Luận văn Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thuc_hanh_quyen_cong_to_va_kiem_sat_dieu_tra_doi_vo.pdf
Nội dung text: Luận văn Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ THU HÕA Thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra ®èi víi c¸c téi x©m ph¹m së h÷u cã tÝnh chÊt chiÕm ®o¹t (trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn quËn CÇu GiÊy, thµnh phè Hµ Néi) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ THU HÕA Thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra ®èi víi c¸c téi x©m ph¹m së h÷u cã tÝnh chÊt chiÕm ®o¹t (trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn quËn CÇu GiÊy, thµnh phè Hµ Néi) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. ĐƢỜNG MINH GIỚI HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Dƣơng Thị Thu Hòa
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng phụ lục MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT 7 1.1. Nhận thức chung về điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 7 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 7 1.1.2. Điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 12 1.2. Khái quát về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 20 1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự 20 1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 26 1.2.3. Đặc điểm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 39 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY 43
- 2.1. Tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014 43 2.1.1. Vài nét về tình hình, đặc điểm quận Cầu Giấy 43 2.1.2. Tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014 44 2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 45 2.2.1. Bộ máy tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy liên quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 45 2.2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 46 Chƣơng 3: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIẾM SÁT ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY 57 3.1. Dự báo các tình hình có liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội 57 3.1.1. Xu hướng của tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy trong thời gian tới 57 3.1.2. Những yếu tố khác tác động đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy trong thời gian tới 58 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội 61
- 3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp 61 3.2.2. Cần sớm kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và hoàn thiện đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 67 3.2.3. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, phân định trách nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 70 3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp trên cơ sở pháp luật tố tụng hình sự giữa Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy với cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 72 3.2.5. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy nói chung và đội ngũ cán bộ Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 73 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CQĐT : Cơ quan điều tra KSĐT : Kiểm sát điều tra KSND : Kiểm sát nhân dân THQCT : Thực hành quyền công tố TTHS : Tố tụng hình sự VAHS : Vụ án hình sự VKS : Viện kiểm sát
- DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê số lượng án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy đã điều tra, xử lý 81 Bảng 2.2: Thống kê số lượng án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã xử lý 82 Bảng 2.3: Thống kê các loại tội xâm phạm sở hữu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy đã điều tra, xử lý 83 Bảng 2.4: Thống kê các loại tội xâm phạm sở hữu Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã xử lý 86 Bảng 2.5: Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014 89 Bảng 2.6: Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014 90 Bảng 2.7: Thống kê kết quả kiểm sát tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy 91
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai chức năng hiến định của Viện kiểm sát nhân dân và việc đảm bảo thực hiện chức năng này cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Nhận thức và quán triệt nghiêm túc tinh thần các nghị quyết của Đảng, trải qua 55 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát nhân dân đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, các quyền dân chủ của công dân. Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội là một bộ phận cấu thành của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. Mặc dù mới thành lập được 18 năm (khi tách huyện Từ Liêm cũ thành huyện Từ Liêm và quận Cầu Giấy năm 1997) nhưng Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn quận nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung. Tính từ năm 2010 đến năm 2014 Viện kiểm sát nhân dân (KSND) quận Cầu Giấy đã kiểm sát khởi tố, điều tra 2065 vụ/ 3146 bị can, trong đó các tội xâm phạm sở hữu (XPSH) có tính chất chiếm đoạt xảy ra 984 vụ với 1314 bị can chiếm tỷ lệ 47% so với số vụ án thụ lý điều tra [46]. Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp ngăn chặn đảm bảo đúng quy định của pháp luật, việc truy tố, xét xử không có trường hợp nào làm oan người vô tội. Tuy nhiên, hoạt động thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát điều tra (KSĐT) đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt còn nhiều tồn tại, hạn chế như việc thu thập chứng cứ trong hồ sơ không đầy đủ, hình sự hoá 1
- các quan hệ dân sự, nhầm lẫn trong việc định tội danh Những tồn tại trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân trực tiếp do nhận thức của Kiểm sát viên làm công tác THQCT và KSĐT các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt chưa đầy đủ và thống nhất, các quy định của pháp luật còn thiếu đồng bộ. Mặt khác, lý luận về công tác THQCT và KSĐT đối với loại tội này chưa được xem xét, nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện. Với tình hình thực tế như trên, tác giả chọn đề tài “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Thực hành quyền công tố và KSĐT là một đề tài rộng, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà làm luật và các nhà khoa học. Do vậy, có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chức năng THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra nói chung và đối với một số tội nói riêng. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ có các công trình tiêu biểu sau: “Một số hoạt động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh” tác giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1998; "Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội", của Hà Thị Minh Hạnh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007; “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra”, Bùi Ngọc Tú, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013 Bên cạnh đó có các giáo trình, sách chuyên khảo, các bài viết, bình luận trên các tạp chí như: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, sách tham khảo, Lê Hữu Thể (chủ biên), NXB 2
- Tư pháp năm 2005; “Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2006; “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án kinh tế - chức vụ”, Nguyễn Mạnh Hiền, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số xuân 2012; “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tham nhũng”, Dương Văn Phùng, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số Xuân 2013:“Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy” Trấn Thế Vinh, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 8/2013 . Qua kết quả khảo sát trên cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu về THQCT và KSĐT đối với các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trong khi các tội này chiếm tỷ lệ lớn trong quá trình giải quyết án trên các địa bàn. Điều này một lần nữa khẳng định việc nghiên cứu đề tài: "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)” là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, đáp ứng nhu cầu lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật về THQCT và KSĐT nói chung và thực tiễn áp dụng đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy nói riêng để góp phần làm phong phú thêm lý luận, nhận thức đúng thực tiễn và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt. 3
- 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm THQCT và KSĐT các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. - Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt và hoạt động điều tra của các cơ quan chức năng. - Phân tích những căn cứ, đặc điểm của hoạt động THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt. - Khảo sát làm rõ thực trạng THQCT và KSĐT của Viện KSND quận Cầu Giấy đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt từ năm 2010 đến năm 2014; những kết quả đạt được, những mặt tồn tại và nguyên nhân. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THQCT và KSĐT của Viện KSND quận Cầu Giấy nói riêng và các cấp Viện kiểm sát nhân dân nói chung, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương cũng như trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động THQCT và KSĐT theo chức năng của Viện KSND đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, kể từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc điều tra vụ án. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt xảy ra trên địa bàn quận Cầu Giấy do Cơ quan Cảnh sát điều tra thụ lý, trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Văn kiện Đại 4
- hội Đảng VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 09/NQ-TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 26/5/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. - Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp như: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh 6. Những điểm mới đóng góp của đề tài Luận văn là tài liệu chuyên sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về THQCT và KSĐT đối với các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt gắn với thực tiễn của một địa phương cụ thể. Vì vậy, luận văn có một số điểm mới sau: - Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận trong hoạt động THQCT và KSĐT nói chung của Viện kiểm sát nhân dân. - Nêu lên những điểm đặc trưng của công tác THQCT và KSĐT đối với các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt. - Trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu, tình hình thực tế, chỉ ra những tồn tại, khó khăn, vướng mắc; nguyên nhân và đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác trên. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong hoạt động THQCT và KSĐT của của Viện KSND quận Cầu Giấy đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, từ đó có thế tổng kết kinh nghiệm cho toàn ngành. Bên cạnh đó, luận văn góp phần xây dựng, hoàn thiện các tri thức của khoa học Luật Hình sự, Luật tố tụng hình sự, khoa học Điều tra hình sự. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học .nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể phục vụ cho việc tham 5
- khảo của cán bộ đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy. Chương 3: Dự báo tình hình và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy. 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT 1.1. Nhận thức chung về điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 1.1.1.1. Khái niệm Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ xã hội giữa người và người trong quá trình chiếm hữu những của cải vật chất trong xã hội. Nó ra đời cùng với các hoạt động kinh tế và được luật hóa thành “quyền sở hữu” khi xuất hiện nhà nước và pháp luật. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu là quyền cơ bản của công dân, bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Các quyền này được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Các tội xâm phạm sở hữu (XPSH) là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi [38, tr.5]. Các tội này được quy định tại Chương XXIV Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây viết tắt là Bộ luật hình sự), gồm 13 tội được quy định từ Điều 133 đến Điều 145. Đó là các tội: tội cướp tài sản (Điều 133), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135), tội cướp giật tài sản (Điều 136), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137), tội trộm cắp tài sản (Điều 138), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140), tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141), tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142), tội hủy hoại 7
- hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143), tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144), tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145). Căn cứ vào tính chất của mục đích phạm tội, khoa học luật hình sự chia các tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm: (1) các tội có mục đích tư lợi (bao gồm 10 tội từ Điều 133 đến Điều 142 BLHS) và (2) nhóm các tội không có mục đích tư lợi (từ Điều 143 đến Điều 145 BLHS). Đối với nhóm các tội có mục đích tư lợi, dựa vào đặc điểm chung của hành vi phạm tội có thể chia thành nhóm có tính chất chiếm đoạt (bao gồm 8 tội từ Điều 133 đến Điều 140) và nhóm không có tính chất chiếm đoạt (gồm các Điều 141, 142). Vậy tính chất chiếm đoạt ở đây được hiểu như thế nào? Có ý kiến cho rằng “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình” [38, tr.11]. Quan điểm này thể hiện được bản chất của khái niệm chiếm đoạt nhưng đã đồng nhất dấu hiệu chiếm đoạt với hành vi chiếm đoạt. Trong khi đó, theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là “chiếm của người làm của mình, bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế”[21, tr.212]. Như vậy, khái niệm chiếm đoạt cần phải bao quát cả ở khía cạnh hành vi phạm tội và mục đích phạm tội. Từ đó, chúng tôi cho rằng khái niệm chiếm đoạt trong dấu hiệu chiếm đoạt cần được hiểu như sau: “chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của mình. Chúng được biểu hiện dưới dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội”. Trên cơ sở khái niệm các tội XPSH và khái niệm chiếm đoạt ở trên, có thể đưa ra khái niệm về các tội XPSH có tính chiếm đoạt như sau: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những hành vi cố ý chiếm lấy, đoạt lấy tài sản đang do người khác sở hữu hợp pháp làm tài sản của mình vì mục đích vụ lợi. 8
- 1.1.1.2. Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Để nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt, trước hết phải nắm vững các đặc điểm pháp lý đặc trưng của các tội này (dựa vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm và khái niệm các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt) như sau: - Khách thể của tội phạm Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [37, tr.78]. Nghiên cứu quy định của BLHS đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 140 và thực tiễn áp dụng, các tội từ Điều 133 đến Điều 136 BLHS có khách thể không chỉ là quan hệ sở hữu mà còn là quyền nhân thân. Còn đối với các tội từ Điều 137 đến Điều 140 BLHS có khách thể chỉ là quan hệ sở hữu. Về đối tượng tác động thuộc khách thể của tội phạm, các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có đối tượng tác động là tài sản thuộc sở hữu của người khác (không phải là của người phạm tội) và chúng còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Về nguyên tắc tài sản này là hợp pháp và bao gồm: vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền về tài sản (Điều 163 Bộ luật dân sự). - Mặt khách quan của tội phạm. Hành vi phạm tội được hiểu là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định chịu sự kiểm soát, điều khiển bởi ý thức, ý chí của người phạm tội [37, tr.93-97]. Hành vi phạm tội có hai hình thức thể hiện là hành động và không hành động. Dựa vào quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng, các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có những hành vi khách quan khác nhau. Đó có thể là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực như tội Cướp tài sản, Bắt cóc nhằm 9
- chiếm đoạt tài sản, Cưỡng đoạt tài sản (nhóm 1); hành vi lợi dụng sơ hở của chủ tài sản để thực hiện tội phạm như tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản (nhóm 2); hành vi dùng thủ đoạn gian dối như tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (nhóm 3) hay hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công khai như tội Cướp giật tài sản. Tuy nhiên, thủ đoạn, cách thức, đối tượng thực hiện hành vi và điều kiện khi thực hiện hành vi là khác nhau và chúng là dấu hiệu phân biệt các tội phạm có cùng hành vi chiếm đoạt với nhau. Cụ thể, trong nhóm 1, đối với tội Cướp tài sản, người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực “ngay tức khắc” đối với chủ tài sản; đối với tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì hành vi đe dọa dùng vũ lực lại nhằm vào con tin từ đó khiến người thân của con tin (người có tài sản) phải lo sợ, giao nộp tài sản; hoặc cùng là đe dọa dùng vũ lực đối với chủ tài sản nhưng ở tội Cưỡng đoạt tài sản không có đặc điểm “ngay tức khắc” như tội Cướp tài sản. Đối với nhóm 2, người phạm tội Trộm cắp tài sản có thủ đoạn lén lút khi thực hiện hành vi chiếm đoạt; còn ở tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội lại có hành vi công khai. Ở nhóm 3,tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được phân biệt với nhau bởi thủ đoạn gian dối được thực hiện trước hay sau khi hành vi chiếm đoạt được thực hiện. Về hậu quả mà những hành vi nói trên gây ra trước hết là những thiệt hại gây ra cho quan hệ sở hữu, thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất cụ thể là tài sản bị mất. Đối với những tội như Cướp tài sản, Cướp giật tài sản, Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì thiệt hại còn bao gồm cả thiệt hại về thể chất (thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe, tinh thần). - Chủ thể của tội phạm Chủ thể của nhóm tội này có thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định: từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu 10
- trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc những tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 133; khoản 2,3, và 4 của các Điều 134, 135, 136; khoản 3 và 4 các Điều 137, 138, 139, 140. Ngoài ra tại các Điều 139, 140 Bộ luật hình sự, dấu hiệu chủ thể đặc biệt được phản ánh trong cấu thành tăng nặng trách nhiệm hình sự, cụ thể ở điểm d khoản 2 Điều 139: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản; điểm b khoản 2 Điều 140: Lợi dụng chức vụ quyền hạn để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Mặt chủ quan của tội phạm: Tất cả các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lí nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành của mình. Về động cơ và mục đích phạm tội: người phạm tội mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác và dấu hiệu chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc đối với các tội này. Tùy thuộc vào đặc trưng của từng tội do BLHS quy định mà dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là khác nhau. Chúng có thể là hành vi chiếm đoạt, mục đích chiếm đoạt hoặc chiếm đoạt được. Ví dụ: Đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 135 BLHS, khách thể được bảo vệ bao gồm quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Để xâm phạm quan hệ sở hữu, người phạm tội phải có hành vi xâm hại quan hệ nhân thân. Trong đó, quan hệ nhân thân rõ ràng quan trọng hơn quan hệ sở hữu nên các tội này có cấu thành hình thức, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội xem như tội phạm đã hoàn thành và dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy, mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Đây là cơ sở phân biệt các tội này với các tội khác do BLHS quy định có hành vi khách quan tương tự như hành vi phạm tội của các tội này. 11
- Đối với tội cướp giật tài sản, mặc dù khách thể mà tội này xâm phạm cũng là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân nhưng khác với các tội tại các Điều 133, 134, 135 BLHS. Hành vi khách quan do BLHS quy định đối với tội cướp giật tài sản xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu và qua việc xâm phạm quan hệ sở hữu mới xâm phạm đến quan hệ nhân thân nên dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua hành vi chiếm đoạt được mô tả trong điều luật. 1.1.2. Điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 1.1.2.1. Khái niệm điều tra các vụ án hình sự Pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam từ trước tới nay chưa bao giờ ghi nhận định nghĩa pháp lý khái niệm giai đoạn TTHS. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS 2003 đã thể hiện sự phân chia các giai đoạn tố tụng một cách rõ nét, theo đó quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tương ứng với đó, mỗi giai đoạn có nhiệm vụ, chủ thể, trình tự, thủ tục, thời hạn cụ thể nhằm phục vụ mục đích chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Bên cạnh đó, trên phương diện khoa học luật TTHS, căn cứ vào cơ quan và người tiến hành tố tụng, các nhà nghiên cứu cũng chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành bản án và quyết định của Toà án. Như vậy, có thể thấy cả trên phương diện lý luận cũng như quy định của pháp luật, điều tra được coi là một giai đoạn tố tụng độc lập. Trong quá trình điều tra, một mặt phải đảm bảo các yêu cầu của luật TTHS về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, đồng thời phải áp dụng các phương pháp, thủ thuật chiến thuật, kỹ thuật điều tra để phát hiện, thu thập chứng cứ làm sáng tỏ sự thật của vụ án hình sự để làm cơ sở cho việc xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Trên cơ sở nhận thức đó, tác giả đưa ra khái niệm điều tra vụ án hình sự như sau: Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự do cơ quan có thẩm quyền tiến hành bằng các biện pháp theo quy định của 12
- pháp luật nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ sự thật của vụ án, chứng minh tội phạm trước pháp luật, đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và góp phần phòng ngừa tội phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án, giai đoạn điều tra có vai trò hết sức quan trọng. Bởi lẽ, điều tra vụ án hình sự (VAHS) là giai đoạn thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Kết quả điều tra vừa là cơ sở để Viện kiểm sát (VKS) quyết định truy tố, vừa là cơ sở để Toà án đưa vụ án ra xét xử. Tác động của kết quả điều tra đối với công tác truy tố, xét xử không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà còn là nhận định, đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật hình sự của Cơ quan điều tra (CQĐT). Trong TTHS thẩm vấn, vị trí của hoạt động điều tra càng quan trọng, những sai lầm nghiêm trọng làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm trong lịch sử tư pháp nước ta chủ yếu bắt nguồn từ giai đoạn điều tra [35, tr.198]. Do đó, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát điều tra (KSĐT) nhằm bảo đảm mọi hoạt động trong quá trình điều tra đúng pháp luật. Đồng thời việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT và KSĐT trong Bộ luật TTHS là hết sức cần thiết và mang một ý nghĩa rất lớn trong quá trình giải quyết VAHS, nhằm đảm bảo việc điều tra VAHS khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật. 1.1.2.2. Thẩm quyền điều tra các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Với phạm vi nghiên cứu của luận văn là THQCT và KSĐT các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy nên trong nội dung này, tác giả chỉ nêu về cơ sở pháp lý của việc tổ chức và phân định thẩm quyền điều tra ở cấp huyện. Trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, ngày 07 tháng 7 năm 2014 Bộ Công an đã ban 13
- hành Thông tư số 28/2014/BCA về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, các cơ quan khác của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo quy định tại Điều 17 Thông tư này thì trong điều tra các VAHS, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; phân loại và chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện; tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXII của Bộ luật hình sự năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân). 1.1.2.3. Nội dung điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt - Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố VAHS và quyết định việc khởi tố VAHS. Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là các thông tin đầu tiên về tội phạm đến với cơ quan có thẩm quyền. Đây là cơ sở đầu tiên để cơ quan có thẩm quyền xem xét xác định có phải là vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt hay không để quyết định đưa hay không đưa vụ việc vào giải quyết theo thủ tục TTHS. Để đảm bảo tính chính xác, đòi hỏi các hoạt động liên quan đến việc tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của luật TTHS về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn và các yêu cầu pháp lý khác. Sau quá trình kiểm tra, xác minh, tùy thuộc vào kết quả, cơ quan có thẩm quyền có thể ra các quyết định sau: 14