Luận văn Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thuc_hanh_quyen_cong_to_va_kiem_sat_hoat_dong_tu_ph.pdf
Nội dung text: Luận văn Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG HUY CƯỜNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG HUY CƯỜNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH) Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Cao Thị Oanh Hà Nội - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đặng Huy Cường
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG 8 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG 8 1.1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra 8 1.1.2. Khái niệm tội phạm về tham nhũng 22 1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng 26 1.1.4. Vai trò của thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng 30 1.2. CÁC YẾU TỐ ĐẢM BẢO THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG 32 1.2.1. Bảo đảm pháp lý 32 1.2.2. Sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng và sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân 34 1.2.3. Bảo đảm về tổ chức 35 1.2.4. Các bảo đảm khác 36 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 38
- Chương 2. QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH TỪ NĂM 2009 ĐẾN 2013 39 2.1. QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG 39 2.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra 40 2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra 51 2.2. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI, CƠ CẤU TỔ CHỨC, ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG Ở TỈNH QUẢNG NINH 53 2.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở tỉnh Quảng Ninh có ảnh hưởng đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng 53 2.2.2. Cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh 56 2.2.3. Tình hình tội phạm tham nhũng ở tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 đến năm 2013 58 2.3. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH QUẢNG NINH 64
- 2.3.1. Những kết quả đạt được trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh và nguyên nhân 64 2.3.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân 72 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 78 Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH QUẢNG NINH 79 3.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH QUẢNG NINH 79 3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH QUẢNG NINH 81 3.2.1. Nhóm giải pháp chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng 81 3.2.2. Nhóm giải pháp về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh 94 KẾT LUẬN 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra QCT : Quyền công tố KSND : Kiểm sát nhân dân KSV : Kiểm sát viên KSHĐTP : Kiểm sát hoạt động tư pháp TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự THQCT : Thực hành quyền công tố VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKS : Viện kiểm sát
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số vụ và người phạm tội tham nhũng bị khởi tố trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 - 2013 58 Bảng 2.2: Số vụ và người phạm tội tham nhũng bị khởi tố theo từng tội danh trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 – 2013 59
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, mang tính lịch sử. Sự hình thành, phát triển của tệ nạn tham nhũng nói chung và tội phạm về tham nhũng nói riêng gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Tội phạm về tham nhũng diễn ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới, tồn tại ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gây ra những hậu quả hết sức nguy hại về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, cản trở sự phát triển đi lên của xã hội, thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể chế. Do vậy, việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng được coi là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách của mọi Nhà nước. Hơn hai mươi lăm năm qua, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đem lại nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đời sống mọi mặt của nhân dân được nâng cao và không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, nạn tham nhũng cũng phát triển và có xu hướng gia tăng. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tăng trưởng, phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống, xã hội, đến sự ổn định của chế độ chính trị của quốc gia. Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng như: Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật Phòng, chống tham nhũng tạo cơ sở pháp lý vững chắc và thuận lợi cho việc phòng, chống, ngăn chặn và trừng trị các hành vi tham nhũng. Các cơ quan tư pháp, trong đó có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân đã kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật các tội phạm tham nhũng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đấu tranh chống loại tội phạm này rất khó khăn vì người phạm tội là những người có chức vụ quyền 1
- hạn, có trình độ cao và có nhiều mối quan hệ kể cả với cán bộ làm trong các cơ quan tư pháp, có khả năng che giấu tội phạm , từ đó gây không ít khó khăn cho công tác điều tra, truy tố. Do đó, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng là rất cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. Cùng với những thành tựu của đất nước sau hơn 25 năm đổi mới, tỉnh Quảng Ninh đã có sự phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực: kinh tế tăng trưởng mạnh, chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động không nhỏ đến mọi mặt của đời sống xã hội của tỉnh Quảng Ninh, đó là tình hình tội phạm và các loại tệ nạn xã hội gia tăng, đặc biệt là các loại tội phạm tham nhũng. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án tham nhũng nói riêng là một hoạt động quan trọng của quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp ở tỉnh Quảng Ninh. Trong những năm qua, hoạt động này đã thu được những kết quả to lớn, nên về cơ bản, ngành Kiểm sát Quảng Ninh thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng ở tỉnh Quảng Ninh không phải không có những hạn chế bất cập nhất định. Mặt khác, trước diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, các quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm tham nhũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa phù hợp với thực tiễn và chưa đáp ứng được yêu cầu 2
- của công tác đấu tranh phòng, chống loại tội này hiện nay. Thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm về tham nhũng gặp khá nhiều vướng mắc, bất cập cần được nghiên cứu và khắc phục. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh)”, để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ tốt nghiệp khóa học cao học Luật. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học và các cơ quan chức năng như Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao liên quan đến vấn đề thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự và tội phạm tham nhũng. Có thể phân loại các công trình trên thành hai nhóm sau đây: Một là, nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp gồm: - “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay”, đề tài khoa học do Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện năm 1999. - “Thực trạng, giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp”, đề tài khoa học do Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện năm 1998. - “Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, do Tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên, Nxb Tư pháp năm 2008. - “Quyền công tố ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ khoa học Luật học năm 2002 của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa, Viện Nhà nước và pháp luật. 3
- - “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp”, của tác giả Hà Mạnh Trí, trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01/2003. - “Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp”, của tác giả Nguyễn Duy Giảng, trên tạp chí Kiểm sát số 14 và 16 năm 2008. - “Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, của tác giả Trần Công Phàn, trên tạp chí Kiểm sát tháng 01 năm 2012. - “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án buôn bán người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Vũ Trọng Lĩnh, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Hai là, nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến tội phạm về Tham nhũng gồm: - “Tình hình, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh phòng chống các tội tham nhũng”, Luận án tiến sỹ khoa học Luật học năm 2004 của tác giả Trần Công Phàn, Viện Nhà nước và pháp luật. - “Đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta”, Đề tài của Ban Nội chính Trung ương, năm 1998. - “Tham nhũng và biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc”, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009. - “Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những nội dung cơ bản của luật phòng, chống tham nhũng”, của tác giả Đinh Văn Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005. - “Tham nhũng nhận diện từ khía cạnh pháp lý và cơ sở pháp lý mới của đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta”, của GS.TS. Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9 năm 1996. 4
- - “Bàn về mô hình cơ quan chuyên trách về chống tham nhũng Bộ Công an”, của PGS.TS. Trần Đình Nhã, TS. Trần Vi Dân, Tạp chí Công an nhân dân (CAND), 2006. - “Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới”, của GS,TS Nguyễn Xuân Yêm, PGS.TS. Nguyễn Hoà Bình, TS. Bùi Minh Thanh, Nxb. Công an nhân dân, 2007. - “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, của tác giả Phan Xuân Sơn, Nxb. Chính trị quốc gia, 2010. - “Bàn thêm về vấn đề đấu tranh phòng, chống tham nhũng” của Nguyễn Mạnh Kháng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 năm 1997. Các công trình, bài viết trên đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu và phương pháp tiếp cận khác nhau nên kết quả nghiên cứu cũng ở những cấp độ, phạm vi khác nhau. Trên thực tế, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ tham nhũng trên thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề này ở cấp độ thạc sĩ. Các công trình nghiên cứu đã được thực hiện là nguồn tư liệu phong phú cho tác giả thực hiện luận văn tốt nghiệp cao học. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài - Mục đích nghiên cứu đề tài: Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng, Luận văn đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh. 5
- - Nhiệm vụ của đề tài: + Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng, như khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng, những yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện đảm bảo trong hoạt động đó của Viện kiểm sát nhân dân. + Phân tích quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng và đánh giá thực trạng công tác này của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh từ 2009 đến năm 2013; phân tích làm rõ những kết quả đã đạt được; những khó khăn, vướng mắc cũng như những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. + Đề xuất các quan điểm, giải pháp khả thi để bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 đến 2013. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Về cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà 6
- nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm hoạt động giám sát của cơ quan Viện kiểm sát; các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác phòng, chống tham nhũng. 5.2. Về phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp xã hội học, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, tổng kết thực tiễn 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh. Ở mức độ nhất định, những kết quả nghiên cứu của Luận văn và những đề xuất, giải pháp bảo đảm cho công tác này đúng pháp luật và hiệu quả cao, có thể được sử dụng nghiên cứu, tham khảo trong hoạt động thực tiễn của ngành Kiểm sát. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng Chương 2: Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 đến năm 2013 Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG 1.1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra 1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố Trong lịch sử xã hội loài người, quyền công tố xuất hiện gắn với sự ra đời của Nhà nước và Pháp luật. Trong bất kỳ xã hội nào, khi đã xuất hiện Nhà nước, bên cạnh lực lượng thống trị xã hội luôn luôn tồn tại một hoặc nhiều lực lượng bị thống trị có thái độ, hành động thù địch chống lại lực lượng thống trị, biểu hiện ở những hành vi vi phạm pháp luật đến mức nguy hiểm đe dọa quyền thống trị của Nhà nước. Muốn trừng trị kẻ vi phạm thì phải buộc tội được họ. Quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công quyền thực hiện sự buộc tội này chính là quyền công tố. Tuy nhiên việc tổ chức thực hiện quyền công tố, nội dung quyền công tố và phạm vi thực hiện quyền này được quy định rất khác nhau ở mỗi quốc gia. Ngay trong một Nhà nước cụ thể, ở mỗi giai đoạn phát triển có thể có những thay đổi nhất định trong việc tổ chức, xác định phạm vi quyền công tố. Ở Việt Nam, hệ thống VKSND được thành lập ngày 26 tháng 7 năm 1960, bên cạnh chức năng chủ yếu khi đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo tính thống nhất của pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, Viện kiểm sát thực hiện hoạt động “truy tố trước Toà án nhân dân những người phạm pháp hình sự” (điểm b Điều 3 của Luật Tổ chức VKSND 8
- năm 1960). Như vậy chức năng công tố được Viện kiểm sát thực hiện ngay từ khi thành lập. Nhưng khái niệm “quyền công tố” và “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên được xuất hiện cùng với việc ban hành Hiến pháp 1980, bên cạnh khái niệm truyền thống “kiểm sát việc tuân theo pháp luật”. Từ đó đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến hai khái niệm này, song vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Có thể khái quát một số quan điểm chính sau đây: Quan điểm thứ nhất cho rằng, mọi hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố. Những người theo quan điểm này cho rằng công tố không phải là chức năng độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [28, tr85-87]. Quan điểm thứ hai cho rằng, QCT là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sá truy tố một kẻ phạm tội ra Toà án và thực hiện sự buộc tội tại phiên toà [37, tr19]. Theo họ, QCT chỉ có trong tố tụng hình sự và cũng chỉ diễn ra ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Quan điểm thứ ba cho rằng, QCT là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Đây là quan điểm chính thống của ngành kiểm sát giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1985, được đưa vào chương trình giảng dạy của Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội. [28,tr.84-87]. Quan điểm thứ tư cho rằng, QCT là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội [37, tr10]. Theo quan điểm này, không chỉ Viện kiểm sát mà các cơ quan khác tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Toà án đều được thực hiện QCT. 9
- Quan điểm thứ năm cho rằng, Công tố là sự cáo buộc của Nhà nước với các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, kinh tế và luật hình sự [37, tr.11]. Theo quan điểm này, QCT không chỉ được thực hiện trong tố tụng hình sự mà còn được thực hiện trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động và hành chính. Quan điểm thứ sáu cho rằng: QCT là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở Việt Nam là Viện kiểm sát nhân dân) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội [12, tr 40]. Trên đây là một số quan điểm khác nhau tồn tại khá phổ biến hiện nay về khái niệm QCT. Mỗi quan điểm đều có những hạt nhân hợp lý riêng. Tuy vậy, theo ý kiến chúng tôi, các quan điểm từ thứ nhất đến thứ năm còn những bất cập nhất định nhìn từ khía cạnh quy định của pháp luật, khoa học cũng như thực tiễn, thể hiện: Hoặc là coi QCT chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến xem nhẹ bản chất của QCT như là hoạt động độc lập của Viện kiểm sát được Nhà nước ủy quyền; Hoặc là thu hẹp phạm vi QCT, chỉ bó gọn QCT trong giai đoạn truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ đó hạn chế quyền hạn cũng như trách nhiệm của Viện kiểm sát như là cơ quan có trách nhiệm chính trong truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; Hoặc là đánh đồng QCT với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, dẫn đến mở rộng phạm vi QCT sang cả lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ sáu về quyền công tố vì những lý do sau: Để xác định khái niệm QCT, theo chúng tôi cần lấy việc nghiên cứu lịch sử Nhà nước và Pháp luật làm xuất phát điểm. Nhà nước ra đời luôn là 10
- đại diện chính thức cho xã hội. Bất cứ xã hội nào cũng đều tồn tại hai nhóm quan hệ xã hội cơ bản: Nhóm quan hệ thể hiện lợi ích công cộng và nhóm quan hệ thể hiện lợi ích từng công dân. Nhà nước luôn có trách nhiệm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung và trừng phạt những hành vi xâm phạm quan hệ xã hội này. Muốn trừng trị kẻ vi phạm phải buộc tội được họ. Quyền nhân danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội này chính là QCT. QCT thực chất là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều đó, Nhà nước ủy quyền cho cơ quan cụ thể trong bộ máy cơ quan nhà nước thực hiện quyền này. Cơ quan được giao nhiệm vụ THQCT phải điều tra, xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Ngoài ra để hiểu rõ thêm về QCT, cần xem xét thêm khái niệm tư tố. Tư tố và công tố là hai khái niệm cùng xuất hiện, tồn tại phát triển và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tư tố là chế định pháp lý cho phép người bị hại hoặc người thân thích của họ sử dụng để khởi kiện, khởi tố chống lại người đã thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Sự ra đời của chế định tư tố xuất phát từ quan niệm của người xưa cho rằng việc bảo vệ các quyền và lợi ích của cá nhân bị người khác xâm hại là quyền riêng tư của mỗi người, Nhà nước không cần thiết và không có trách nhiệm phải can thiệp vào những việc đó. Trong điều kiện như vậy QCT chỉ được sử dụng trong một phạm vi hạn hẹp nhằm bảo vệ các lợi ích có tính chất công. Tuy nhiên thực tế cho thấy, để tiến hành một vụ án hình sự phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền của cho quá trình thu thập, cung cấp chứng cứ cho Tòa án, điều này không phải ai cũng có điều kiện thực hiện. Mặt khác, việc pháp luật cho phép người bị hại có quyền hòa giải với người phạm tội dẫn đến có nhiều vụ án nghiêm trọng không bị xét xử và trừng phạt, không đảm bảo sự công bằng trong xã hội. Chính từ thực tế này, cùng với sự phát 11
- triển của xã hội, dần dần Nhà nước thấy cần can thiệp vào quá trình giải quyết các vụ án tư tố, sử dụng QCT để bảo vệ trật tự và công bằng xã hội. Do vậy quyền tư tố ngày càng thu hẹp, hầu hết ở các quốc gia quyền tư tố chỉ còn tồn tại ở một số tội và thông thường dừng lại ở việc người bị hại yêu cầu khởi tố vụ án, cung cấp chứng cứ, yêu cầu bồi thường thiệt hại, thực hiện việc buộc tội bị cáo trước tòa và ngay cả trong các trường hợp này sự buộc tội của họ cũng chỉ là phụ bên cạnh sự buộc tội của cơ quan công tố. Từ những phân tích ở trên chúng tôi cho rằng, QCT là quyền của cơ quan nhà nước được Nhà nước ủy quyền (ở Việt Nam Nhà nước ủy quyền cho Viện kiểm sát), nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước tòa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó. Về đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố: Do còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về QCT nên cũng có nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng, nội dung và phạm vi của QCT. Với nhận thức về QCT như đã nêu ở trên, chúng tôi quan niệm: Đối tượng của QCT chỉ là tội phạm và người phạm tội. Nội dung của QCT chính là sự buộc tội đối với người đã thực hiện tội phạm. Phạm vi QCT bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. 1.1.1.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra THQCT ở giai đoạn điều tra là một bộ phận cấu thành hoạt động THQCT của VKSND. Bởi vậy, để đi đến khái niệm thống nhất về THQCT trong giai đoạn điều tra, làm rõ đối tượng, nội dung và phạm vi của hoạt động này, trước hết cần làm rõ một số vấn đề về THQCT nói chung, đó là khái niệm, đối tượng, nội dung và phạm vi của THQCT. - Khái niệm thực hành quyền công tố: Như đã phân tích ở trên, QCT là quyền của Nhà nước, gắn liền với bản chất Nhà nước và chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Phạm vi của QCT bắt đầu từ 12
- khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc khi có một trong những căn cứ làm triệt tiêu QCT theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm thực hiện QCT trong thực tế đấu tranh chống tội phạm, Nhà nước ban hành pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT. Cơ quan nào được Nhà nước giao thực hiện các quyền năng pháp lý này để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được gọi là cơ quan có trách nhiệm THQCT. Ở nước ta, đó là hệ thống cơ quan Viện kiểm sát. Từ những nhận thức trên, chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử” [37, tr.27]. - Phạm vi thực hành quyền công tố: Để xác định phạm vi THQCT, cần xem xét đến phạm vi của QCT, bởi QCT là cơ sở, nền tảng để THQCT. Như đã đề cập ở phần trên, QCT phát sinh ngay khi có tội phạm xảy ra, do đó về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy ra là đòi hỏi QCT phải được phát động. Song, để có cơ sở phát động QCT phải có một giai đoạn chuẩn bị để thu thập tài liệu, chứng cứ về tội phạm xảy ra như: tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm, tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu trước khi khởi tố vụ án như: khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai của những người có liên quan hoặc những người biết về vụ việc Và khi các tài liệu thu thập được xác định có dấu hiệu của vụ án hình sự thì Viện kiểm sát bắt đầu THQCT bằng việc tự mình khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án. Trường hợp việc khởi tố vụ án do Cơ quan điều tra hoặc các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thì phải được sự đồng ý của Viện kiểm sát. Trên thực tế, có không ít tội phạm xảy ra nhưng không được phát hiện để khởi tố (Khoa học 13
- pháp lý gọi là tội phạm ẩn). Yêu cầu phát hiện kịp thời và khởi tố điều tra mọi hành vi phạm tội đương nhiên là vấn đề có tính nguyên tắc. Bởi vì, Nhà nước có trách nhiệm nhân danh xã hội truy cứu TNHS đối với mọi người phạm tội. QCT luôn “treo trên đầu” đối với tất cả những ai đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị phát hiện để khởi tố điều tra. Điều này có nghĩa là, phạm vi QCT bao giờ cũng rộng hơn phạm vi THQCT. Về mặt nguyên tắc, phạm vi QCT bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra (vì lúc đó đã xuất hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với người phạm tội) và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị (quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đã đạt được thông qua bản án có hiệu lực pháp luật). Trên thực tế, không phải trường hợp nào QCT cũng kéo dài đến khi bản án có hiệu lực pháp luật mà quyền này có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định của pháp luật, đó là các trường hợp Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, bị can Khi QCT chấm dứt thì THQCT cũng chấm dứt. Từ nhận thức trên chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng: Phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS [37, tr.31]. - Nội dung THQCT: Nội dung THQCT là những biện pháp được pháp luật quy định mà VKS sử dụng để truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2002, BLTTHS năm 2003, nội dung THQCT của VKSND gồm những biện pháp, như: khởi tố vụ án; khởi tố bị can; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định của BLTTHS; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy 14