Luận văn Thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk

pdf 84 trang vuhoa 24/08/2022 7200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_thuc_hien_chinh_sach_bao_ve_va_phat_huy_gia_tri_van.pdf

Nội dung text: Luận văn Thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUY Ễ N ĐÌNH H N NGUYỄN ĐÌNH HẢI Ả I NGÀNH CHÍNH SÁCH CÔNG KHÓA X KHÓA CÔNG SÁCH CHÍNH NGÀNH I THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG - NĂM 2019 NĂM Đắk Lắk, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐÌNH HẢI THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐỖ VĂN DƯƠNG Đắk Lắk, năm 2021 Đắk Lắk, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan rằng, luận văn thạc sĩ là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực được ghi rõ nguồn trích dẫn. Kết quả nghiên cứu này chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào từ trước đến nay. Đắk Lắk, ngày 30 tháng 9 năm 2021 Tác giả luận văn NGUYỄN ĐÌNH HẢI
  4. LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập và nghiên cứu chương trình cao học chuyên ngành Chính sách công tại Học viện Khoa học xã hội. Đến nay, tôi đã hoàn thành xong chương trình học của mình. Bản thân đã được Giám đốc Học viện Khoa học xã hội giao quyết định thực hiện đề tài "Thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk” . Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo đã trang bị những kiến thức rất bổ ích cho bản thân tôi trong quá trình tham gia học tập tại trường, đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn đến thầy giáo hướng dẫn khoa học TS. Đỗ Văn Dương đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn Lãnh đạo Học viện Khoa học xã hội, Văn phòng Khoa Chính sách công đã tạo điều kiện tốt nhất cho chúng tôi trong quá trình học tập tại trường. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ, động viên, khích lệ, ủng hộ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học và hoàn thành luận văn này. Trân trọng cảm ơn! Đắk Lắk, ngày 30 tháng 9 năm 2021 Tác giả luận văn NGUYỄN ĐÌNH HẢI
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA VẬT THỂ 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể 8 1.2. Nội dung, chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể 20 1.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể 27 1.4. Kinh nghiệm thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể một số địa phương và kinh nghiệm rút ra cho huyện Krông Pắc 31 Tiểu kết chương 1 35 Chương 2 NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK 36 2.1. Những yếu tố tác dộng đến thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk 36 2.2. Thực trạng việc thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk 39 2.3. Bài học kinh nghiệm 57 Tiểu kết chương 2 58 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK 59
  6. 3.1. Phương hướng bảo đảm thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk 59 3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk 63 Tiểu kết chương 3 72 KẾT LUẬN 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Từ được viết tắt Ký hiệu Di sản văn hóa DSVH Khoa học xã hội KHXH Khoa học và Kỹ thuật KH&KT Hội đồng nhân dân HĐND kinh tế - xã hội KT-XH Nhà xuất bản Nxb Văn hoá - Thông tin VHTT Xã hội chủ nghĩa XHCN Ủy ban nhân dân UBND United Nations Educational Scientific and Cultural Organization (Tổ chức Giáo dục, UNESCO Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc)
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Di sản là báu vật mà thiên nhiên ban tặng cho đất nước, là kết tinh lao động sáng tạo mà ông cha ta từ đời này qua đời khác đã dày công tạo dựng. Vì vậy, việc bảo tồn các di sản, di tích là việc làm quan trọng và vô cùng cần thiết trong công cuộc kiến thiết nước nhà. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, hệ thống pháp luật qua các thời kỳ đều đề cập đến yêu cầu bảo vệ, giữ gìn, phát huy giá trị của các di tích lịch sử, di sản văn hóa, nghệ thuật, danh lam thắng cảnh đất nước. Cùng với xây dựng hành lang pháp lý, trong giai đoạn 2011-2018, thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa và Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa, Chính phủ đã hỗ trợ trực tiếp trên 1.560 tỷ đồng cho các địa phương trên cả nước để chống xuống cấp và tu bổ di tích. Trong đó, văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hoá dân tộc, góp phần tạo ra những giá trị văn hóa cao trong nền văn hóa của dân tộc, đặc biệt là trong nền văn hóa tinh thần cho con người nếu biết tận dụng và phát huy một cách toàn diện. Tại Điều 2 Nghị định 98/2010/NĐ-CP hướng dẫn Luật di sản văn hóa và Luật di sản văn hóa sửa đổi có quy định di sản văn hóa vật thể bao gồm: Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Đắk Lắk được xem là cái nôi của văn hóa Tây Nguyên, nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống, những phong tục, tập quán, lễ hội, những di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, đây chính là những yếu tố để tạo nên vùng đất này có bản sắc văn hóa riêng biệt, trường tồn theo thời gian. Tại khoản 2 Điều 15 Mục 1 Chương III Luật Du lịch năm 2017 đã chỉ rõ: “Tài nguyên du lịch văn hóa bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng, khảo cổ, kiến trúc; giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội, văn nghệ dân gian và các giá trị văn hóa khác; công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng cho mục đích du lịch”. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 36 di tích được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh; trong đó có 02 di tích quốc gia đặc biệt, 17 di tích quốc gia, 17 di tích cấp tỉnh và 30 di tích nằm trong danh mục tiềm năng. 1
  9. Huyện Krông Pắc là huyện duy nhất ở miền Trung - Tây Nguyên được chọn để xây dựng thành “huyện điểm văn hoá” giai đoạn 2005 - 2010. Sau 5 năm thực hiện, những kết quả đạt được trong kế hoạch xây dựng “huyện văn hoá” được khẳng định chính là đòn bẩy làm thay đổi toàn diện bộ mặt kinh tế -văn hoá - xã hội của huyện. Trên địa bàn huyện hiện có 03 di tích, danh lam thắng cảnh đã được công nhận, ngoài ra còn có một số di tích khảo cổ đã được khai quật như Buôn Mrâo, cùng một số hồ sinh thái tự nhiên như hồ Ea Nhái, hồ Krông Buk hạ ,. Những di tích, danh lam thắng cảnh nói trên là những di sản quý giá, có giá trị tiềm năng, thế mạnh để đầu tư, khai thác, phát triển du lịch, thu hút khách tham quan, trải nghiệm, du lịch sinh thái, du lịch về nguồn, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho cộng đồng, người dân nơi có di tích, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, trong những năm qua, công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản trên địa bàn huyện còn bất cập, hạn chế; việc đầu tư cơ sở hạ tầng tại di tích chưa thỏa đáng để phát huy hết giá trị tiềm năng, lợi thế của di tích để di tích trở thành sản phẩm du lịch, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên địa bàn huyện. Cho đến hiện nay, huyện Krông Pắc vẫn chưa có Đề án bảo tồn các di tích trên địa bàn. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk” để nghiên cứu nhằm đưa ra một số nhận định về công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể của tỉnh Đắk Lắk nói chung, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy giá trị di sản trên địa bàn huyện Krông Pắc nói riêng, tỉnh Đắk Lắk nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến vấn đề thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể, đã có một số công trình nghiên cứu cụ thể như sau: 2.1. Những nghiên cứu liên quan đến chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể - “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể vùng Trường Sơn - Tây Nguyên tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam” của tác giả Bàn Thị Trang [15] 2
  10. đã đưa ra những vấn đề chung về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa vật thể của 18 dân tộc vùng Trường Sơn - Tây Nguyên tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa vật thể vùng Trường Sơn - Tây Nguyên tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Đồng thời đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Tác giả đã vận dụng một số kinh nghiệm trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể vào phần đề xuất giải pháp của đề tài. - Trong Hội nghị quốc tế “Bảo vệ di sản văn hoá vật thể và phi vật thể: Hướng đến Phương pháp tiếp cận tổng thể” tổ chức tại Nara, Nhật Bản từ 19 đến 23/10/2004, Tuyên bố Yamato về Phương pháp tiếp cận tổng thể trong bảo vệ di sản văn hoá vật thể và phi vật thể đã được thông qua. Với bản Tuyên bố này, các quan niệm về di sản văn hóa đã được nhân loại định nghĩa cụ thể trên phương diện lý luận theo Công ước và Quy chế của UNESCO. Đây là những quan niệm cụ thể nhằm giúp nhận diện một cách đúng đắn khoa học về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trên thế giới. Những định nghĩa, quan niệm về di sản văn hóa được tác giả vận dụng vào phương pháo tiếp cận nghiên cứu. - Bảo vệ & phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam của tác giả Trương Quốc Bình [1] bàn đến vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa ở Việt Nam, những kiến giải về vai trò quan yếu của các sưu tập hiện vật trong quá trình chuẩn bị xây dựng và tổ chức hoạt động của các bảo tàng ở Việt Nam và việc phát huy những giá trị đặc sắc của kho tàng di sản văn hóa. - Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam do Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam phát hành năm 2009 của Nhóm tác giả [9] đã nêu những nhận thức khoa học của các nhà khoa học trong và ngoài nước về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, những văn bản pháp lý của UNESCO và Việt Nam về di sản văn hóa phi vật thể. Ngoài ra, còn nói đến nhiệm vụ sưu tầm, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trong Chương trình mục tiêu quốc gia. 3
  11. 2.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể - “Giải pháp phát triển du lịch bền vững Tây Nguyên” của tác giả Nguyễn Đức Tuy [17], đã có một số đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn: tác giả đã đưa ra định nghĩa phát triển du lịch bền vững, trên 4 trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường. Nhận định mức độ phát triển du lịch bền vững của vùng Tây Nguyên; đề xuất các giải pháp nhằm phát triển vùng du lịch Tây Nguyên theo hướng bền vững, đề xuất các cơ chế chính sách đặc thù để du lịch bền vững Tây Nguyên phát triển mạnh. Từ các đề xuất cho Tây Nguyên, tác giả đã vận dụng cho địa bàn nghiên cứu của mình. - Trong Bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính Kỳ 2 - Tháng 9/2020 “Cơ chế, chính sách tài chính đối với công tác bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam” [3] của tác giả Nguyễn Thanh Hiền đã nói về thực tiễn triển khai các chính sách về di sản văn hóa nói chung, cơ chế tài chính cho công tác bảo tồn di sản văn hóa nói riêng vẫn còn nhiều vướng mắc, hạn chế, nên chưa phát huy hết tiềm năng của lĩnh vực này. Bài viết nêu những cái chung, tác giả vận dụng để đưa ra quan điểm riêng cho địa phương. - Bài viết “Hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta hiện nay” của Ths Đỗ Thanh Hương [24] đăng trên Tạp chí Cộng sản, tác giả đã khái quát được hệ thống pháp luật về di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa phi vật thể nói riêng, tuy nhiên còn một số hạn chế, bất cập. Do đó, việc hoàn thiện thể chế và các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa phi vật thể là rất cần thiết hiện nay, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong quá trình xây dựng văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ mới. Những kiến giải về việc hoàn thiện pháp luật là cơ sở để tác giả tham khảo vận dụng trong đề tài. - “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình” của tác giả Bùi Quốc Hoàn [4] đã nêu ra những cơ sở lý luận, đặc điểm, những yếu tố ảnh hưởng, thực trạng việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình, những 4
  12. đánh giá về quá trình thực thi chính sách, đồng thời đưa ra những quan điểm, mục tiêu và giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình. Có thể thấy, vấn đề nghiên cứu về thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể dưới góc độ chuyên ngành chính sách công hầu như rất ít, chủ yếu là nghiên cứu về vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể dưới góc độ của nhà quản lý văn hóa (khác chính sách công). Hay chỉ nói đến nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể (khác vật thể). Cho đến thời điểm tác giả nghiên cứu chưa có công trình nào đề cập về việc thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Tuy vậy, các công trình nghiên cứu trên đây là nguồn tài liệu quý giá giúp tác giả kế thừa có chọn lọc những thông tin phù hợp để triển khai đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ lý luận về chính sách công, luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm góp phần mang lại hiệu quả trong việc thực hiện chính sách phát triển giá trị văn hóa vật thể của huyện Krông Pắc nói riêng và tỉnh Đắk Lắk, cả nước nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ như sau: - Nghiên cứu và hệ thống hóa lý luận về thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể; - Phân tích các yếu tố tác động và thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk; - Nêu phương hướng và đề xuất các nhóm giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện chính sách phát triển giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk hiện nay. 5
  13. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn công tác thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. - Ngoài ra, còn tham khảo tài liệu về công tác thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể tại các địa phương khác làm cơ sở đề xuất giải pháp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Luận văn tiến hành nghiên cứu công tác thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. - Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn từ năm 2015 - 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dưới góc độ tiếp cận liên ngành và tiếp cận lý luận về chính sách công: quy trình hoạch định chính sách, thực hiện, đánh giá, có sự tham gia của chủ thể chính sách 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn tác giả sử dụng phương pháp chính là nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và thực tế, cụ thể như sau: - Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu: từ các văn bản pháp lý, những tài liệu sách, báo có liên quan đến đề tài tác giả sưu tầm được trong quá trình nghiên cứu, tác giả phân tích tập hợp lại thành một hệ thống viết vào luận văn. Nhằm tìm hiểu, phân tích các giá trị văn hóa vật thể nói riêng và di sản văn hóa nói chung. - Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: trên cơ sở những tài liệu thu thập qua quá trình điều tra khảo sát, tác giả đem đối chiếu, so sánh, phân tích, rút ra những kết luận mang tính khoa học để viết vào luận văn. 6
  14. - Phương pháp phân tích kết hợp định lượng và định tính để tiếp cận, tìm hiểu một chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách. - Phương pháp phân tích chính sách: Là đánh giá tính toàn vẹn, thống nhất, khả thi và hiệu quả của chính sách nhằm điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu và thực tế. Phương pháp này được sử dụng để phân tích những vấn đề thực tế thực hiện chính sách (chương 2) và đề xuất giải pháp (chương 3). 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận văn đã phân tích, tổng hợp các chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể, cung cấp thông tin tư liệu khách quan, cập nhật và có hệ thống cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy và quản lý văn hóa ở địa phương. - Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp, định hướng trong việc thực thi có hiệu quả chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc nói riêng, tỉnh Đắk Lắk nói chung và cho những ai quan tâm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận; đề tài luận văn có ba chương, gồm: Chương 1: Cơ sở khoa học thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể. Chương 2: Những yếu tố tác động và thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Phương hướng và giải pháp đảm bảo thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. 7
  15. Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA VẬT THỂ 1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể 1.1.1. Khái niệm thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể 1.1.1.1. Chính sách công, đã và đang trở thành một khoa học độc lập ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đã phát triển. Mặc dù khái niệm chính sách công ở các quốc gia khác nhau với các góc độ nghiên cứu khác nhau nên vẫn còn những cách hiểu tương đối khác biệt. Tuy nhiên, nhìn chung ở các quốc gia và giới học thuật đều đã thống nhất với nhau rằng chính sách công thuộc về lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội. Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính sách công” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau: Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành (Peter Aucoin, 1971); Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978); Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas R. Dye, 1984); Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy Peter, 1990); Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992); Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and Eloise F. Malone, 1995). Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh hưởng tới đời sống của công dân (B. Guy Peters, 1999). 8
  16. Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể được nhìn nhận như sau: - Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi nước. - Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công phản ánh và thể hiện hoạt động cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế. - Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để: Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách khác chính sách công là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước. - Văn hóa. Thuật ngữ văn hóa đã xuất hiện từ lâu trong ngôn ngữ và đời sống của con người. Cho đến nay đã có rất nhiều định nghĩa về văn hóa, do các nhà nghiên cứu, các tổ chức và các quốc gia trên thế giới công bố. Từ góc độ tiếp cận về chính sách công, có thể dễ dàng nhận thấy hai yếu tố quan trọng khi đề cập tới khái niệm văn hóa, đó là: hoạt động văn hóa và giá trị văn hóa. Do đó tác giả đã vận dụng khái niệm về văn hóa của GS Trần Ngọc Thêm “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị (vật chất và tinh thần, tĩnh và động, vật thể và phi vật thể) do con người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [9] trong nghiên cứu về văn hóa. Đồng thời, cách tiếp cận này giúp tác giả phân loại các vấn đề cần quản lý có tính hệ thống, làm cho việc hoạt động quản lý sẽ cụ thể, hiệu quả hơn. - Di sản văn hóa. Với nhận thức di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân, để bảo 9
  17. vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới và để tăng cường hiệu lực quản lí nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, ngày 29.6.2001, Quốc hội Khóa X đã thông qua Luật Di sản văn hoá (Luật số 28/2001/QH10) [7]. Đây là đạo luật về di sản văn hoá đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.2002. Luật Di sản văn hoá gồm 74 điều, được chia làm 7 chương. Năm 2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa của Quốc hội Khóa XII, Kỳ họp thứ 5 (gọi tắt là Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009) [8] cho ta những định nghĩa về Di sản văn hóa nói riêng, những điều chi tiết về thực hành luật Di sản văn hóa nói chung. Căn cứ Luật Di sản văn hóa, tại Điều 1 quy định: “Di sản văn hoá quy định tại Luật này bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Luật cũng quy định rõ trình tự, thủ tục công nhận di sản văn hoá, các biện pháp bảo vệ di sản văn hoá, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hoá - Thông tin, Hội đồng di sản văn hoá quốc gia, Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan khác trong việc công nhận, bảo vệ, giữ gìn, quản lí các di sản văn hoá (cả di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể). Trên bình diện quốc tế, năm 1989, UNESCO đã định nghĩa di sản văn hoá như sau: di sản văn hoá là tập hợp những biểu hiện vật thể hoặc biểu tượng di sản quá khứ truyền lại cho mỗi nền văn hóa, và do đó là của toàn thể nhân loại. Là một phần của việc khẳng định cũng như làm giàu thêm bản sắc văn hóa, là một dạng di sản nhân loại, di sản văn hoá mang lại những đặc điểm riêng cho mỗi địa danh cụ thể, và vì thế nên là nơi cất giữ kinh nghiệm con người. Việc bảo tồn và giới thiệu di sản văn hoá này là cốt lõi của mọi chính sách văn hóa. 10
  18. - Văn hóa vật thể, theo các quan điểm đã trình bày ở mục trên về di sản văn hóa, có thể thấy, con người bao giờ cũng có hai nhu cầu cơ bản, đó là nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần. Do đó hoạt động của con người cũng có hai loại cơ bản, đó là sản xuất ra của cải vật chất và sản xuất ra các giá trị tinh thần. Tương ứng với nó là những giá trị của di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Theo đó, di sản văn hóa vật thể bao gồm toàn bộ những sản phẩm do sản xuất vật chất của con người tạo ra như các công trình kiến trúc, công cụ sản xuất và sinh hoạt, đồ ăn, đồ mặc, các phương tiện đi lại. Di sản văn hóa vật thể là một dạng thức tồn tại của văn hóa chủ yếu dưới dạng vật thể có hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường nét, màu sắc, kiểu dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác định. Di sản văn hóa vật thể được tạo tác từ bàn tay khéo léo của con người, để lại dấu ấn lịch sử rõ rệt. Di sản văn hóa vật thể được khách thể hóa và tồn tại như một thực thể ngoài bản thân con người, luôn chịu sự thách thức của quy luật bào mòn của thời gian, trong sự tác động của con người thời đại sau. Di sản văn hóa vật thể luôn đứng trước nguy cơ biến dạng hoặc thay đổi rất nhiều so với nguyên gốc. Do đó, vấn đề giữ gìn những Di sản văn hóa vật thể lâu đời đòi hỏi cần công nghệ kỹ thuật cao mới có thể phục nguyên lại như cũ. Căn cứ mục 2, Điều 4, Luật Di sản văn hóa ghi rõ “Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.” Theo đó, tại mục 3 đến mục 7, Điều 4, Luật Di sản văn hóa quy định: Di tích lịch sử - văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học. Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên. 11
  19. Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học. - Bảo tồn di sản văn hóa “Bảo tồn” là một khái niệm được sử dụng tương đối phổ biến, tuy nhiên không phải ai cũng có những thấu hiểu về hoạt động này. Bảo tồn là việc gìn giữ nguyên hình dạng, quyền sở hữu, công năng sử dụng của một công trình hoặc một hiện vật mà không làm thay đổi chúng. Ý nghĩa tổng quan này được sử dụng khi đề cấp đến lĩnh vực bảo tồn di sản, có thể định nghĩa là “hoạt động nhằm tránh sự thay đổi của một cái gì theo thời gian”. Trong nghiên cứu, cũng như trong hoạt động thực tiễn về di sản văn hóa, ta thường hay dùng các thuật ngữ: bảo quản, bảo vệ và bảo tồn. Bảo quản mang nghĩa sử dụng những biện pháp kỹ thuật để gìn giữ, chăm sóc đối tượng được nguyên vẹn, tồn tại lâu dài. Bảo vệ chứa đựng nội dung thực hành các hoạt động mang tính chất pháp lý hay nó́i cách khác là giữ không để cho bị xâm phạm. Bảo tồn mang nghĩa rộng hơn, là hoạt động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại, bảo quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và tránh sự xuống cấp của kết cấu đó. Như vậy, bảo tồn là tất cả những nỗ lực nhằm hiểu biết về lịch sử hình thành, ý nghĩa của di sản văn hóa nhằm bảo đảm sự an toàn, phát triển lâu dài cho di sản văn hóa và khi cần đến phải đảm bảo việc giới thiệu, trưng bày, khôi phục và tôn tạo lại để khai thác khả năng phục vụ cho hoạt động tiến bộ của xã hội. Công tác bảo tồn di sản văn hóa có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm các hoạt động: bảo tồn nguyên trạng, trùng tu, gia cố, tái định vị, phục hồi, tái tạo - làm lại, quy hoạch bảo tồn. Vấn đề đặt ra là khi bảo tồn một di sản văn hóa cụ thể cần nghiên cứu, chọn lựa phương án thích hợp với từng địa phương, từng đặc thù riêng để đảm bảo rằng cái chúng ta đang trưng bày là xác thực chứ không phải đồ giả, là lịch sử chứ không phải tuyên truyền, là sự uyên bác chứ không phải định kiến, là thông tin chứ không phải sự kích động và là cảm hứng chứ không phải những lời sáo rỗng. Bảo tồn di sản văn hóa trở thành mối quan tâm của toàn xã hội và giới nghiên cứu khoa học 12
  20. trong vài thập niên gần đây. Hiện nay ở nhiều quốc gia, bảo tồn di sản văn hóa trở thành một ngành học có tính chuyên môn cao và các quy ước chung về bảo tồn di sản văn hóa của cộng đồng quốc tế được các quốc gia tôn trọng thực hiện. Nguyên tắc quan trọng của bảo tồn di sản văn hóa là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của di sản văn hóa theo dạng thức vốn có. Bảo tồn đồng nghĩa với không để di sản văn hóa mai một, bị thay đổi, biến hóa. Xuất phát từ sự duy trì ý nghĩa văn hóa của di sản văn hóa mà trong hoạt động bảo tồn không chấp nhận việc cải biến, nâng cao hay phát triển. Di sản văn hóa cần được xem là tinh hoa văn hóa, do vậy việc khẳng định giá trị đích thực dưới những thể trạng và hình thức khác nhau cũng như khả năng tồn tại theo thời gian của nó là điều quan trọng. Quan điểm lựa chọn bảo tồn di sản văn hóa hợp lý là việc lựa chọn, bảo vệ, giữ gìn những giá trị từ quá khứ đến hiện tại, cái được bảo tồn tất yếu phải phù hợp với thời đại, chứa đựng những khả năng có thể được làm giàu thêm về giá trị và có thể tiếp tục được phát huy, phát triển vì lợi ích của cộng đồng, xã hội, vì sự phát triển của văn hóa. Ngoài ra, hoạt động bảo tồn di sản văn hóa phải tuân thủ những nguyên tắc nghiêm ngặt mang tính thông lệ được cộng đồng quốc tế cam kết thực hiện. Không có một hình thức, phương pháp chung nào có thể áp dụng cho việc bảo tồn tất cả các loại hình di sản văn hóa do sự đa dạng, phong phú của di sản văn hóa. Sự đa dạng đó cũng biểu hiện trong các điều kiện không gian và thời gian mà di sản văn hóa tồn tại và phát huy tác dụng, giá trị lịch sử, nghiên cứu khoa học văn hóa về di sản văn hóa là tìm ra cách lựa chọn bảo tồn có ý thức, thích hợp và đảm bảo các khả năng lan tỏa ý nghĩa văn hóa trong cộng đồng, phát huy giá trị của di sản văn hóa vào đời sống tinh thần cộng đồng, là động lực cho sự phát triển. Cuối cùng mục tiêu của bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa là kéo dài đời sống của di sản văn hóa và nếu có thể làm sáng tỏ các thông điệp nghệ thuật và lịch sử của di sản mà không làm mất tình xác thực và ý nghĩa của chúng. 1.1.1.2. Khái niệm về chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa Chính sách bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa là những tư tưởng chỉ đạo, những nguyên tắc và định hướng cơ bản trong việc xây dựng và phát triển nền văn 13