Luận văn Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thuc_hanh_quyen_cong_to_trong_giai_doan_xet_xu_so_t.pdf
Nội dung text: Luận văn Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỮU PHƢỚC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOÀI NHƠN TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. HỒ SỸ SƠN HÀ NỘI, năm 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định” là công trình do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Tác giả luận văn Nguyễn Hữu Phƣớc
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 7 1.1. Khái quát chung về thực hành quyền công tố và giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 7 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 15 1.3. Các yếu tố tác động (ảnh hưởng) đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 25 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH 29 2.1. Khái quát về tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định 29 2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định 29 CHƢƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐÚNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 47 3.1. Dự báo các yếu tố tác động đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn huyện Hoài Nhơn 47 3.2. Những yêu cầu đối với thực hành quyền công tố đúng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 50
- 3.3. Các giải pháp đảm bảo thực hành quyền công tố đúng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 51 KẾT LUẬN 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử HTND: Hội thẩm nhân dân KSV: Kiểm sát viên KSXX: Kiểm sát xét xử TAND: Tòa án nhân dân THQCT: Thực hành quyền công tố VKS: Viện kiểm sát VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Tỷ lệ số vụ/số bị cáo đã xét xử/số thụ lý; mức hình phạt 2.1. 29 Tòa tuyên Tỷ lệ số bị cáo bị VKSND huyện Hoài Nhơn kháng 2.2. 35 nghị phúc thẩm 2.3. Tỷ lệ Tòa trả hồ sơ điều tra bổ sung/số VKS truy tố 38 2.4. Tỷ lệ số vụ/số bị cáo bị cấp phúc thẩm hủy án 40 Tỷ lệ số vụ/số bị cáo bị VKSND tỉnh Bình Định kháng 2.5. 42 nghị phúc thẩm
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết 49-NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ: “Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” [4, tr. 2]. Để tiếp tục thực hiện chủ trương này, ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Hiến pháp 2013. Theo đó, tại khoản 1 Điều 107 của Hiến pháp quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Đồng thời, tại khoản 1 Điều 2 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, thực hành quyền công tố là một trong hai chức năng cơ bản của VKSND. Những năm qua, công tác thực hành quyền công tố của VKSND từng bước được nâng lên. Kiểm sát viên đã chủ động, tích cực hơn trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, hạn chế được tình trạng bỏ lọt tội phạm hay làm oan người vô tội, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, công tác thực hành quyền công tố vẫn có những hạn chế, bất cập trong lý luận và thực tiễn, chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Nguyên nhân, do một số KSV chưa nhận thức đúng về quyền công tố, chủ quan, thụ động trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bên cạnh đó, pháp luật tố tụng hình sự hiện hành chưa quy định rõ về quyền công tố trong từng giai đoạn giải quyết vụ án, cơ chế pháp lý cho KSV thực hiện vai trò của mình trong việc chứng minh tội phạm và người phạm 1
- tội. Đặc biệt, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, quyền công tố của VKS chưa thể hiện rõ ràng, có sự chồng chéo giữa chức năng buộc tội của VKS với chức năng xét xử của Tòa án, chưa tạo điều kiện cho VKS chủ động thực hiện quyền của mình để chứng minh tội phạm Trước thực trạng nêu trên, VKSNDTC đã tổ chức nhiều hội thảo để nghiên cứu về quyền công tố, thực hành quyền công tố của VKS trong các giai đoạn tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng nhằm tạo sự thống nhất về mặt nhận thức để áp dụng vào thực tiễn công tác của ngành Kiểm sát. Tuy nhiên, cũng còn nhiều ý kiến khác nhau về quyền công tố và phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nên việc vận dụng vào thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn, đã hạn chế đến chất lượng công tác kiểm sát của Ngành. Đối với huyện Hoài Nhơn, là đơn vị hành chính nằm ở phía Bắc của tỉnh Bình Định, toàn huyện có 15 xã và 2 thị trấn, có tổng diện tích tự nhiên 41.295ha, dân số 228.000 người, đa dạng các thành phần lao động nên tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm ngày càng gia tăng, diễn biến rất phức tạp. Trong những năm qua, công tác thực hành quyền công tố trong giải quyết các vụ án hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng đã đạt những kết quả tích cực, hình ảnh người KSV tại phiên tòa được xã hội ghi nhận. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế cần phải được khắc phục kịp thời để nâng cao chất lượng hoạt động công tố. Là một cán bộ đang công tác tại VKSND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, bản thân tác giả luôn muốn được tiếp tục nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó đề ra các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự. Với mục đích đó, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh 2
- Bình Định” làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến thời điểm này, đã có nhiều công trình nghiên cứu về công tác thực hành quyền công tố của VKSND trong các giai đoạn giải quyết án hình sự. Trong số đó, có thể kể đến những công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: Luận án Tiến sĩ luật học năm 2002 “Quyền công tố ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa. Đây là công trình nghiên cứu mang tính lý luận về quyền công tố từ lịch sử phát triển đến thực trạng quyền công tố ở Việt Nam qua các thời kỳ. Trần Ngọc Đảm (2015), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Long An, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội. Lỗ Thị Loan (2015), Thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội. Sách chuyên khảo “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” do Tiến sĩ Nguyễn Hải Phong làm chủ biên, NXB Tư pháp, 2013. Sách chuyên khảo “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” do Tiến sĩ Dương Thanh Biểu làm chủ biên, NXB Tư pháp, 2007. Ngoài ra, còn có các bài viết trên sách báo, tạp chí nghiên cứu về quyền công tố và thực hành quyền công tố, các giáo trình đào tạo của Trường Đại học kiểm sát Hà Nội Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn có những ý kiến khác nhau về khái niệm, nội dung, phạm vi của quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu đề tài “Thực hành quyền công tố 3
- trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định” góp phần làm sáng tỏ vấn đề, nâng cao chất lượng công tác kiểm sát. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn đề xuất những giải pháp đảm bảo thực hành đúng quyền công tố trong giai đoạn này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Phân tích những vấn đề lý luận về quyền công tố, thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng. - Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. - Dự báo tình hình tội phạm và đề xuất các giải pháp đảm bảo nhằm thực hành đúng quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. 4
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự và Tố tụng hình sự. Không gian nghiên cứu: huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tố tụng hình sự; tư pháp, tư pháp hình sự, cải cách tư pháp hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Ngoài ra, tác giả còn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê và phân tích số liệu, tổng kết thực tiễn để làm rõ những nội dung của Luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về quyền công tố, thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn còn là kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định; giúp cho các KSV nhận thức rõ hơn nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng khâu công tác này. Mặt khác, các kiến nghị, đề xuất của Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu chuyên sâu, hướng dẫn công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hoặc làm tài liệu để giảng dạy, tập huấn công tác kiểm sát. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; 5
- nội dung của luận văn được kết cấu gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp đảm bảo thực hành quyền công tố đúng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 6
- CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái quát chung về thực hành quyền công tố và giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm, phạm vi, nội dung thực hành quyền công tố 1.1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố Cụm từ “Quyền công tố” và “Thực hành quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 138 Hiến pháp năm 1980 khi đề cập đến chức năng của VKSND, được nhắc lại ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981. Kể từ đó, hai cụm từ này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 137 Hiến pháp 1992 và các đạo luật liên quan như Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, 2003, 2015; Luật tổ chức VKSND năm 1981, 1992, 2002, 2014; cùng với đó là các Nghị quyết của Đảng như Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chi n lược cải cách tư pháp đ n năm 2020” đã xác định rõ: Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ( ), tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [4. tr. 2]. Quyền công tố cũng như thực hành quyền công tố ở Việt Nam là những vấn đề rất quan trọng xét cả góc độ lý luận lẫn thực tiễn, bởi nó không chỉ liên quan đến chức năng của VKS mà còn liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, luôn gắn chặt nhau, không thể tách rời. Vì vậy, để hiểu được khái niệm thực hành quyền công tố, cần phải tìm hiểu về quyền công tố. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Nhưng khái quát lại thì có một số quan điểm sau: 7
- Có quan điểm đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND, rằng: tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là thực hành quyền công tố; công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [24, tr.17-20]. Theo một quan điểm khác thì quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực hành quyền công tố) [27, tr.30]. Có quan điểm cho rằng quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật [34, tr.74]. Và theo một quan điểm khác thì quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu TNHS và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Nói cách khác, quyền công tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các VAHS và thi hành án hình sự. Đó là hoạt động tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định hành vi, người phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội, áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội . Phân tích các quan điểm trên đây, mặt dù đều có điểm hợp lý nhưng vẫn còn những nội dung không chuẩn xác thể hiện ở chỗ hoặc đồng nhất hai chức năng của Viện kiểm sát là công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự hoặc quá mở rộng nội dung và phạm vi của quyền công tố, hoặc có sự nhầm lẫn giữa hoạt động buộc tội và hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự. Xuất phát từ lịch sử Nhà nước và pháp luật, có thể thấy rằng cốt lõi của TTHS là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm phát hiện tội 8
- phạm và xử lý người phạm tội. Trong hoạt động TTHS, chúng ta thấy luôn luôn tồn tại ba chức năng cơ bản đó là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử. Buộc tội là một chức năng tố tụng luôn nhằm chống lại một cá nhân cụ thể và thực chất đó chính là hoạt động truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Người buộc tội (cơ quan thực hiện chức năng buộc tội) có quyền đưa ra lời cáo buộc đối với những cá nhân cụ thể và có nhiệm vụ phải đưa ra những bằng chứng để chứng minh cho sự cáo buộc đó. Vì vậy, có thể đưa ra khái niệm quyền công tố như sau: quyền công tố là quyền thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là VKS) nhằm phát hiện tội phạm, truy cứu TNHS đối với người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa . Để quyền công tố đi vào cuộc sống, phải có hoạt động được tiến hành bởi chủ thể có quyền năng nhất định. Chủ thể đó, như đã nhấn mạnh, là Viện kiểm sát nhân dân. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được gọi là hoạt động thực hành quyền công tố . Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014: Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự . Mục đích của thực hành quyền công tố là đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội hay bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bắt tạm giữ, tạm giam, hạn chế quyền con người, quyền công dân trái quy định của pháp luật. 1.1.1.2. Phạm vi thực hành quyền công tố Mục đích của tố tụng hình sự đòi hỏi mọi tội phạm xảy ra đều phải 9
- được phát hiện và xử lý theo pháp luật. Do đó, về mặt nguyên tắc, có tội phạm xảy ra là thì quyền công tố phải được phát động để chứng minh tội phạm, truy tố kẻ phạm tội ra tòa xét xử. Mà thực hành quyền công tố là một trong những biện pháp pháp lý để thực hiện quyền công tố. Vì vậy, các hoạt động nhằm thu thập tài liệu, tin tức về tội phạm xảy ra như: tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm; tiến hành một số hoạt động điều tra trước khi khởi tố vụ án như khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai người làm chứng, lấy lời khai người bị tạm giữ; khởi tố vụ án, bị can; ban hành Cáo trạng, các hoạt động buộc tội tại phiên tòa là một trong những nội dung thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, không phải mọi vụ án đều được đưa ra xét xử trước Tòa án nên phạm vi thực hành quyền công tố có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn như khi có quyết định đình chỉ điều tra vụ án, bị can. Điều đó có nghĩa là, khi quyền công tố bị triệt tiêu thì không còn việc thực hành quyền công tố. Như vậy, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị, hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án và kết thúc khi Bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. 1.1.1.3. Nội dung thực hành quyền công tố Theo quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014, nội dung thực hành quyền công tố là toàn bộ những hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Có nghĩa là, để đưa một người phạm tội ra trước Tòa án xét xử, VKS sẽ sử dụng tất cả các quyền năng tố tụng được pháp luật cho phép; gồm những 10
- quyền năng sau đây: Thứ nhất, ở giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Theo quy định tại Điều 12 Luật tổ chức VKSND năm 2014, có các nội dung thực hành quyền công tố như: Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; khi cần thiết đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng không được khắc phục Thứ hai, ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, nội dung thực hành quyền công tố được quy định tại Điều 14 Luật Tổ chức VKSND năm 2014: yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn, hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can trái pháp luật; khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của luật Thứ ba, ở giai đoạn truy tố, nội dung thực hành quyền công tố được 11
- quy định tại Điều 16 Luật tổ chức VKSND năm 2014: quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của luật; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong trường hợp cần thiết; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra; quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn; quyết định truy tố, không truy tố bị can Thứ tư, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nội dung thực hành quyền công tố được quy định tại Điều 18 Luật tổ chức VKSND năm 2014: công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa; xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội 1.1.2. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo giai đoạn truy tố, đây là giai đoạn bao gồm hai phần cơ bản: chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa. Giai đoạn này tuân thủ nhiều nguyên tắc trong đó có nguyên tắc độc lập xét xử. Việc xem xét đánh giá các chứng cứ trong giai đoạn này phải hết sức khách quan trên cơ sở xem xét toàn diện, không được lệ thuộc vào kết quả của các cơ quan tiến hành tố tụng trước đó. Nhiệm vụ của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là Tòa án phải kiểm tra lại tất cả các tài liệu, chứng cứ mà CQĐT, VKS đã thu thập được 12
- xem có hợp pháp, đầy đủ, có căn cứ để kết tội bị cáo hay không. Từ đó, ra một bản án khẳng định bị cáo có hay không có tội, nếu có thì tội gì, điều khoản và mức hình phạt áp dụng tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ khi VKS chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án có thẩm quyền xét xử theo luật định. Chuẩn bị xét xử được coi là một bước của giai đoạn xét xử sơ thẩm, là khoảng thời gian từ khi Tòa án nhận hồ sơ do VKS chuyển qua đến khi mở phiên tòa. Ở giai đoạn này, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét có đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử hay không và Thẩm phán có quyền quyết định áp dụng hay thay thế các biện pháp ngăn chặn, đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án Còn phiên tòa sơ thẩm là biểu hiện đặc trưng của giai đoạn xét xử sơ thẩm, là hình thức tổ chức công khai với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, vụ án chính thức được giải quyết. Khi đó, kết quả của phiên tòa khẳng định bị cáo có hay không có tội, nếu có thì tội gì, hình phạt được áp dụng, trách nhiệm dân sự và giải quyết vật chứng trong vụ án. Như vậy, giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập; trong đó, bao gồm chuẩn bị xét xử và phiên tòa sơ thẩm. Chuẩn bị xét xử là tiền đề cần thiết, quan trọng cho việc mở phiên tòa và tiến hành phiên tòa; còn phiên tòa sơ thẩm là hình thức đặc trưng của giai đoạn này, là nơi thể hiện đậm nét nhất nội dung của các nguyên tắc tố tụng hình sự, thể hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử; trong đó, chức năng xét xử có vai trò quyết định. 1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng Hiến định của Viện kiểm sát 13
- nhân dân. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung, kiểm sát hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp và cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động trong tố tụng như: Kiểm lâm, Hải quan, Cảnh sát biển Mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Phạm vi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ khi Viện kiểm sát quyết định việc truy tố người phạm tội ra Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị. Nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thể hiện trên các khía cạnh theo quy định tại Điều 19 Luật tổ chức VKSND năm 2014 là: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự của Tòa án; kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng; thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hiện nay, trong lý luận cũng như thực tiễn vẫn còn nhầm lẫn giữa chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, trong đó có cả lĩnh vực xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, qua những phân tích, luận giải nêu trên có thể hiểu một cách khái quát 14
- là: những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát tự quyết định có liên quan đến việc buộc tội bị can, bị cáo thì đó là những quyền năng thuộc nội dung thực hành quyền công tố. Những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát sử dụng để phát hiện và yêu cầu xử lý những vi phạm pháp luật của cơ quan, người tiến hành tố tụng là những quyền thuộc chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp luôn đan xen lẫn nhau, quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, có tác dụng hỗ trợ cho nhau trong suốt quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Như đã phân tích trên đây, phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là biểu hiện đặc trưng của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 18 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 266 BLTTHS năm 2015, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, KSV phải thực hiện những nội dung sau: 1.2.1. Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa Cáo trạng là văn bản pháp lý do VKSND lập để truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Đây là hoạt động đầu tiên của việc thực hành quyền công tố tại phiên tòa nhằm công khai hành vi phạm tội của bị cáo và cũng là cơ sở để Tòa án tiến hành hoạt động xét hỏi. Thông thường, KSV công bố Cáo trạng đã được chuyển cùng hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, khi có sự thay đổi nhận thức, đánh giá chứng cứ hoặc trên cơ sở những phát sinh mới trong quá trình chuẩn bị xét xử, nếu cần thiết thì KSV trình bày ý kiến bổ sung nhưng ý kiến bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo. 15
- Tại phiên toà, nếu có căn cứ rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố; có tình tiết mới theo hướng có lợi cho bị cáo làm thay đổi quyết định truy tố hoặc đường lối xử lý đã được lãnh đạo cho ý kiến thì Kiểm sát viên quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Sau phiên toà, Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với lãnh đạo đơn vị. Trường hợp tình tiết mới đưa ra tại phiên toà có đủ căn cứ để kết luận về một tội danh khác nặng hơn thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà và báo cáo lãnh đạo Viện quyết định. Đối với vụ án được áp dụng theo thủ tục rút gọn, KSV công bố quyết định truy tố theo quy định tại Điều 463 BLTTHS năm 2015. 1.2.2. Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ 1.2.2.1. Xét hỏi Xét hỏi thực chất là quá trình tiếp tục điều tra công khai tại phiên tòa với sự có mặt của tất cả các chủ thể liên quan đến vụ án, là tiền đề để các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ của mình. Về phía HĐXX, xét hỏi giúp xác định chính xác các tình tiết khách quan làm cơ sở tuyên án hoặc ra quyết định. Về phía VKS, KSV sử dụng kết quả của xét hỏi để thực hiện luận tội, rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn. Người bào chữa có thể đạt câu hỏi mang tính chất gỡ tội, làm rõ tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo Việc tham gia xét hỏi là bắt buộc đối với KSV. Trước khi tham gia phiên toà, KSV phải dự thảo đề cương xét hỏi và những nội dung cần làm sáng tỏ; dự kiến các tình huống khác có thể phát sinh tại phiên toà, chú ý các mâu thuẫn và cách xét hỏi để giải quyết nhằm bác bỏ những lời chối tội không có cơ sở; chuẩn bị các câu hỏi để làm sáng tỏ vấn đề mà người bào chữa quan tâm. Tại phiên toà, KSV theo dõi, ghi chép đầy đủ nội dung xét hỏi của 16