Luận văn Thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thua_ke_quyen_su_dung_dat_theo_quy_dinh_cua_phap_lu.pdf
Nội dung text: Luận văn Thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU HẰNG THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ MÃ SỐ: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: P GS. TS HÀ THỊ MAI HIÊN HÀ NỘI - NĂM 2006
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa 01 Lời cam đoan 02 Mục Lục 03 Danh mục các chữ viết tắt trong luận văn 05 Mở đầu 06 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ QSDĐ 12 1.1 Khái niệm chung về thừa kế QSDĐ 12 1.1.1 Khái niệm thừa kế 12 1.1.2 Khái niệm và những đặc điểm của QSDĐ 14 1.1.3 Khái niệm thừa kế QSDĐ 18 1.2 Những đặc điểm của thừa kế QSDĐ 20 1.2.1 Những đặc điểm chung của thừa kế QSDĐ 20 1.2.2 Những đặc thù riêng của thừa kế QSDĐ 25 1.3 Vai trò, ý nghĩa của thừa kế QSDĐ trong giai đoạn hiện nay 29 1.4 Thừa kế QSDĐ ở Việt Nam qua các giai đoạn phát triển. 30 1.4.1 Thừa kế đất đai giai đoạn từ 1980 trở về trước 30 1.4.2 Thừa kế đất đai sau năm 1980 36 Chương 2: Nội dung quy định của pháp luật hiện hành 40 VỀ THỪA KẾ QSDĐ 2.1 Điều kiện để QSDĐ được coi là di sản thừa kế 40 2.1.1 Có giấy chứng nhận QSDĐ 41 2.1.2 Đất không có tranh chấp 43 3
- 2.1.3 QSDĐ không bị kê biên để bảo đảm thi hành án 43 2.1.4 Trong thời hạn sử dụng đất 44 2.2 Thời điểm người sử dụng đất được thực hiện quyền thừa kế QSDĐ 44 2.3 Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ 47 2.3.1 Chủ thể để lại di sản thừa kế là QSDĐ 47 2.3.2 Chủ thể nhận thừa kế QSDĐ 52 2.4 Các hình thức thừa kế QSDĐ 53 2.4.1 Thừa kế QSDĐ theo di chúc 53 2.4.2 Thừa kế QSDĐ theo pháp luật 61 2.5 Trình tự, thủ tục đăng ký thừa kế QSDĐ 69 2.6 Giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ 70 Chương 3: Thực tiễn áp dụng, phương hướng hoàn thiện 74 và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 3.1 Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ và một 74 số vấn đề đặt ra 3.1.1 Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ 74 3.1.2 Một số vấn đề đặt ra 81 3.2 Phương hướng hoàn thiện và một số giải pháp nâng cao hiệu 100 quả của các quy định thừa kế QSDĐ KẾT LUẬN 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105 4
- NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLDS : Bộ Luật Dân Sự GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất QSDĐ : Quyền sử dụng đất TAND : Toà án nhân dân UBND : Uỷ ban nhân dân 5
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thừa kế và để lại thừa kế là một quyền cơ bản của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Đây là quyền thể hiện rất rõ tính chất tự do ý chí, tự do định đoạt của chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự về tài sản nói chung, quan hệ thừa kế nói riêng. Tài sản có thể tồn tại lâu hơn cuộc sống của một con người, chính vì thế giải quyết vấn đề tài sản này ra sao khi người có tài sản đó qua đời là vấn đề rất quan trọng để bảo đảm cho việc định đoạt tài sản đó phù hợp với ý chí của người để lại di sản những cũng bảo đảm lợi ích hợp pháp của những người liên quan khác cũng như lợi ích chung của toàn xã hội. Đặc biệt trong trường hợp di sản là QSDĐ thì vấn đề thừa kế QSDĐ còn phải tuân thủ theo các chính sách đất đai của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, các tranh chấp về thừa kế QSDĐ diễn ra ngày càng nhiều với tính chất phức tạp, diễn biến kéo dài chính vì thế thừa kế QSDĐ là một vấn đề thời sự liên quan đến từng cá nhân, từng gia đình bởi QSDĐ là một tài sản có giá trị lớn, các vấn đề thừa kế chủ yếu là liên quan đến nhà và đất ở giữa những người có quan hệ gần gũi với nhau. Vì vậy, nếu giải quyết không dứt điểm, không phù hợp sẽ gây mất đoàn kết trong gia đình, anh em từ đó ảnh hưởng tới trật tự xã hội. Chính vì thế việc nghiên cứu các quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ nhằm tiếp tục hoàn thiện thêm chế định pháp luật về thừa kế QSDĐ cũng như nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp về thừa kế QSDĐ là một yêu cầu khách quan. Cụ thể là, trong giai đoạn hiện nay, với xu hướng hội nhập Quốc tế, vấn đề thừa kế QSDĐ cần được nghiên cứu để mở rộng hơn nữa quyền tự 6
- định đoạt của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ; tạo sự bình đẳng hơn nữa về thừa kế và để lại thừa kế giữa cá nhân trong nước với cá nhân là người Việt nam định cư ở nước ngoài. Các quy phạm pháp luật về thừa kế QSDĐ cần được xây dựng dựa trên cơ sở bảo đảm mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ và lợi ích của toàn xã hội, tôn trọng sự tự do định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp thừa kế QSDĐ góp phần đem lại một trật tự xã hội ổn định, đồng thời xây dựng một cơ chế pháp lý đồng bộ đảm bảo thực thi một cách hữu hiệu các quy định thừa kế QSDĐ. Chính vì các lý do trên nghiên cứu vấn đề thừa kế QSDĐ là một vấn đề rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Có khá nhiều luận văn nghiên cứu về các lĩnh vực khác nhau của thừa kế (thừa kế theo di chúc; thừa kế theo pháp luật; diện và hàng thừa kế; thừa kế thế vị ) cũng như nghiên cứu về các lĩnh vực của đất đai (Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất; thế chấp QSDĐ ). Tuy nhiên, vấn đề thừa kế QSDĐ là một vấn đề chỉ mới được đề cập trong Luật Đất Đai 1993 vì thế các luận văn và bài viết về vấn đề này không nhiều. Năm 2000, tác giả Nguyễn Văn Mạnh, Đại Học Quốc Gia Hà Nội với đề tài “Thừa kế quyền sử dụng đất” đã nghiên cứu chế định pháp lý về QSDĐ trong pháp luật nước ta từ thời kỳ Phong kiến đến năm 1999, trong đó tập trung nghiên cứu về pháp luật thừa kế quyền sử dụng đất theo Bộ Luật Dân Sự 1995; Luật đất đai 1993; Luật Sửa đổi bổ sung Luật Đất Đai 1998 và các văn bản liên quan. Luận văn cũng đề cập đến tình hình giải quyết các tranh 7
- chấp về thừa kế quyền sử dụng đất trong những năm 1995 - 1999, những vướng mắc và biện pháp khắc phục. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay các quy định về thừa kế QSDĐ đã có những thay đổi lớn qua việc nhà nước ban hành một loạt các văn bản pháp luật mới: Luật sửa đổi bổ sung Luật Đất Đai (Có hiệu lực thi hành 01/10/2001); Luật đất đai 2003; Bộ Luật Dân sự 2005; Luật Nhà ở (Có hiệu lực thi hành 01/7/2006) và các văn bản liên quan khác. Một số bài viết trong các báo, tạp chí năm 2003 và năm 2004 của tác giả, tiến sĩ Phùng Trung Tập đề cập đến vấn đề thừa kế nói chung và một số bài viết của tiến sĩ Nguyễn Quang Tuyến (Trường đại Học Luật Hà Nội) về vấn đề đất đai và thừa kế QSDĐ. Tuy nhiên các bài viết đó chỉ dừng lại trong phạm vi một bài báo, tạp chí. So với các quy định về thừa kế QSDĐ trong Luật đất Đai 1993 và BLDS 1995 thì các quy định về thừa kế QSDĐ theo pháp luật hiện hành được quy định theo hướng mở rộng quyền tự định đoạt cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng; Tạo sự bình đẳng trong quan hệ thừa kế giữa cá nhân trong nước với cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài Vì vậy các vấn đề mới này cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện trên cơ sở Luật Đất Đai 2003 kết hợp với các quy định về thừa kế trong BLDS 2005 để thấy được những mặt tích cực cũng như những điểm còn chưa phù hợp từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục đảm bảo cho việc thực thi chế định thừa kế QSDĐ phù hợp với thực tế cuộc sống từ đó góp phần bảo vệ một cách hài hoà giữa lợi ích của xã hội, Nhà nước và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ. Chính vì lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu. 8
- Thông qua việc nghiên cứu sơ lược quá trình hình thành và phát triển của chế định thừa kế QSDĐ ở Việt Nam, đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung mới nhất của chế định thừa kế QSDĐ dựa trên các văn bản: Luật đất đai 2003; Bộ Luật Dân sự 2005; Luật Nhà ở (Có hiệu lực thi hành 01/7/2006) và các văn bản liên quan khác. Trên cơ sở so sánh các quy định mới về thừa kế QSDĐ với các quy định trước đó để thấy được những ưu điểm của các quy định mới đồng thời đề ra các giải pháp để hoàn thiện thêm các quy định về thừa kế QSDĐ cũng như việc vận dụng để đưa các quy định này vào thực tế cuộc sống. Do thừa kế QSDĐ là một vấn đề vừa có sự đan xen giữa các quy định của thừa kế và các quy định của Luật đất đai vì vậy Luận văn đã nghiên cứu vấn đề thừa kế QSDĐ một cách toàn diện dựa trên nền tảng của Luật Đất Đai kết hợp với những quy định trong BLDS về thừa kế để vừa thấy cái chung, vừa thấy được tính đặc thù của loại di sản thừa kế đặc biệt này. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về thừa kế QSDĐ. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế QSDĐ, nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án, bảo đảm mối quan hệ hài hoà về lợi ích giữa Nhà nước, chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ và lợi ích của toàn xã hội. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ khái niệm thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng; 9
- - Phân tích và làm rõ những đặc thù của thừa kế QSDĐ so với thừa kế những tài sản thông thường khác; - Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về thừa kế QSDĐ để thấy được những điểm phù hợp và những điểm chưa phù hợp từ đó có những đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế QSDĐ cũng như đề ra các biện pháp, cơ chế bảo đảm cho việc thực thi các quy định của pháp luật về thừa kế QSDĐ, nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về thừa kế QSDĐ. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu vấn đề thừa kế QSDĐ theo quy định của pháp luật Việt nam hiện hành. 5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận: - Triết học Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; - Đường lối, chủ trương của Đảng, nhà nước ta (về xây dựng nhà nước Pháp quyền; giải quyết các vấn đề dân sự và chính sách hội nhập Quốc tế). 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, xã hội học, logic, thống kê. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất; những điểm chung và những điểm đặc thù của thừa kế QSDĐ so với việc thừa kế các tài sản thông thường khác; - Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về thừa kế quyền sử dụng đất; 10
- - Đề xuất một số ý kiến, giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án đối với những tranh chấp thừa kế nói chung và thừa kế quyền sử dụng đất nói riêng. 7. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của luận văn - Thông qua việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, kết quả nghiên cứu và những ý kiến đề xuất của luận văn có ý nghĩa trong việc hoàn thiện những quy định pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất cũng như nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại các tòa án ở nước ta. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật dân sự, thừa kế nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án 8. Kết cấu của luận văn: Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất. Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế quyền sử dụng đất; Chương 3: Thực tiễn áp dụng, phương hướng hoàn thiện và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy định thừa kế QSDĐ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 11
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 1.1 Khái niệm chung về thừa kế QSDĐ 1.1.1 Khái niệm thừa kế Tài sản chính là của cải vật chất (hoặc phi vật chất) luôn gắn với cuộc sống của mỗi con người, đó cũng chính là điều kiện cần thiết để phục vụ cho sự tồn tại của con người, nói riêng và của cả xã hội loài người, nói chung. Một cá nhân trong suốt cuộc đời của mình bằng các hoạt động lao động sản xuất, hoặc bằng các hình thức khác đã tạo lập ra được một khối tài sản để phục vụ cuộc sống của bản thân mình và người đó có toàn quyền định đoạt đối với các tài sản đó. Nếu các tài sản đó không được sử dụng hết khi một người chết sẽ xuất hiện nhu cầu chuyển dịch các tài sản này cho những người còn sống theo những trình tự nhất định từ đó xuất hiện quan hệ thừa kế. Thừa kế, trước hết là một phạm trù kinh tế, xuất hiện và tồn tại trong bất cứ chế độ xã hội nào, kể cả khi xã hội chưa có nhà nước và pháp luật, khi đó thừa kế là một quan hệ xã hội phát sinh gắn liền với sự kiện một cá nhân chết và có tài sản để lại vì vậy thừa kế chính là sự dịch chuyển tài sản từ người đã chết sang cho người còn sống tại thời điểm mở thừa kế, qua đó bảo đảm sự 12
- chuyển giao tài sản từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Khi Nhà nước và Pháp luật ra đời, sự tác động của pháp luật vào các quan hệ thừa kế đã làm cho các quan hệ này trở thành các quan hệ pháp luật về thừa kế, trong đó các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được ghi nhận và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Từ đó khái niệm quyền thừa kế mới xuất hiện. Nói cách khác, quyền thừa kế xuất hiện đồng thời với quyền sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Quyền sở hữu là một quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm bởi vì, mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời của mình bằng công sức, nỗ lực của bản thân hoặc bằng các cách thức được pháp luật thừa nhận đã tạo lập cho mình một khối tài sản nhất định và có quyền sở hữu với những tài sản đó vì thế pháp luật bảo vệ quyền sở hữu đó của họ và dành cho họ quyền định đoạt tối cao đối với các tài sản này. Các tài sản này có thể tồn tại lâu hơn cuộc sống của chủ sở hữu ra nó, vì vậy cần có một cơ chế pháp lý điều chỉnh sự chuyển dịch các tài sản của người chết sang cho người còn sống và vì thế chế định pháp luật thừa kế xuất hiện như một yêu cầu khách quan của xã hội. Có thể nói, bảo vệ quyền sở hữu cũng chính là bảo vệ cơ sở tồn tại của xã hội, bởi đó cũng chính là động lực cho sự phát triển cũng như bảo đảm một trật tự ổn định trong việc duy trì và phát triển các tài sản cũng như bảo đảm sự chuyển giao tài sản của người đã chết sang cho những người còn sống theo đúng ý chí, nguyện vọng của người có tài sản (trong trường hợp thừa kế theo di chúc) và theo các chuẩn mực được đặt ra bởi giai cấp cầm quyền bằng các chế định pháp luật về thừa kế. Quyền sở hữu là tiền đề của quyền thừa kế và quyền thừa kế là căn cứ để củng cố quyền sở hữu. Chính vì thế quyền sở hữu và quyền thừa kế có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau: thừa kế bắt nguồn từ vấn đề sở hữu, chính 13
- vì thế việc ghi nhận quyền thừa kế và để lại thừa kế cũng chính là một phương thức bảo vệ quyền sở hữu. Dưới góc độ là một chế định pháp lý, thừa kế chịu ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng theo nguyên lý cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng: trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội, chế định thừa kế được ghi nhận ở những mức độ khác nhau, phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội. Bên cạnh đó các yếu tố của kiến trúc thượng tầng trong xã hội như trình độ lập pháp, ý chí của giai cấp cầm quyền, truyền thống và tập quán xã hội cũng ảnh hưởng trực tiếp tới chế định thừa kế. Quyền thừa kế là một quyền dân sự cơ bản của công dân vì thế quyền này được ghi nhận trước tiên trong Hiến Pháp. (Các bản Hiến Pháp 1959;1980; 1992 của Nhà nước ta đều ghi nhận quyền này). Hiến Pháp 1992(điều 58) quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Việc bảo hộ này đã được cụ thể hoá trong Luật Đất Đai 2003, BLDS 2005 và các luật liên quan khác. Điều 631 BLDS cũng quy định về quyền thừa kế: Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. 1.1.2 Khái niệm và những đặc điểm của QSDĐ 1.1.2.1 Khái niệm QSDĐ Trong lịch sử Việt Nam từ 1980 trở về trước các Nhà nước đã thừa nhận nhiều hình thức sở hữu đất đai trong đó có sở hữu của Nhà nước và sở hữu tư nhân (trong Nhà nước phong kiến thì sở hữu của Nhà nước về đất đai còn gọi là sở hữu của nhà Vua hay đất của Vua). Đối với đất đai thuộc sở hữu Nhà nước trong nhiều trường hợp Nhà nước trao QSDĐ đó cho các tổ chức và cá nhân sử dụng với những điều kiện nhất định. Như vậy, vấn đề đất đai thuộc sở 14
- hữu nhà nước và QSDĐ của Nhà nước được trao cho cá nhân, tổ chức đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử. Dưới góc độ là một khái niệm pháp lý, QSDĐ được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: - Thứ nhất: QSDĐ là một chế định pháp luật đất đai Với ý nghĩa này thì QSDĐ bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm thực hiện việc quản lý, sử dụng đất đai, cụ thể, đó là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh về các vấn đề quyền của Nhà nước đối với đất đai, quản lý Nhà nước về đất đai; chế độ sử dụng các loại đất; quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; các thủ tục hành chính về quản lý và sử dụng đất đai - Thứ hai, QSDĐ là một quan hệ pháp luật về đất đai: Quan hệ pháp luật này được thể hiện trên ba phương diện sau: + Quan hệ giữa đại diện chủ sở hữu (Nhà nước) với người sử dụng đất được thể hiện trong mối quan hệ giữa các quyền: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt QSDĐ. Quyền của chủ sở hữu đối với đất đai là quyền mang tính tuyệt đối còn QSDĐ của người sử dụng đất chỉ là quyền phái sinh chịu sự lệ thuộc vào quyền sở hữu toàn dân về đất đai; + Quan hệ giữa những người sử dụng đất với nhau. Quan hệ này được thực hiện thông qua các giao dịch mang tính dân sự như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế QSDĐ ; + Quan hệ giữa người sử dụng đất với các cơ quan quản lý Nhà nước như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường; Phòng Tài nguyên và Môi trường và UBND các cấp trong việc: giao đất, cho thuê đất, cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất Dưới góc độ là một chế định pháp luật đất đai và một quan hệ pháp luật đất đai như được phân tích ở trên thì QSDĐ chính là một phương thức thực 15
- hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai bởi chủ sở hữu đất đai mà đại diện là nhà nước không cần thiết và cũng không có đủ điều kiện để trực tiếp thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng đất đai của mình mà việc thực hiện các quyền đó của chủ sở hữu được thực hiện chủ yếu một cách gián tiếp thông qua việc: Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất để các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình phải thực hiện trong quá trình sử dụng đất. Xây dựng, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Trao QSDĐ cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng thông qua các hình thức:giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ. Thông qua việc sử dụng đất của người sử dụng đất các ý tưởng, chủ trương, chính sách về sử dụng đất của nhà nước đã được “hiện thực hoá”. - Thứ ba, QSDĐ là một quyền năng chủ quan của chủ sở hữu và của người sử dụng đất. Theo nghĩa này, QSDĐ là cách xử sự của người sử dụng đất trong việc thực hiện các quyền mà Nhà nước trao cho họ. Những quyền chủ quan này xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật khách quan đã nói ở trên và do các quy phạm đó quyết định. Người sử dụng đất chỉ được thực hiện các quyền trong phạm vi mà pháp luật cho phép. Cụ thể, QSDĐ theo nghĩa chủ quan là tổng thể các quyền mà nhà nước trao cho người sử dụng đất để họ khai thác các thuộc tính có lợi của đất phục vụ cho mục tiêu nhất định của mình (ví dụ xây nhà, trồng lúa, hoa màu, nuôi cá ). QSDĐ theo quy định của Luật Đất Đai 2003, là một khái niệm bao trùm để chỉ các quyền sau đây của người sử dụng đất: Chuyển đổi; Chuyển nhượng; Cho thuê; Cho thuê lại; Thế chấp; Bảo lãnh; Góp vốn; Thừa kế; Tặng cho QSDĐ (09 quyền). Chủ sở hữu và người sử dụng đất đều có quyền này nhưng quyền của chủ sở hữu mang tính tuyệt đối còn quyền của người sử dụng đất mang tính phái sinh từ quyền của chủ sở hữu biểu hiện thông qua việc người sử dụng đất phải chịu 16
- sự điều chỉnh, giám sát của pháp luật và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc sử dụng đất. - Thứ tư, QSDĐ là một tài sản và là một tài sản đặc biệt, chính vì thế QSDĐ vừa là đối tượng trong quan hệ pháp luật đất đai vừa là đối tượng của quan hệ pháp luật dân sự (trong đó có quan hệ pháp luật thừa kế). Trong giai đoạn 1980 – 1992, do không được thừa nhận là tài sản vì thế QSDĐ không được coi là đối tượng chuyển dịch trong quan hệ pháp luật thừa kế nói riêng và trong giao lưu dân sự nói chung. Ngày nay, pháp luật quy định QSDĐ là tài sản vì thế QSDĐ được tham gia vào các giao lưu dân sự, kinh tế (trong đó có quan hệ thừa kế) chính vì vậy thế mạnh tiềm năng của đất đai được khai thác để phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và của cá nhân nói riêng. Tóm lại: QSDĐ là một bộ phận cấu thành quan trọng của pháp luật đất đai, có mối quan hệ khăng khít và phụ thuộc vào quyền sở hữu toàn dân về đất đai, là phương thức để nhà nước thực hiện sở hữu toàn dân về đất đai là cách thức để người sử dụng đất khai thác các thuộc tính có lợi của đất để phục vụ cho các nhu cầu của mình. 1.1.2.2 Những đặc điểm của QSDĐ Nếu quyền sở hữu toàn dân về đất đai là quyền độc lập và đầy đủ thì quyền sử dụng đất là quyền phụ thuộc và không đầy đủ. Tính phụ thuộc và không đầy đủ của QSDĐ thể hiện ở các khía cạnh sau: - Người sử dụng đất không có đủ tất cả các quyền năng của chủ sở hữu, người sử dụng đất chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng đất còn quyền định đoạt là thuộc về nhà nước. Người sử dụng đất không được tự mình quyết định mọi vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng đất 17
- mà chỉ được quyết định một số vấn đề còn cơ bản vẫn phải hành động theo ý chí của nhà nước: Ví dụ người sử dụng đất phải sử dụng đất theo đúng mục đích, không được tự ý thay đổi mục đích sử dụng đất - Về cơ bản, chỉ những người sử dụng đất theo hình thức giao đất có trả tiền sử dụng đất và thuê đất theo hình thức trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê hoặc đã trả trước tiền thuê đất nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 05 năm mới được pháp luật cho hưởng đầy đủ 09 quyền năng của người sử dụng đất. Ví dụ, theo quy định của Luật Đất Đai thì chỉ hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê mới có quyền chuyển đổi QSDĐ nông nghiệp trong cùng một xã, phường, thị trấn với hộ gia đình và cá nhân khác, còn các chủ thể sử dụng đất khác không được hưởng quyền này (Điều 113 Luật Đất Đai). Hoặc tổ chức kinh tế được nhà nước cho thuê đất theo hình thức trả tiền thuê đất hàng năm chỉ có quyền bán, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê mà không được chuyển nhượng, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ thuê (Điều 111 Luật Đất Đai). Như vậy phạm vi chủ thể có đầy đủ 09 quyền năng này bị hạn chế: không phải bất cứ người sử dụng đất hợp pháp nào cũng cũng có đầy đủ 09 quyền năng của người sử dụng đất. Tóm lại, cho dù có mở rộng đến đâu thì QSDĐ cũng chỉ là quyền phái sinh từ quyền sở hữu, chịu sự lệ thuộc vào quyền sở hữu và cuối cùng quyền quyết định, định đoạt tối cao vẫn thuộc Nhà nước, đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Chính vì thế chỉ đặt ra vấn đề thừa kế đối với QSDĐ (mà không là thừa kế đất đai). 1.1.3 Khái niệm thừa kế QSDĐ 18
- Di sản chính là tài sản của người chết để lại, QSDĐ cũng được coi là tài sản, nhưng là một loại tài sản đặc biệt, điều đó xuất phát từ tính chất đặc biệt của đất đai, vì vậy, khi một người chết mà có QSDĐ để lại, sau khi thanh toán xong các nghĩa vụ, thì QSDĐ đó được coi là di sản và khi đó làm xuất hiện quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ. Vì thế, thừa kế QSDĐ chính là sự chuyển dịch QSDĐ của người chết sang cho người còn sống tại thời điểm mở thừa kế theo trình tự thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật. Thừa kế QSDĐ là một chế định mới, lần đầu tiên xuất hiện cùng với việc ban hành Luật đất đai 1993 đây cũng chính là một đặc thù của pháp luật Việt Nam bởi vì nếu so sánh với pháp luật của phần lớn các nước trên thế giới, chúng ta cũng sẽ không tìm thấy khái niệm thừa kế QSDĐ. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thừa kế QSDĐ có thể được xem xét dưới các khía cạnh sau: - Trước hết, thừa kế QSDĐ là một trong những nội dung của quyền sử dụng đất: QSDĐ mà Nhà nước trao cho người sử dụng đất, để khai thác các thuộc tính có lợi của đất phục vụ cho nhu cầu và lợi ích của bản thân và xã hội, gồm có 09 quyền năng. Trong đó thừa kế QSDĐ là một quyền trong số các quyền đó. - Nếu xem xét dưới góc độ là một chế định pháp luật, thừa kế QSDĐ được hiểu là tổng thể các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển quyền sử dụng đất từ người đã chết sang cho những người còn sống theo trình tự thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật. - Dưới góc độ là một quan hệ pháp luật dân sự, thừa kế QSDĐ là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển quyền sử dụng đất từ người chết sang cho người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật. Với cách hiểu này thì thừa kế QSDĐ bao gồm ba bộ phận : 19
- Chủ thể: người để lại di sản là QSDĐ; người được thừa kế quyền sử dụng đất và những người có liên quan khác. Khách thể: là hành vi thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ. Ví dụ: hành vi lập di chúc của người sử dụng đất nhằm định đoạt quyền sử dụng đất của mình; hành vi nhận di sản (quyền sử dụng đất), từ chối nhận di sản (quyền sử dụng đất) của người thừa kế; hành vi công bố di chúc của người được gửi giữ di chúc Các hành vi nói trên của các chủ thể bao giờ cũng hướng tới những lợi ích vật chất hoặc một giá trị tinh thần nhất định. Những lợi ích vật chất hoặc giá trị tinh thần đó là đối tượng cụ thể của quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ hay “khách thể của khách thể” trong quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ. Nội dung: là tổng thể các quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể trong quan hệ thừa kế quyền sử dụng đất: + Quyền dân sự: là cách xử sự phù hợp với các quy định của pháp luật do các chủ thể của quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ thực hiện: ví dụ Quyền của người để lại di sản trong việc: Lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng thừa kế; giao nghĩa vụ cho những người thừa kế ; Quyền của những người thừa kế trong việc: thoả thuận thanh toán, phân chia di sản; từ chối hưởng di sản; quyền khởi kiện để xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác + Nghĩa vụ dân sự: là cách xử sự bắt buộc của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ: ví dụ: nghĩa vụ của những người thừa kế trong việc thanh toán các khoản nợ của người chết trong phạm vi di sản thừa kế; thực hiện các nhiệm vụ do người lập di chúc giao cho Quyền dân sự và Nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định hoặc có thể do người để lại di sản xác lập hoặc do sự thoả thuận của những người thừa kế. 20
- Tuy nhiên, trong trường hợp Quyền dân sự và Nghĩa vụ dân sự do người để lại di sản xác lập hoặc do những người thừa kế thoả thuận thì sự xác lập và thoả thuận đó không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. 1.2 Những đặc điểm của thừa kế QSDĐ Chế định thừa kế QSDĐ vừa tuân theo các quy định về thừa kế tài sản nói chung lại vừa mang những nét đặc thù riêng, bởi đất đai là một tài sản đặc biệt, tài sản này không thuộc sở hữu của người để lại thừa kế mà thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Nhà nước chỉ trao cho cá nhân, tổ chức QSDĐ và vì thế chỉ đặt ra vấn để thừa kế đối với QSDĐ mà không là thừa kế đất đai. 1.2.1 Những đặc điểm chung của thừa kế QSDĐ Thừa kế QSDĐ cũng là một dạng của quan hệ thừa kế tài sản, vì thế thừa kế QSDĐ cũng phải tuân theo các quy định chung về thừa kế tài sản trong BLDS về hình thức thừa kế (thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc); hàng thừa kế, thời điểm mở thừa kế, cụ thể là: - Hình thức thừa kế Thừa kế quyền sử dụng đất được thực hiện dưới hai hình thức: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân được pháp luật bảo vệ, đối với các tài sản thuộc sở hữu của mình, cá nhân có toàn quyền quyết định vì vậy thừa kế theo di chúc bao giờ cũng được ưu tiên trước bởi nó là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản và pháp luật tôn trọng sự định đoạt đó. Tuy nhiên chỉ trong trường hợp không có di chúc hoặc các trường hợp khác như được quy định tại Điều 675 BLDS thì pháp luật mới có sự can thiệp bằng các quy định về thừa kế theo pháp luật. 21
- - Ngƣời để lại di sản QSDĐ Người để lại di sản QSDĐ: chỉ có thể là cá nhân, cá nhân đó có thể là người chưa thành niên, người đang bị tước quyền công dân; người mất năng lực hành vi đều là những người có thể để lại di sản thừa kế. Đối với pháp nhân hoặc tổ chức, tài sản của pháp nhân, tổ chức dùng để duy trì hoạt động của nó vì thế không có cá nhân nào có quyền định đoạt tài sản của pháp nhân, tổ chức. Khi pháp nhân, tổ chức giải thể hoặc phá sản thì tài sản được giải quyết theo quy định của pháp luật về giải thể, phá sản. Vì vậy khái niệm “Người để lại di sản” không thể là pháp nhân. - Ngƣời thừa kế quyền sử dụng đất: Người thừa kế QSDĐ có thể là cá nhân (thừa kế theo pháp luật) nhưng cũng có thể là cá nhân hoặc tổ chức (thừa kế theo di chúc). Nếu là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Nếu là tổ chức thì phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. - Thực hiện các nghĩa vụ tài sản do ngƣời chết để lại Người thừa kế nhận di sản là quyền sử dụng đất bên cạnh việc có quyền hưởng di sản QSDĐ nhưng cũng phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Như vậy, pháp luật thừa kế hiện hành dành cho các chủ thể quyền tự định đoạt cao nhất khi quy định những người thừa kế có thể thoả thuận về vấn đề trả nợ với nhau và với chủ nợ. - Quyền từ chối nhận di sản thừa kế Người thừa kế quyền sử dụng đất bên cạnh việc có quyền được hưởng di sản thừa kế, họ cũng có quyền từ chối nhận di sản thừa kế. Đây chính là quyền tự định đoạt của người nhận thừa kế. Việc từ chối có thể chỉ là từ chối hưởng di sản theo di chúc còn không từ chối hưởng di sản theo pháp luật và ngược lại. Mặt khác có thể từ chối hưởng di sản toàn bộ (cả theo di chúc và cả 22