năm 2009; và Cuốn “Mối quan hệ giữa dân chủ và văn hóa pháp luật” của Hoàng Chí Bảo - Tống Đức Thảo, xuất bản năm 2011 Các công trình này có điểm chung là xác định: Dân chủ là thước đo để đánh giá sự tiến bộ của pháp luật giữa các quốc gia. Để thực thi quyền dân chủ của nhân dân, trước hết cần phải tăng cường xây dựng và hoàn thiện pháp luật; dân chủ phải đi đôi với pháp luật (việc thực hiện dân chủ phải dựa vào pháp luật và thông qua pháp luật), không có dân chủ ngoài pháp luật. - Lương Đình Hải (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa xã hội ở nước ta, Tạp chí Triết học số 01 năm 2006. Bài viết đã nhấn mạnh vai trò của dân chủ hóa xã hội trong nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, dân chủ đóng vai trò cơ sở, động lực thúc đẩy sự phát triển của nhà nước pháp quyền. Đồng thời, nghiên cứu này nhận định không có nhà nước pháp quyền thực sự thì không có nền dân chủ rộng rãi và bền vững. - Thomas Meyer và Nicole Breyr (2007), Tương lai của nền dân chủ xã hội, tương lai của nền dân chủ xã hội, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. Công 4
- trình này đã xác định các quyền cơ bản của con người và đối tượng thực thi dân chủ ở trên các lĩnh vực, không chỉ có trong quá khứ, hiện tại mà còn có cả trong tương lai. Dân chủ xã hội không chỉ là một đòi hỏi để cải thiện cuộc sống của con người mà nó còn đảm bảo quyền thực thi các quyền cơ bản của họ. Ở tài liệu này được tác giả nhìn nhận nền dân chủ trong kinh tế thị trường trong xu thế toàn cầu hóa. - Phan Xuân Sơn (2003) (chủ biên), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Công trình này được tác giả phân tích vai trò, vị trí của các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện quy chế dân chủ và chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ: (1) nhiều nơi còn làm đại khái, qua loa, hời hợt, một số nơi tổ chức lúc đầu thì rầm rộ nhưng sau đó lại lắng xuống; (2) một số nơi, quyền dân chủ ở nhiều mặt còn bị hạn chế dẫn đến sự hoài nghi, thiếu tin tưởng trong nhân dân; (3) nhiều cơ sở xã, phường, thị trấn chưa phát huy được tính tích cực của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị Tuy vậy, đề cập nghiên cứu cụ thể vấn đề pháp luật về thực hiện quy chế ở cơ sở xã, phường trên địa bàn quận Cẩm Lệ cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu trùng lặp. Song với các công trình vừa nêu trên lại có giá trị kế thừa tham khảo tốt. Chính vì vậy, nghiên cứu về Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam có ý nghĩa thời sự cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề về thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nhằm rút ra những kinh nghiệm, phương hướng, giải pháp để tiếp tục nâng cao hiệu quả, thực hiện tốt hơn pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn địa phương (huyện Duy Xuyên) 5
- nói riêng và vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ, trong đó có dân chủ cơ sở ở Việt Nam nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở. - Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. - Đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở giai đoạn hiện nay từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Ở phạm vi nghiên cứu của luận văn, thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên - tỉnh Quảng Nam, chủ yếu là: tập trung thực hiện những nội dung quy định của pháp luật dân chủ ở cấp xã. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. - Phạm vi không gian: Các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. - Phạm vi thời gian: Từ năm 2013 (gắn liền với sự sửa đổi ban hành Hiến pháp 2013) đến năm 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài luận văn được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. 6
- 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tiếp cận hệ thống. - Phương pháp thu thập thông tin, phân tích văn bản. - Phương pháp thống kê so sánh, phân tích tổng hợp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung, làm rõ hơn một số vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận và pháp lý về thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam sẽ góp phần cung cấp luận cứ cho các giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Đóng góp tư vấn cho chính quyền địa phương trong triển khai chính sách, pháp luật về dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn. 7. Kết cấu của luận văn Bên cạnh phần Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung của luận văn gồm có 3 chương: Chương 1.Cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở hiện nay từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam 7
- CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ 1.1. Khái niệm và nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở 1.1.1. Khái niệm pháp luật về dân chủ cơ sở - Dân chủ. Dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội, nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Nên quan niệm về dân chủ đã có từ rất lâu trong lịch sử xã hội. Dân chủ (theo tiếng Hy Lạp dêmocratia) có nghĩa là “quyền lực của Nhân dân”, nên về cơ bản dân chủ được định nghĩa là một hình thức chính quyền trong đó quyền lực tối cao thuộc về Nhân dân[10]. Dân chủ với tính cách là một chế độ Nhà nước là một phạm trù lịch sử, biểu hiện khát vọng tự nhiên của loài người. Dân chủ là một quá trình biểu hiện mong muốn của con người được làm chủ cuộc sống mình: làm chủ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Dân chủ được hiểu là một giá trị xã hội nhân văn, phản ánh khả năng giải phóng con người, nâng cao vị trí của con người trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con người ý thức và năng lực làm chủ xã hội. Dân chủ còn được xem xét với ý nghĩa là điều kiện để hình thành và phát triển một nhân cách toàn diện của các chủ thể chính trị. Đó là sự hình thành thái độ, tinh thần trách nhiệm, tính tích cực chính trị, tính chủ động, nhu cầu và sự tự giác tham gia vào các quá trình chính trị thực tiễn. Ở khía cạnh nghiên cứu của luận văn, xem xét dân chủ với tư cách là một hình thức tổ chức nhà nước, là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa cộng đồng dân chúng với nhà nước. Trong đó, cộng đồng dân chúng là chủ thể gốc của quyền lực và có quyền năng áp đặt ý chí lên nhà nước. Dân chủ là “hình thức tổ chức thiết chế chính trị xã hội dựa trên việc 8
- thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất định ”[37; tr. 653]. Nói cách khác, dân chủ là một hình thức thiết chế chính trị của xã hội thể hiện quyền lực của quần chúng nhân dân thông qua một hệ thống bầu cử tự do (dân chủ luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là dân là chủ (vị thế của nhân dân) và dân làm chủ (khả năng của nhân dân) luôn đi liền với nhau, thể hiện vị trí, vai trò và quyền của nhân dân đối với nhà nước. - Dân chủ cơ sở. Xuất phát từ sự bình đẳng của mọi người với tư cách là những con người, rút ra cái quyền có một giá trị ngang nhau về chính trị và xã hội cho tất cả mọi người, hay ít ra là cho công dân trong một nước, hay cho mọi thành viên trong xã hội (Ph.Ăngghen). Và bất kỳ một thành viên xã hội nào thì cũng đều gắn liền với việc sinh sống, lao động và học tập ở một cơ sở nhất định trong hệ thống xã hội. Với hệ thống chính trị ở Việt Nam, dân cư ở cấp xã, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp là các đơn vị cơ sở - nơi diễn ra các quan hệ căn bản trên nhiều lĩnh vực đời sống giữa các tầng lớp nhân dân. Theo đó, dân chủ cơ sở là vị thế và quyền của người dân ở cơ sở mà chủ thể chủ yếu là những tầng lớp người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để bảo đảm cho xã hội tồn tại, phát triển. Việc “thực hiện dân chủ cơ sở được thông qua bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, cụ thể là dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham gia”[36; tr.58]. - Pháp luật về dân chủ cơ sở. Pháp luật về dân chủ cơ sở là lĩnh vực pháp luật về quyền dân sự của người dân. Pháp luật về dân chủ cơ sở được xem xét ở nhiều khía cạnh. 9
- Pháp luật về dân chủ cơ sở theo nghĩa rộng, bao gồm các quy định điều chỉnh: (1) Vấn đề thực hiện dân chủ của người dân ở cơ sở - nhất là cấp xã, phường, thị trấn; (2) Vấn đề dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước, trong các đơn vị sự nghiệp công lập; trong các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động Pháp luật về dân chủ cơ sở theo nghĩa hẹp, bao gồm các quy định về những nội dung mà chính quyền xã (gồm HĐND và UBND), Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức, cá nhân, cán bộ, công chức, có trách nhiệm kịp thời công khai để nhân dân biết, những việc nhân dân được bàn và quyết định, những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; những nội dung liên quan đến trách nhiệm của người có thẩm quyền ở cơ sở. Pháp luật về dân chủ cơ sở được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và thực hiện nhằm bảo đảm điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế và công dân để tạo điều kiện cho công dân đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của mình trên các lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội. 1.1.2. Nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở Nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở là sự cụ thể hóa về các quyền và giá trị của dân chủ đã được quy định trong Hiến pháp 1992. Nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở chính là các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội (Điều 50), mà ở đó có: quyền tự do bầu cử và ứng cử (Điều 2, Điều 7, Điều 54); quyền của nhân dân được tham gia vào quản lý Nhà nước (Điều 11, Điều 53); quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin (Điều 69); quyền của nhân dân được kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy và cán bộ công chức Nhà nước ( Điều 8); quyền khiếu nại (Điều 74); quyền bình đẳng nam nữ (Điều 63) 10
- Từ căn cứ cốt lõi ở các quy định của Hiến pháp năm 1992, nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở được thể chế hóa ở các luật quan trọng và được điều chỉnh trực tiếp bằng các văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở. Theo đó, Chính phủ triển khai hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành đối với từng loại hình cơ sở. Các văn bản hướng dẫn thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được ban hành từ năm 1992 đến nay khá đầy đủ và có hệ thống, như: Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Nghị định số 29/1998/NĐ-CP của chính phủ ngày 11/5/1998 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Chỉ thị số 22/1998/CT- TTg ngày 15/5/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Thông tư số 03/1998/TT- TCCP ngày 06/7/1998 về hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường và thị trấn Để đáp ứng yêu cầu mới, Chính phủ đã có Nghị định số 79/2003/NĐ – CP ngày 07/7/2003 ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (thay thế Nghị định số 29/1998/CP). Trên cơ sở này, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 12/2004/TT – BNV ngày 20/02/2004 hướng dẫn thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tiếp tục xác định nhiệm vụ phát huy dân chủ là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển nước ta (theo chủ trương của Đại hội X của Đảng) và để đưa thực hiện dân chủ ở cơ sở vào thực tiễn cuộc sống với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL- UBTVQH11 thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Để triển khai thuận lợi về nội dung của Pháp lệnh 34, Chính phủ đã phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Nghị quyết liên tịch 09/2008/NQLT - CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 về hướng dẫn thi hành các điều 11, 14, 16, 22, 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, 11
- phường, thị trấn. Để đáp ứng của tình hình phát triển mới, các quyền và giá trị của dân chủ cơ sở tiếp tục được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013 (thông qua Điều 6, Điều 7, Điều 8, Điều 14, Điều 25, Điều 26, Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 79, Điều 115, ). Chẳng hạn, Điều 28 của Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”[32] (tức là quyền tham gia của người dân thể hiện ở ba khía cạnh: quyền tham gia quản lý nhà nước; quyền tham gia quản lý xã hội; và quyền tham gia thảo luận, kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước) Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 và Luật trưng cầu ý dân năm 2015 cùng với hệ thống văn bản của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan thông qua: Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12-12-2013 của Bộ chính trị về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218- QĐ/TW ngày 12/12/2013 về việc ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc gồm các doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê, mướn, sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ; Nghị định số 149/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07-11-2018 Quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ Luật lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc 12
- Như vậy, Hiến pháp năm 2013, Luật trưng cầu ý dân năm 2015, Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11, Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12-12-2013, Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013, Nghị định số 60/2013/NĐ-CP, Nghị định 04/2015/NĐ-CP và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo những bước chuyển mới trong việc thực hiện dân chủ cơ sở - nhất là ở xã, phường, thị trấn. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng tạo động lực thúc đẩy, phát huy quyền làm chủ của người dân, thu hút người dân tham gia, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã bao gồm các nội dung căn bản sau: Một là: Nội dung cần công khai để dân biết. Các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; dự toán và quyết toán ngân sách cấp xã thường niên; phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Dự án, công trình đầu tư ưu tiên theo thứ tự ở cấp xã, tiến độ triển khai thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ, tái định cư liên quan tới các dự án, công trình đó; kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch dân cư trên địa bàn cấp xã. Nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp trong giải quyết các công việc của nhân dân. Việc quản lý và sử dụng những khoản đầu tư, tài trợ, loại quỹ theo dự án, chương trình đối với cấp xã; những khoản huy động nhân dân đóng góp. Các chủ trương, chính sách, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, giảm nghèo; phương thức và kết quả xét hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất, cấp thẻ bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương. Đề án thành lập mới, chia - nhập đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã. 13
- Kết quả thanh - kiểm tra, giải quyết vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã và của cán bộ cấp thôn; kết quả bỏ phiếu tín nhiệm chủ tịch và phó chủ tịch UBND, chủ tịch và phó chủ tịch HĐND cấp xã. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân về các vấn đề thuộc thẩm quyền cấp xã quyết định mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến người dân. Đối tượng, mức thu những loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu như: dự toán và quyết toán ngân sách cấp xã, hàng năm; dự toán và quyết toán thu, chi các quỹ, dự án và những khoản huy động đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng, công trình phúc lợi cộng đồng của cấp xã, thôn và kết quả thực hiện; những chương trình, dự án do Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư tài trợ trực tiếp cho cấp xã. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện liên quan tới người dân. Những nội dung khác theo luật định, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã xét khi cần thiết. Những việc cần thông báo công khai để nhân dân biết gồm các vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội, an sinh xã hội, văn hoá xã hội, chính trị - xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống và sinh hoạt nhân dân ở cấp xã và cộng đồng dân cư. Nội dung những việc cần công khai để nhân dân biết được tổ chức dưới các hình thức: (1) Niêm yết công khai tại trụ sở chính quyền cấp xã và các trung tâm dân cư, văn hoá; (2) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; (3) Công khai tại các kỳ họp của HĐND, thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố và các cuộc họp của các tổ chức quần chúng để thông báo đến nhân dân. 14
- Hai là: Nội dung những việc nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp. Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp bao gồm các công việc như: chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng (điện, đường giao thông, trường học, nhà văn hoá, trạm y tế, nghĩa trang ); lập thu chi các quỹ trong khuôn khổ pháp luật ở phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác (tổ chức bảo vệ sản xuất kinh doanh; thành lập ban giám sát công trình xây dựng do dân đóng góp; xây dựng quy ước, hương ước làng văn hoá, giữ gìn an ninh trật tự, bài trừ các tệ nạn xã hội và hủ tục mê tín dị đoan) trong cộng đồng dân cư phù hợp với luật định. Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp những nội dung này bằng một trong các hình thức: (1) Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố;; (2) Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình. Ba là: Nội dung và hình thức mà nhân dân bàn, biểu quyết, tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền quyết định. - Những việc mà nhân dân bàn và biểu quyết bao gồm các việc, như: Hương ước, quy ước của thôn làng, tổ dân phố; Bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn; Bầu, bãi nhiệm thành viên của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; những việc xây dựng cộng đồng dân cư thôn, làng, ấp, bản. Đây là nội dung các công việc trong thực hiện dân chủ cơ sở nhằm bàn bạc, thảo luận đi đến thống nhất quyết định các vấn đề thuộc công việc nội bộ của cộng đồng dân cư về xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất, giải quyết việc làm, giảm nghèo, các vấn đề văn hoá, xã hội, vệ sinh môi trường, an ninh và trật tự an toàn xã hội ở cấp xã. Những việc mà nhân dân tham gia bàn bạc – thảo luận, biểu quyết 15
- thường được tổ chức dưới các hình thức, như: (1) Cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; (2) Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình, trừ việc bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố. - Những việc nhân dân tham gia ý kiến trước khi cấp có thẩm quyền quyết định bao gồm: phương án đền bù giải phóng mặt bằng; giới thiệu những người ứng cử đại biểu HĐND cấp xã; các dự thảo về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp xã, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế; dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã; dự thảo quy hoạch khu dân cư, đề án định canh - định cư, vùng kinh tế mới, phương án phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm của cấp xã Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã;; dự thảo đề án thành lập mới, chia - nhập đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã, thôn; kế hoạch huy động khoản đầu tư đóng góp từ người dân để xây dựng kết cấu hạ tầng do xã quản lý; dự thảo các chương trình quốc gia về y tế, nước sách, vệ sinh môi trường; những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã xét khi cần thiết. Về hình thức đối với những việc nhân dân tham gia ý kiến trước khi cấp có thẩm quyền quyết định, đó là: (1) Họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; (2) Phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình; (3) Hòm thư góp ý. Bốn là: Các nội dung được nhân dân giám sát. Nội dung được nhân dân giám sát, đó là những nội dung công khai; nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến như đã nêu trên. 16