Luận văn Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai

pdf 88 trang vuhoa 24/08/2022 6741
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_thuc_hanh_quyen_cong_to_trong_giai_doan_dieu_tra_vu.pdf

Nội dung text: Luận văn Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VĂN CHÌU THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄNHUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VĂN CHÌU THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN HƯNG BÌNH HÀ NỘI, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tác giả cam đoan luận văn "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai" là công trình nghiên cứu của riêng tác giả, số liệu và kết quả nghiên cứu trong hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực đã được công bố trước đây. Tác giả chịu trách nhiệm về cam đoan này. Tác giả luận văn Phạm Văn Chìu
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC 9 1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 9 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 27 Chương 2 THỰC TIỄN THI HÀNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI 42 2.1. Kết quả, tình hình thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. 42 2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai 49 2.3. Những hạn chế, sai sót thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai và nguyên nhân 55 Chương 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
  5. CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI 65 3.1. Yêu cầu của công tác đấu tranh chống loại tội phạm “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” ở địa phương trong thời gian tới. 65 3.2. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. 66 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 67 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự KSV Kiểm sát viên QCT Quyền công tố THQCT Thực hành quyền công tố VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1 Tổng số vụ án hình sự đã khởi tố trên địa bàn Huyện 43 Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015 -2019 Bảng 2.2 Tổng số bị can đã bị khởi tố hình sự trên địa bàn 44 Huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015 – 2019
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trảng Bom là một huyện đồng bằng của tỉnh Đồng Nai, có cư dân đông và là đầu mối giao thông của vùng kinh tế trọng điểm khu vực Đông Nam bộ. Là một trong những cửa ngõ vào thành phố Hồ Chí Minh, huyện Trảng Bom có thế mạnh về giao thương, buôn bán và phát triển các khu công nghiệp. Tuy nhiên, những thế mạnh về phát triển kinh tế cũng kéo theo một số hệ lụy tiêu cực về xã hội, đó là tình hình tội phạm trên địa bàn huyện trở nên phức tạp hơn trong những năm gần đây, nhất là đối với các tội phạm “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác”. Thực trạng này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện Trảng Bom phải cố gắng, nỗ lực nhiều hơn để có thể ngăn chặn, đẩy lùi loại tội phạm này, bảo vệ cho tính mạng, sức khỏe cho nhân dân, giữ vững sự ổn định, trật tự an toàn xã hội của địa phương. Chính vì thế, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom chú trọng nâng cao chất lượng công tác Thực hành quyền công tố trong giai đoạn tin báo tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử các vụ án nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gậy tổn hại cho sức khoẻ của người khác nói riêng. Trong quá trình Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các Kiểm sát viên đã kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, thận trọng trong việc xét, quyết định phê chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra bảo đảm 100% các vụ án được truy tố đúng người, đúng tội. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy trong quá trình điều tra, truy tố các vụ có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, vẫn có những vụ trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra lại, điều tra bổ sung, gia hạn điều tra Nguyên nhân của thực trạng này một phần là do tính chất phức tạp 1
  9. của các vụ án “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”, trong khi các quy định của Bộ luật hình sự và những hướng dẫn thi hành pháp luật về tội phạm này chưa được cụ thể, rõ ràng dẫn đến còn có những quan điểm nhận thức khác nhau trong định tội danh, trong xử lý tội phạm. Mặt khác, do chất lượng hoạt động giải quyết các vụ án về tội phạm này của các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương còn có những hạn chế nhất định, trong đó bao gồm cả sự hạn chế của công tác Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra như: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng giải quyết vụ án đôi khi chưa kịp thời, cụ thể; một số Kiểm sát viên chưa nắm chắc dấu hiệu cấu thành tội phạm và chứng cứ chứng minh trong vụ án; chưa gắn trách nhiệm của công tố với hoạt động điều tra, quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra còn thiếu chặt chẽ, thống nhất dẫn đến dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao, nhiều vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, kéo dài thời hạn xử lý. Thực trạng này, đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn Công tác Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra đối với các vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, để tìm ra những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng của công tác này, từ đó đưa ra giải pháp khắc phục nhằm bảo đảm việc điều tra, xử lý đối với loại tội phạm này ngày càng tốt hơn. Chính vì lẽ trên, tác giả chọn đề tài: "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai" làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2
  10. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian nghiên cứu đề tài này, tác giả đã tiếp cận, tham khảo được một số bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà tác giả khác trên các tạp chí, diễn đàn khoa học về quyền công tố như: “Những giải pháp nâng cao chất lượng Thực hành quyền công tố“ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” do tác giả Lê Hữu Thể làm chủ biên, nghiên cứu cơ sở lý luận của quyền công tố, Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát; "Áp dụng pháp luật trong Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội" của Trần Mai Lâm; "Một số kinh nghiệm trong công tác Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án giết người" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; “Về thực hiện quyền công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, thực tiễn và kiến nghị” của Vũ Mộc; “Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố” của Lê Cảm; Bài viết Kinh nghiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Lê Thị Thùy Hương, Nguyễn Thu Quý, Tạp chí Kiểm sát - 2021 – Số 13 - tr.3-8; Bài Viết Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án về ma túy của Cẩm Thi, Tạp chí Kiểm sát - 2021 – Số.10 - tr.23-26, 43; Bài viết Kinh nghiệm thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Lê Xuân Quang, Tạp chí Kiểm sát - 2021 – Số 11 - tr.16-18, 44; Bài viết Kết quả và bài học kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát quân sự của Nguyễn Trọng Nghĩa, Tạp chí Kiểm sát - 2021 – Số 9 - tr.36-42; Bài viết Nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tham nhũng của Lại Sơn Tùng, Tạp chí Nghề luật - 2021 – Số 3 - tr.49-52; Bài viết Vướng mắc khi thực hành quyền công tố trong giải quyết nguồn tin về tội phạm lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông của Nguyễn Quốc Hân, Tạp chí Kiểm sát - 3
  11. 2021 – Số 4 - tr.30-35; Bài viết Kinh nghiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em của Duy Tân, Kiểm sát - 2021 – Số 5 - tr.32-37; Bài viết Hoàn thiện chế định thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam (kỳ 1) của Vũ Đức Hạnh, Tạp chí Khoa học Kiểm sát - 2020 – Số 38 - tr.16-24, kỳ 2 Khoa học Kiểm sát - 2020 – Số 40 - tr.15-22; Bài viết Thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn truy tố các vụ án về mua bán người của Nguyễn Đức Hạnh, Tạp chí Khoa học Kiểm sát - 2020 – Số 39 - tr.84-90; Bài viết Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án mua bán người của Lê Minh Long, Tạp chí Khoa học Kiểm sát - 2020 – Số 39 - tr.96-100. Các luận văn thạc sĩ như: "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai" của tác giả Đặng Xuân Lộc (năm 2019) ; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” tác giả Nguyễn Quốc Hân (2015); Thực hành quyền công tố trong giải quyết vụ án sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn Thị Khánh Hòa, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2020; Luận văn cao học đề tài: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai của Nguyễn Nam Thắng, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2020; Luận văn cao học đề tài: Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh của: Nguyễn Khánh Toàn, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2020; Luận văn cao học đề tài: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh của: Lê Huy Lệ, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ 4
  12. năm 2020; Luận văn cao học đề tài: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh của: Đoàn Đình Thắng, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2020; Luận văn cao học đề tài: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh của: Nguyễn Thế Thành, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2020; Luận văn cao học đề tài: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh của: Lương Đức Huyên, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2020; Luận văn cao học đề tài: Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay của: Nguyễn Hoài Nam, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2020. những luận văn trên đã nghiên cứu về lý luận, chức năng Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân một cách chuyên sâu và có những giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, một số nội dung và giải pháp trong các luận văn này không còn phù hợp với thực tiễn do Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực và còn một số khó khăn, bất cập từ thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và chức năng Thực hành quyền công tốcủa Viện kiểm sát nhân dân nói riêng nhưng các tác giả chưa đề cập đến nên chưa có giải pháp phù hợp. Do đó, việc nghiên cứu lý luận, vận dụng kinh nghiệm thực tiễn để đưa ra các đề xuất, giải pháp giải quyết các bất cập, tháo gỡ khó khăn vướng mắc tồn tại mang tính cần thiết và cấp bách. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật về công tác Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của Viện kiểm sát nhân dân, đánh giá thực trạng công tác thực hành quyền công tố trong giai 5
  13. đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng công tác này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu như sau: + Làm rõ những vấn đề lý luận, thực trạng về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua; + Tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom; + Đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội Cố cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, những vấn đề lý luận quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội danh này dựa trên cơ sở lý luận pháp lý và thực tiễn Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom. 6
  14. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên cơ sở của Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật - Về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019. - Về địa bàn: Huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. - Về chủ thể: Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, vấn đề cải cách tư pháp, nhà nước pháp quyền và vấn đề quyền con người; các luận điểm chung của khoa học pháp lý tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng tổng thể nhiều phương pháp đặc thù của Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự như: Diễn giải, quy nạp, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, tổng kết rút kinh nghiệm, thực tiễn công tác trong giai đoạn nhất định liên quan đến đề tài. Tùy thuộc vào yêu cầu, nghiên cứu của từng mục,từng chương tác giả lựa chọn các phương pháp tiếp cận phù hợp để đạt được mục đích và nhiệm vụ đề ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu, Luận văn có ý nghĩa về lý luận cũng như thực tiễn. - Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ những lý luận về Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích 7
  15. hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như khái niệm, các đặc trưng pháp lý của tội này, cũng như chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán bộ công chức ngành kiểm sát nghiên cứu, vận dụng trong thực tiễn công tác để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác Thực hành quyền công tố nói chung và Thực hành quyền công tố đối với tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Chương 2: Thực tiễn thi hành của bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. 8
  16. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC 1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1.1.1.1. Khái niệm Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. - Khái niệm về thực hành quyền công tố: Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên về mặt hiến định của Nhà nước ta đưa thuật ngữ “Thực hành quyền công tố” được đề cập tại Điều 138 quy định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân. Tại Điều 1 và Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1980 cũng đề cập đến thuật ngữ “Thực hành quyền công tố”. Quy định này cũng được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 và năm 2013; Điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, luật chuyên ngành thì các văn bản tố tụng khác cũng có quy định. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản nào quy định, giải thích rõ “Thực hành quyền công tố” là gì?. Chính vì thế việc nhận thức, thực hiện công tác Thực hành quyền công tố chưa thống nhất, có lúc, có nơi chưa đầy đủ, chính xác. Để nhận thức, thực hiện được thống nhất, đầy đủ, chính xác cần phải làm rõ nội hàm của “Quyền công tố” và “Thực hành”. 9
  17. Công tố là từ ghép được ghép hai từ “công” và “tố”. "tố" có nghĩa là "nói công khai cho mọi người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người phạm tội khác", còn "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước ". "Công tố" là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm tội và trình bày quan điểm trước tòa án". Như vậy "công tố" theo từ điển Tiếng Việt là khái niệm bao gồm: điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp, trình bày quan điểm trước tòa án [42,tr 200, 204, 973]. Hiện nay, phạm vi và chủ thể thực hiện quyền công tố vẫn còn nhiều ý kiến, nổi bật là các quan điểm sau: Quan điểm thứ nhất: Quyền công tố không phải là chức năng độc lập của Viện kiểm sát mà chỉ là hình thức để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [7, tr.140]. Quan điểm này nhầm lẫn giữa hai chức năng của Viện kiểm sát. Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự người phạm tội [42, tr.204] Quan điểm này cho rằng chủ thể Quyền công tố được nhà nước giao cho cả Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án hình sự. Gần đây, những công trình nghiên cứu về quyền công tố, quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ngày một rõ ràng hơn về quyền công tố. Tác giả đồng quan điểm với quan điểm của Tiến sĩ Lê Hữu Thể: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là Viện kiểm sát), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử bằng bản cáo trạng và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. 10
  18. Vì vậy quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự với đối tượng tội phạm và người phạm tội.[29, tr40] Pháp luật hình sự quy định, Viện kiểm sát là cơ quan được giao Thực hành quyền công tố và chỉ có Viện kiểm sát có quyền phát động quyền công tố mà không chịu sự can thiệp của cơ quan nhà nước nào. Theo từ điển tiếng Việt “thực hành” nghĩa là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” đồng nghĩa với “thực hiện” [31]. Như vậy để thực hiện đầy đủ quyền công tố thì Viện kiểm sát phải sử dụng các quyền năng pháp lý thuộc quyền công tố trong toàn bộ quá trình tiến hành tố tụng của vụ án, nhằm mục đích phát hiện kịp thời hình vi phạm tội, xử lý nghiêm minh người phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Từ những vấn đề vừa phân tích trên tác giả nêu lên khái niệm: Thực hành quyền công tố là chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân được pháp luật quy định để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội và Thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi thụ lý giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. - Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Dấu hiệu tội phạm được xác định trên cơ sở căn cứ Tố giác, tin báo tội phạm của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phương tiện thông tin đại chúng, kiến nghị khởi tố hoặc cơ quan tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc người phạm tội tự thú. Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách 11
  19. cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.”. Như vậy dấu hiệu tội phạm là một sự việc có các dấu hiệu quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự, pháp luật hiện hành không quy định thế nào gọi là vụ án hình sự, nhưng từ quy định trên chúng ta có thể hiểu vụ án hình sự là vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật Hình sự được phát hiện và cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, Cơ quan được được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân) khởi tố vụ án để giải quyết theo quy định pháp luật. Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn quan trọng trong việc chứng minh tội phạm, được nối tiếp giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố, trong đó nhiệm vụ của cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra căn cứ các quy định của pháp luật để tiến hành các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để thu thập chứng cứ, nghiên cứu đánh giá các tình tiết của vụ án, với mục đích nhanh chóng xác định tội phạm và người phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự và xem xét bảo đảm việc bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra. Giai đoạn điều tra là một giai đoạn độc lập có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để chứng minh tội phạm và người phạm tội, xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu khi cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra ra quyết định: Đình chỉ điều tra hoặc ra 12
  20. Kết luận điều tra và chuyển toàn bộ tài liệu liên quan đến vụ án cho Viện kiểm sát và đề nghị truy tố bị can trước Tòa án. Mục đích của hoạt động điều tra là chứng minh sự thật khách quan của vụ án: Có hành vi phạm tội hay không phạm tội?; thời gian, địa điểm và các tình tiết khác của hành vi đó; Người thực hiện hành vi phạm tội là ai?; có lỗi hay không có lỗi?, lỗi như thế nào? Lỗi cố ý hay vô ý?; Người thực hiện hành vi phạm tội có năng lực trách nhiệm hình sự không?; mục đích và động cơ phạm tội là gì?; Có bao nhiêu tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người có hành vi phạm tội?; Xác minh về nhân thân của người phạm tội ?; Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra như thế nào?; Nguyên nhân, điều kiện dẫn đến phạm tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt." Từ những lý luận trên có thể đưa ra khái niệm về điều tra vụ án hình sự: Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự của cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra áp dụng mọi biện pháp do luật định để xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát. - Khái niệm Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Thực hành quyền công tố luôn gắn liền với các hoạt điều tra, được thực hiện từ khi phạm tội sẩy ra, trong suốt quá trình điều tra cho đến khi kết thúc việc buộc tội. Do đó, Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra được thực hiện từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi có kết luận điều tra truy tố hoặc đình chỉ vụ án. Bất cứ ở đâu, khi nào cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai người làm chứng, hỏi cung bị can, thì khi đó Viện kiểm sát có trách nhiệm Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động của cơ quan điều tra. 13
  21. Từ những phân tích trên tác giả đồng tình với quan điểm của Tiến Sĩ Nguyễn Hải Phong chủ biên “Một số vấn đề về Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” 2014. Khái niệm Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là hoạt động nhân danh nhà nước thực hiện việc buộc tội với người phạm tội, bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có căn cứ và hợp pháp, bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện đều phải khởi tố, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội[22, tr13]. - Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Về khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có nhiều quan điểm khác nhau. Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác tại Điều 134 thì tội này gồm hành vi gây thương tích cho người khác và hành vi gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác ngoài ra tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 nêu lên khái niệm về tội phạm. Từ cơ sở trên tác giả xin đưa ra khái niệm theo quan điểm riêng về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm hại sức khỏe của người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương” Những nội dung cần chứng minh trong vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại 134 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. 14
  22. Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi gây tổn hại đến sức khỏe của người khác do một người hoặc một nhóm người thực hiện. Để chứng minh hành vi của một người hoặc một nhóm người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trước hết phải xác định rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng thỏa mãn điều kiện cấu thành tội phạm. Những yếu tố cấu thành tội phạm phải được chứng minh. Khách thể của tội phạm: Tại khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.” Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hay nói cách khác là trực tiếp xâm hại hoặc gây tổn thương cho con người cụ thể, xâm hại về thân thể, sức khoẻ được pháp luật bảo vệ. Như vậy Khách thể của tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là quyền bất khả xâm phạm về thân thể con người được hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Mặt khách quan của tội phạm: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải có hành vi của người phạm tội tác động đến thân thể của người khác làm cho người bị tác động bị thương tích hoặc bị tổn hại về sức khoẻ. Đó là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động trực tiếp đến thân thể người khác gây thương tích như dùng tay, chân đấm, đá; dùng các loại công cụ phương tiện: súng, lựu đạn hoặc các loại hung khí khác để gây thương tích. để xác 15