Luận văn Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

pdf 113 trang vuhoa 25/08/2022 8660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_thua_ke_the_vi_theo_quy_dinh_cua_phap_luat_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ BÍCH PHƯỢNG Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT Hµ néi - 2006
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ BÍCH PHƯỢNG Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành Mã số : 60.38.30 luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Trung Tập Hµ néi - 2006
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Thị Bích Phượng 1
  4. MỤC LỤC Trang - Lời cam đoan 1 - Mục lục 2 - DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4 - Mở đầu 5 - Chương 1: Khái quát về thừa kế và thừa kế thế vị 12 1.1 Khái niệm thừa kế 12 1.2 Khái niệm thừa kế thế vị và đặc điểm của thừa kế thế vị 16 1.2.1 Khái niệm thừa kế thế vị 16 1.2.2 Đặc điểm của thừa kế thế vị 19 1.3 Sự hình thành và phát triển của thừa kế thế vị qua các 24 thời kỳ lịch sử 1.3.1 Giai đoạn trước năm 1945 24 1.3.2 Giai đoạn từ năm 1945 đến nay 25 - Chương 2: Thừa kế thế vị và thực trạng giải quyết 32 những tranh chấp thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật hiện hành 2.1 Điều kiện và nguyên tắc hưởng thừa kế thế vị 32 2.1.1 Điều kiện hưởng thừa kế thế vị 32 2.1.2 Nguyên tắc hưởng thừa kế thế vị 34 2.2 Các trường hợp thừa kế thế vị và thực trạng giải quyết 41 những tranh chấp thừa kế thế vị 2.2.1 Thừa kế thế vị trong trường hợp thông thường 41 2.2.2 Thừa kế thế vị trong trường hợp cha con, mẹ con cùng 49 chết vào một thời điểm 2.2.3 Thừa kế thế vị trong trường hợp có vi phạm khoản 1 52 2
  5. Điều 643 – Bộ luật dân sự 2.2.4 Thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi 56 2.2.5 Thừa kế thế vị trong trường hợp con riêng với cha kế, 63 mẹ kế 2.2.6 Mối quan hệ giữa quyền của các cháu, các chắt thừa kế 68 theo hàng của ông bà và các cụ với thừa kế thế vị - Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật 73 về thừa kế thế vị và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị 3.1 Những quan điểm chỉ đạo và sự cần thiết hoàn thiện 73 những quy định của pháp luật về thừa kế thế vị và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về các tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị 3.1.1 Những quan điểm chỉ đạo nhằm hoàn thiện pháp luật dân 73 sự 3.1.2 Sự cần thiết hoàn thiện những quy định của pháp luật về 75 thừa kế thế vị và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về các tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị 3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về tranh 79 chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị 3.2.1 Những vấn đề cần rút kinh nghiệm khi tòa án xét xử các 79 tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị 3.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về các 89 tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị - Kết luận 98 - Danh mục tài liệu tham khảo 101 3
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật dân sự HN&GĐ Hôn nhân và gia đình Nxb Nhà xuất bản TAND Toà án nhân dân TTLT Thông tư liên tịch XHCN Xã hội chủ nghĩa 4
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Từ thời sơ khai của xã hội loài người, khi nhà nước chưa xuất hiện và pháp luật chưa ra đời thì sở hữu và thừa kế tài sản đã xuất hiện như một tất yếu khách quan. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, thừa kế tài sản tồn tại, phát triển cùng với sự phát triển của xã hội có phân chia giai cấp dựa trên cơ sở tư hữu về tài sản. Tuỳ thuộc vào mỗi chế độ xã hội khác nhau và mức độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ của một chế độ xã hội nhất định, bất kỳ nhà nước nào cũng thông qua pháp luật để điều chỉnh quan hệ thừa kế trong xã hội cho phù hợp. Một trong những quyền công dân đã được Hiến pháp của nhà nước ta từ năm 1946 đến nay luôn bảo hộ là quyền thừa kế di sản của công dân. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân". Thừa kế di sản là một vấn đề thiết thân đối với mỗi con người, rất được quần chúng nhân dân quan tâm, muốn hiểu biết. Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất của chế độ xã hội đó, thậm chí còn phản ánh được tính chất từng giai đoạn trong quá trình phát triển của một chế độ xã hội. Trên tinh thần của Hiến pháp năm 1992, BLDS năm 2005 vừa được ban hành là một bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự ở nước ta. Quyền thừa kế của công dân đã được pháp điển hóa trong BLDS, quan hệ pháp luật về thừa kế thế vị cũng được quy định nhằm bảo vệ trực tiếp quyền lợi của cháu, chắt được hưởng di sản của ông, bà hoặc cụ trong trường hợp bố, mẹ của cháu, chắt đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với những người này. 5
  8. Trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Ngày 2 tháng 01 năm 2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ/BCT “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và ngày 2 tháng 06 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu lực và hiệu quả cao”. Ngày 22 tháng 02 năm 2006, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương đã đề ra “Chương trình trọng tâm công tác tư pháp năm 2006” với nội dung: “nghiên cứu đề xuất các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới theo tinh thần và nội dung Chiến lược cải cách tư pháp vào Bộ luật dân sự”. “Đẩy nhanh tiến độ và khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự”. Tuy nhiên, thực tế phát triển kinh tế và xã hội đã và đang nảy sinh nhiều quan hệ dân sự mới, nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh kịp thời hoặc điều chỉnh chưa triệt để nên điều này đã gây không ít khó khăn cho cơ quan xét xử. Hàng năm, có hàng ngàn vụ án tranh chấp về thừa kế mà toà án nhân dân các cấp phải giải quyết nhưng pháp luật về thừa kế và những quy định pháp luật liên quan đến thừa kế thế vị chưa thực sự đồng bộ và thống nhất, vì thế nhiều vụ tranh chấp thừa kế đã phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục chưa cao. Tranh chấp về thừa kế là một loại tranh chấp phức tạp, đặc biệt trong tình hình tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất diễn ra gay gắt hiện nay, tòa án các cấp thường gặp nhiều khó khăn khi giải quyết. Thực tiễn áp dụng các quy định về thừa kế nói chung và thừa kế thế vị nói riêng cũng đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc, đòi hỏi khoa học luật dân sự phải 6
  9. nghiên cứu, giải quyết; đặc biệt, xung quanh vấn đề thừa kế thế vị vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Sự pháp điển hóa lần thứ hai luật dân sự Việt Nam với việc thông qua BLDS năm 2005 của nước ta đang đặt ra một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách là: trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự hiện hành, phải phân tích để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận về thừa kế thế vị, từ đó đề ra các giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về những tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị. Trước tình hình đòi hỏi của công dân và xã hội đối với hoạt động tư pháp ngày càng cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN. Mặt khác, yêu cầu thực tế đặt ra khi hội nhập quốc tế, pháp luật của nước ta cũng cần có sự xích lại gần pháp luật các nước khác trên thế giới, phù hợp với thông lệ quốc tế về sở hữu và thừa kế tài sản. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, “Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành”, mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu: Ở nước ta, từ năm 1945 đến nay pháp luật thừa kế được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với các quan hệ xã hội XHCN, theo đó quyền và lợi ích về tài sản của công dân được chú ý bảo vệ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội qua các thời kỳ, quyền thừa kế nói chung và quyền thừa kế theo pháp luật nói riêng của công dân Việt Nam có sự biến đổi theo hướng ngày càng mở rộng hơn. Một trong những nội dung quan trọng của pháp luật thừa kế là quan 7
  10. hệ pháp luật về thừa kế thế vị. Cùng với sự phát triển của pháp luật thừa kế trong chế độ mới ở nước ta thì quan hệ pháp luật về thừa kế thế vị cũng dần được xây dựng, củng cố, bổ sung ngày càng hoàn thiện hơn. Các công trình nghiên cứu về thừa kế của các nhà luật học trong nước khá nhiều, tuy nhiên, trong một số công trình này, thừa kế thế vị chỉ được đề cập như một phần của công trình nghiên cứu và ở một số khía cạnh, góc độ nhỏ lẻ, cá biệt. Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Bách đã có công trình “Chế độ hôn sản và thừa kế trong luật Việt Nam” (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh (1993); Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện đã có công trình “Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam” (Nxb. Trẻ, 1999); Tiến sĩ Phùng Trung Tập đã có các công trình: “ Về các quy định thừa kế theo pháp luật trong BLDS năm 1995: Những vướng mắc và giải pháp hoàn thiện” (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số tháng 6 năm 2003), “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” (Nxb. Tư pháp, 2004), “Về việc cháu, chắt nội, ngoại thừa kế thế vị và hưởng di sản thừa kế theo hàng của ông, bà nội ngoại, các cụ nội ngoại.” (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24 năm 2005); Nhìn chung, những nghiên cứu về thừa kế có liên quan đến thừa kế thế vị đều có ý nghĩa nhưng được đề cập trong điều kiện trước khi có BLDS năm 2005. Thừa kế thế vị là một quan hệ pháp luật về thừa kế có tính nhạy cảm, phức tạp, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về quan hệ thừa kế này, và cũng chưa có sự phân tích từ lý luận đến thực tiễn xét xử tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị để rút ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế thế vị và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị. 3. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn: 8
  11. - Cơ sở lý luận của luận văn: Là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước và pháp luật, pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới và Việt Nam, những thành tựu của các khoa học: lịch sử pháp luật, lý luận về pháp luật, luật dân sự, xã hội học pháp luật, triết học. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các văn bản pháp luật, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên các tạp chí - Cơ sở thực tiễn của luận văn: Là những bản án, quyết định của tòa án về các tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị; các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội về công tác xét xử án dân sự, giải quyết tranh chấp về thừa kế. - Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Trong khi thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgic để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật dân sự về thừa kế thế vị. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu quan hệ pháp luật thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. 4. Mục đích nghiên cứu của luận văn: Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về thừa kế thế vị. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử các tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống để hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế thế vị, nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án, góp phần ổn định các quan hệ xã hội về thừa kế. 9
  12. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ khái niệm, các đặc điểm; lịch sử hình thành và phát triển; điều kiện và các nguyên tắc hưởng thừa kế thế vị. - Phân tích các trường hợp thừa kế thế vị và đánh giá thực trạng giải quyết những tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị để thấy được những tồn tại trong việc áp dụng pháp luật về thừa kế thế vị, tìm ra sự cần thiết và từ đó có những đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế thế vị. - Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế thế vị và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về thừa kế thế vị. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luật văn: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về thừa kế thế vị; điều kiện và nguyên tắc hưởng thừa kế thế vị trong pháp luật dân sự hiện hành. - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình áp dụng quy định pháp luật về thừa kế thế vị ở Việt Nam; phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về thừa kế thế vị và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về những tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị. 6. Ý nghĩa khoa học – thực tiễn của luận văn: 10
  13. Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thiện những quy định của pháp luật về thừa kế thế vị và nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị của tòa án ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng lý luận luật dân sự, cũng như ổn định các quan hệ xã hội về thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị có tính nhạy cảm và phức tạp này. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật dân sự, thừa kế nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn này gồm có ba chương: Chương 1: Khái quát về thừa kế và thừa kế thế vị. Chương 2: Thừa kế thế vị và thực trạng giải quyết những tranh chấp thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật hiện hành. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế thế vị và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về tranh chấp thừa kế liên quan đến thừa kế thế vị. 11
  14. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ THỪA KẾ VÀ THỪA KẾ THẾ VỊ 1.1 Khái niệm thừa kế. . Thừa kế Con người không thể sống khi không có tài sản để thoả mãn các nhu cầu thiết yếu của mình. Khi sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thoả mãn cho nhu cầu của mình; khi chết, tài sản còn lại của họ được dịch chuyển cho người còn sống. Quá trình dịch chuyển đó được gọi là thừa kế. "Thừa" và "kế" đều có nghĩa là tiếp nối, tiếp tục. Theo quan niệm truyền thống, "thừa kế" được hiểu là việc người đang còn sống thừa hưởng tài sản của người đã qua đời.Việc thừa kế chỉ được thực hiện khi người có tài sản chết. Mọi cá nhân đều có quyền để lại tài sản của mình sau khi chết cho người khác. Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa thừa kế là “Sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống.” [44, tr.123]. Từ điển Luật học định nghĩa: "Thừa kế là sự truyền lại tài sản của người đã chết cho người khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.”[27, tr.486]. Như vậy, nhìn một cách tổng quan thì thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống. Thừa kế luôn gắn với sở hữu, sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế và thừa kế là phương tiện để duy trì, củng cố quan hệ sở hữu. Pháp luật quy định hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. 12
  15. Tham khảo pháp luật của Thái Lan, Điều 1599 - Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan quy định: “Khi một người chết, tài sản của người đó được để lại cho những người thừa kế.” [21, tr.455]. Và, Điều 1602: “Khi một người được coi là đã chết theo quy định của Điều 65 của Bộ luật này, thì tài sản của người đó được để lại cho người thừa kế của người đó” [21, tr. 455]. Thừa kế còn có nghĩa thứ hai đồng nghĩa với kế thừa là: "Thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát huy" (nghĩa này chỉ dùng trong những trường hợp cái được thừa hưởng mang giá trị tinh thần). Vì thế, có thể nói rằng thừa kế là việc kế thừa những di sản văn hóa của dân tộc, là sự thừa hưởng của thế hệ sau đối với những giá trị tinh thần của thế hệ trước. Thừa kế là một quan hệ xã hội có mầm mống và xuất hiện từ thời sơ khai của xã hội loài người. Ngay từ thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy, chế độ thị tộc, bộ lạc đã hình thành và tài sản có được thuộc về quyền chung của thị tộc, bộ lạc thì thừa kế cũng đã manh nha hình thành theo tập tục. Ở thời kỳ này, việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của người đã chết cho những người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định. Nghiên cứu về thừa kế, Ph. Ăngghen đã nhận xét: "Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao cho những người cùng huyết tộc với người mẹ". (Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước – Nxb. Sự thật, Hà Nội, năm 1961). Sự kế thừa tài sản trong thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hệ đã đặt nền móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế tài sản theo huyết thống. Theo tiến trình phát triển của xã hội, tương ứng với 13
  16. từng giai đoạn lịch sử phát triển nhất định là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của hình thức gia đình, của sự thay đổi quan hệ sở hữu và theo đó việc thừa kế tài sản cũng thay đổi. Thừa kế với nghĩa là một quan hệ pháp luật dân sự, trong đó các chủ thể của quan hệ thừa kế tham gia vào việc nhận di sản thừa kế. Người được hưởng tài sản của người chết để lại gọi là người thừa kế. Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, mà không bao giờ là pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức; nhưng người thừa kế có thể là cá nhân, hoặc cơ quan nhà nước, hoặc bất kể một chủ thể nào khác. Như vậy, thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Thừa kế là một thực tế xã hội được thể hiện ở sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống, nó gắn chặt với lợi ích của cá nhân, gia đình, cộng đồng dòng họ , vì thế trong bất kỳ chế độ xã hội nào cũng có sự tác động của các quy tắc xã hội. Quy tắc đó được biểu hiện ở những yếu tố như phong tục, tập quán và cao hơn nữa là quy phạm pháp luật. Có thể thấy rằng, thừa kế tài sản là phạm trù pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội nói chung và lịch sử phát triển kinh tế - xã hội, nó xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và phát triển của xã hội có phân chia giai cấp dựa trên cơ sở tư hữu về tài sản (từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến xã hội hiện đại ngày nay) được thể hiện ở sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống (bao gồm cá nhân, tổ chức) theo các nguyên tắc, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Thừa kế không những là phạm trù kinh tế, phạm trù pháp luật mà còn mang tính lịch sử, bởi vì nó thể hiện rõ nét quá trình phát triển kinh tế - xã 14
  17. hội của các chế độ xã hội khác nhau và của một chế độ xã hội theo từng giai đoạn phát triển nhất định. . Quyền thừa kế Nếu thừa kế là nhóm những quan hệ xã hội phát sinh ngay cả trong một xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa có nhà nước và nó mang tính kinh tế - tài sản thì quyền thừa kế chỉ có thể phát sinh trong một xã hội có nhà nước và pháp luật. Khi nhà nước xuất hiện, bằng pháp luật, nhà nước tác động đến quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống, trong đó, quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật. Từ đó, quá trình dịch chuyển di sản được gọi là quyền thừa kế. Nói cách khác, quyền thừa kế là phạm trù pháp lý mà nội dung của nó là xác định phạm vi quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế. Quyền thừa kế được hiểu là một bộ phận của chế định thừa kế, do vậy nó chứa đựng những yếu tố, tính chất, đặc điểm của một chế định pháp luật. Quyền thừa kế là chế định pháp luật bảo hộ quyền của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của họ trong việc chuyển dịch tài sản để lại sau khi họ chết cho những người còn sống có quyền hưởng thừa kế theo hình thức nhất định (theo di chúc hoặc theo pháp luật). Quyền thừa kế gắn liền với quyền sở hữu tài sản của cá nhân, vì vậy, Điều 58 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân." Các hình thức dịch chuyển di sản của một người đã chết cho những người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật là những cơ sở xác lập quyền sở hữu đối với di sản của người được hưởng thừa kế hợp pháp. Trong pháp luật dân sự Việt Nam, quyền để lại di sản của người có tài sản cho người thừa kế, và quyền thừa kế di sản của người khác là hai nội 15
  18. dung cơ bản của quyền thừa kế được pháp luật công nhận và bảo vệ. “Quyền thừa kế” được quy định tại khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Điều 648 – BLDS năm 1995 và đến nay được kế thừa tại Điều 631 - BLDS năm 2005: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.” Chế định quyền thừa kế không những điều chỉnh phạm vi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc để lại di sản và nhận di sản thừa kế mà còn là phương thức bảo vệ quyền của những người thừa kế hợp pháp khi bị xâm phạm. Nghị quyết số 02/2004/NQ - HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình (Sau đây gọi là Nghị quyết số 02/2004/NQ - HĐTP) hướng dẫn quyền thừa kế bao gồm “quyền yêu cầu chia di sản thừa kế, quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc quyền yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của người khác.” Như vậy, quyền để lại di sản của người có tài sản cho người thừa kế, và quyền thừa kế di sản của người khác là hai nội dung cơ bản của quyền thừa kế được pháp luật công nhận và bảo vệ. Tuy vậy, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau sự quy định cũng khác nhau, tuỳ thuộc vào tính chất của chế độ sở hữu trong xã hội đó. Vì vậy, quyền thừa kế mang bản chất giai cấp sâu sắc. Quyền thừa kế trong điều kiện của nước ta hiện nay được thể hiện như một phương tiện để củng cố sở hữu của công dân, củng cố quan hệ hôn nhân và gia đình; bảo vệ lợi ích của những người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. 1.2 Khái niệm thừa kế thế vị và đặc điểm của thừa kế thế vị. 1.2.1 Khái niệm thừa kế thế vị. 16
  19. “Thế vị" theo nghĩa triết tự là thay thế vị trí. Thừa kế thế vị là việc một người theo quy định của pháp luật được thay thế vị trí của một người đã chết để hưởng di sản thừa kế của một người khác chết sau đó. Nói cách khác, theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học – Trường Đại học luật Hà Nội thì: Thừa kế thế vị là "Thừa kế bằng việc thay vị trí để hưởng thừa kế." [44, tr.125]. Thừa kế theo luật của Hoàng đế Justinian thời La Mã cổ đại cũng quy định về thừa kế thế vị: Trong trường hợp bố, mẹ chết trước ông, bà thì cháu thay thế vị trí của bố, mẹ hưởng di sản của ông, bà. Theo Điều 739 BLDS của nước Cộng hoà Pháp định nghĩa: "Thế vị là một giả định của luật mà hiệu quả là đưa những người thế vị vào vị trí, vào bậc và hưởng các quyền của người bị thay thế." [17, tr.208]. Quy định của pháp luật Việt Nam về thừa kế thế vị được quy định tại Điều 677 BLDS năm 2005: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống". Theo quy định trên thì thừa kế thế vị là việc con thay thế vị trí của bố hoặc mẹ để nhận thừa kế di sản từ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại hoặc cụ nội, cụ ngoại nếu bố, mẹ đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với những người này. Phần di sản mà người con được hưởng trong di sản của người để lại thừa kế nói trên là phần di sản mà bố hoặc mẹ của người đó được hưởng nếu còn sống. Quy định pháp luật về thừa kế thế vị là bảo vệ trực tiếp quyền lợi của cháu (hoặc chắt) để có thể hưởng thừa kế di sản của ông, bà hoặc các cụ, 17
  20. tránh tình trạng di sản của ông, bà hoặc cụ của cháu, chắt lại do người khác hưởng. BLDS năm 2005 có một quy định mới về thừa kế thế vị so với Pháp lệnh thừa kế và BLDS năm 1995: Các cháu nội, ngoại hoặc các chắt nội, ngoại được thừa kế thế vị trong trường hợp cha hoặc mẹ của họ chết cùng một thời điểm với ông bà nội, ông bà ngoại hoặc các cụ nội, cụ ngoại. Quy định này thể hiện đúng bản chất của thừa kế thế vị là việc cháu hoặc chắt “thế chân” bố, mẹ hoặc ông, bà để hưởng thừa kế thế vị, không phụ thuộc vào thời điểm bố hoặc mẹ của họ đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản. Quy định mới của BLDS là phù hợp với thực tế và đảm bảo được quyền thừa kế thế vị của các cháu, các chắt. Trên cơ sở đó, BLDS năm 2005 quy định những trường hợp sau đây được thừa kế thế vị: - Cháu được thừa kế thế vị hưởng di sản của ông, bà: Khi bố chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông nội, bà nội thì con thay vị trí của người bố để hưởng di sản của ông nội, bà nội khi ông nội, bà nội chết. Khi mẹ chết trước hoặc cùng một thời điểm với ông ngoại, bà ngoại thì con thay vị trí của người mẹ để hưởng di sản của ông ngoại, bà ngoại chết. - Chắt được thừa kế thế vị hưởng di sản của cụ: Nếu ông, bà chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với cụ, cha hoặc mẹ chết sau ông, bà nhưng vẫn chết trước cụ (người để lại di sản) thì con của người cha hoặc người mẹ đã chết đó (tức là chắt của người để lại di sản) được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt (tức là cháu của người để lại di sản) được hưởng nếu còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết. Trong thừa kế thế vị, mối quan hệ giữa người được thừa kế thế vị với người để lại di sản là cháu đối với ông bà nội, ông bà ngoại; chắt đối với cụ. Phần di sản mà người cháu hoặc chắt thay thế bố, mẹ họ được hưởng tương 18
  21. ứng với phần di sản mà người bố, người mẹ của người thừa kế thế vị được hưởng từ di sản của ông, bà hoặc cụ. - Khi nghiên cứu thừa kế thế vị theo quy định của Điều 677 BLDS, có một vấn đề đặt ra là: có thể hiểu quy định này có tính chất bắc cầu và thừa kế thế vị được tính đến các đời sau đời chắt được hay không? Vì, thừa kế thế vị dựa trên cơ sở huyết thống, nếu chắt cũng đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với các cụ thì chút được thừa kế thế vị nhận di sản của các kỵ và cứ như thế tiếp tục là hợp lý. Tuy nhiên, quy định này cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Tham khảo pháp luật của một số nước, ta thấy, những người thừa kế thế vị được mở rộng hơn. Điều 740 BLDS của Cộng hoà Pháp quy định: “Trong dòng trực hệ bề dưới, thế vị đến vô hạn. Thế vị được chấp nhận trong mọi trường hợp, hoặc các con của người chết cùng hưởng di sản với các con cháu của người con chết trước, hoặc nếu tất cả các con của người chết đều chết trước người ấy, thì các con cháu của những người con ấy sẽ ở những bậc ngang nhau hoặc không ngang nhau.” [17, tr.209]. Bộ luật dân sự của Nhật Bản quy định thừa kế thế vị áp dụng cả đối với con cháu trực hệ của con người có di sản (Điều 887 khoản 2,3) và con cháu trực hệ của anh, chị em người có di sản (Điều 889 khoản 2). Con (cháu) trực hệ của người được thế vị , được gọi thế vị theo thứ tự cháu, chắt, chút , thế vị được áp dụng đến vô hạn. 1.2.2 Đặc điểm của thừa kế thế vị. Đặc điểm thứ nhất: Thừa kế thế vị chỉ có thể đặt ra đối với phần di sản được chia theo quy định của pháp luật, không áp dụng đối với phần di sản được định đoạt theo di chúc. Vì người được chỉ định thừa kế theo di chúc lại chết trước hoặc chết cùng vào một thời điểm với người lập di chúc, thì phần di chúc này vô hiệu. 19
  22. Đặc điểm thứ hai: Thừa kế thế vị không phải là thừa kế theo trình tự hàng: Quan hệ thừa kế theo hàng và quan hệ thừa kế thế vị có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quan hệ thừa kế thế vị không phải là quan hệ thừa kế theo trình tự hàng, nhưng hàng thừa kế là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị trong trường hợp con của người để lại di sản là người được hưởng thừa kế theo hàng nhưng đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản. Trước năm 1945, về hàng thừa kế theo pháp luật và người thừa kế theo hàng bị chi phối mạnh mẽ bởi những tư tưởng phong kiến và được thể chế hóa bằng pháp luật. Tại Điều 184 Bộ Dân luật Bắc Kỳ 1931, Điều 182 Bộ Dân luật Trung Kỳ 1936 (Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật) quy định thứ tự ưu tiên hưởng di sản không quy định cháu được hưởng di sản của ông, bà theo hàng thừa kế mà chỉ quy định: “- Thứ tự thứ nhất gồm có: Các con (các con đẻ, các con nuôi, con vợ cả hay con vợ lẽ) của người để lại di sản. Trong trường hợp người để lại di sản không còn con thì cháu được hưởng di sản của ông, bà (thế vị). Thứ tự thứ tư gồm có: Anh, chị, em ruột (con, cháu của anh chị em ruột). Trong trường hợp anh, chị, em ruột của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì con của người đó được hưởng di sản hoặc con của anh, chị, em ruột cũng đã chết trước thì cháu của anh, chị, em ruột đã chết trước đó được hưởng di sản ” Về hàng thừa kế theo pháp luật ở nước ta, kể từ năm 1945 cho đến khi có Pháp lệnh thừa kế năm 1990 thì cháu, chắt không có vị trí ở hàng thừa kế theo pháp luật. Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 679) có quy định về hàng thừa kế, theo đó ông, bà thuộc hàng thừa kế thứ hai của cháu, cụ thuộc hàng thừa kế thứ ba của chắt; nhưng cháu, chắt lại không thuộc hàng thừa kế nào 20