Luận văn Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế

pdf 91 trang vuhoa 24/08/2022 6420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_thu_tuc_xet_xu_so_tham_cac_vu_an_hinh_su_ly_luan_va.pdf

Nội dung text: Luận văn Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔN THẤT CẨM ĐOÀN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Lý luận và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên- Huế LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÀNH LUẬT
  2. HÀ NỘI- 2002 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔN THẤT CẨM ĐOÀN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Lý luận và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên- Huế Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số : 50512 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÀNH LUẬT Người hướng dẫn khoa học: GS - TS Đào Trí Úc ,Viện trưởng Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật HÀ NỘI- 2002
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tố tụng hình sự, hoạt động xét xử nói chung và xét xử sở thẩm nói riêng được coi là giai đoạn đặc biệt quan trọng, bởi lẽ để xác định một người có tội và phải chịu hình phạt, người đó phải được đưa ra xét xử trước phiên tòa; Tòa án là cơ quan duy nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyền quyết định một người có tội hay không có tội. Chính vì vậy, Điều 72 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Hoạt động xét xử của Tòa án là sự thể hiện chất lượng, uy tín của hệ thống các cơ quan tư pháp trong việc điều tra, truy tố, xét xử và thay mặt Nhà nước đưa ra những phán quyết cuối cùng trong việc giải quyết vụ án hình sụ. Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, luật tố tụng hình sự quy định trình tự xét xử vụ án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, việc xét xử vụ án hình sự có thể phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ xét xử sơ thẩm, đến xét xử phúc thẩm khi có những điều kiện nhất định. Trường hợp phát hiện có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án hoặc khi phát hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đó thì bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vẫn có thể được đưa ra xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Khác với các hình thức xét xử khác, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là bắt buộc đối với bất kỳ vụ án hình sự nào. Thực tiễn cho thấy trong tổng số các vụ án hình sự mà ngành Tòa án đã giải quyết thì số lượng án sơ thẩm chiếm tỉ lệ lớn. Tại tỉnh Thừa Thiên-
  4. 2 Huế, hàng năm, các cấp Tòa án phải thụ lý, giải quyết khoảng từ 500 đến 600 vụ án hình sự, trong đó các vụ án được xét xử sơ thẩm chiếm trên 80%. Nếu việc xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự không tuân thủ các quy định của thủ tục tố tụng hình sự, thì sẽ dẫn đến việc xét xử của Tòa án bị sai sót, gây ra những hậu quả rất xấu, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, lý luận và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên- Huế" mang tính cấp thiết không những về mặt lý luận mà còn là đòi hỏi thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm tại tỉnh Thừa Thiên - Huế, góp phần phục vụ thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu và tính mới của đề tài Trong thời gian qua, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã được một số nhà luật học nước ta quan tâm nghiên cứu. Thạc sĩ Đinh Văn Quế có công trình: “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000); Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả nói trên chỉ mới đề cập đến những vấn đề lý luận chung về thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự hoặc phân tích các quy định của pháp luật tố tụng thực định về các thủ tục đó. Tác giả Đinh Văn Quế nghiên cứu về “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”; Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án ở các địa phương nói chung và ở tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, lý luận và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên- Huế" là phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm của địa phương trong tình hình hiện nay.
  5. 3 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích Mục đích của luận văn này là làm sáng tỏ một cách có hệ thống và toàn diện về mặt lý luận những vấn đề về thủ tục xét xử sơ thẩm, đánh giá đúng thực trạng áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp ở tỉnh Thừa Thiên Huế, xác định đúng nguyên nhân của những thiếu sót trong việc áp dụng và trên cơ sở đó đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp trong cả nước nói chung và ở địa phương nói riêng. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra cho mình các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án. - Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án. - Phân tích thực trạng áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án các cấp của tỉnh Thừa Thiên Huế để xác định sơ hở, thiếu sót, nguyên nhân của chúng. Trên cơ sở đó, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về thủ tục xét xử sơ thẩm, đồng thời phân tích thực tiễn áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án các cấp tỉnh Thừa Thiên Huế.
  6. 4 Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh tại Thừa Thiên Huế, trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2000. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng về Nhà nước và pháp luật; những thành tựu của các khoa học: triết học, luật tố tụng hình sự, luật hình sự, tội phạm học Luận văn được trình bày trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án, hồ sơ xét xử sơ thẩm các vụ án do các Tòa án tỉnh Thừa Thiên Huế thụ lý. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn đặc biệt coi trong các phương pháp hệ thống, lịch sử, lôgíc, tổng hợp, so sánh, dự báo, kết hợp với phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia để chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn trong áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam đề cập riêng đến việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về thủ tục xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp tỉnh Thừa Thiên Huế, cũng như các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng các thủ tục đó. Trong luận văn này, với sự phân tích một cách khoa học, tác giả đã cố gắng: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án.
  7. 5 - Đánh giá đúng thực trạng áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án các cấp tỉnh Thừa thiên Huế. - Góp phần giải quyết những vướng mắc về việc áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án trong việ xử lý các vụ án hình sự tại địa phương. - Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án trên địa bàn tỉnh nhà. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Những kết quả nghiên cứu và các luận điểm được đưa ra trong luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với hoạt động xét xử nói chung, xét xử sơ thẩm của Tòa án nói riêng tại tỉnh Thừa Thiên Huế, ở chỗ: - Về mặt lý luận, luận văn này là công trình nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện về thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án. - Về mặt thực tiễn, luận văn này đề cập việc phân tích thực trạng áp dụng các thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án các cấp tỉnh Thừa Thiên Huế, góp phần giải quyết các vướng mắc mà thực tiễn xử lý các vụ án hình sự tại địa phương gặp phải. - Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng với tính chất là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập cho cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cho giảng viên và sinh viên trong các trường đào tạo đại học chuyên ngành luật. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn có 88 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương.
  8. 6 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1 KHÁI NIỆM, TÍNH CHẤT, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm Ngay từ thời cổ Hy Lạp, La Mã, người ta đã khẳng định: ở đâu có pháp luật, thì ở đó phải có một hệ thống bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Sự bảo đảm đó, trước hết là phải bằng hoạt động của cơ quan nhà nước có chức năng xử lý các hành vi vi phạm các quy định pháp luật nhà nước. Hay nói cách khác, sự bảo đảm đó chính là hoạt động xét xử của cơ quan chức năng trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện. Ở nước ta, Hiến pháp và Luật tổ chức Toà án nhân dân đã quy định rõ Toà án là cơ quan Nhà nước duy nhất có chức năng xét xử; hoạt động xét xử là nhiệm vụ quan trọng và chủ yếu của Toà án. Yêu cầu của việc xét xử là phải xác định và làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Trên cơ sở của sự thật khách quan đó, Toà án nhân danh Nhà nước, đưa ra phán quyết bằng bản án hoặc quyết định. Với chức năng, nhiệm vụ là cơ quan xét xử của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống Toà án nhân dân trở thành công cụ đắc lực của chuyên chính vô sản Việt Nam; cùng với các cơ quan khác như Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, các cơ quan và tổ chức bổ trợ tư pháp, hoạt động của Toà án bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Toà án là nơi biểu hiện tập trung nhất, cao nhất của quyền tư pháp. Tại Toà
  9. 7 án, các kết quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa, giám định được đưa ra xem xét và sử dụng một cách công khai thông qua các thủ tục tố tụng, để từ đó đưa ra những phán xét cuối cùng. Toà án là nơi thể hiện công lý, sự đối xử bình đẳng và công bằng trong tất cả các mối quan hệ; Toà án cũng là nơi thể hiện chất lượng, trình độ hoạt động và uy tín của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống tư pháp của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính của mình, bằng phiên toà, Toà án trước hết phải xét rồi mới xử. Xét chính là việc xác minh lại sự việc, hành vi đã bị truy tố thông qua việc kiểm chứng, một cách khách quan và thận trọng, các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra cũng như mới được xuất trình tại phiên toà, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, thông qua việc tranh tụng tại phiên toà. Mục đích của việc xét chính là để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Xử chính là việc Toà án đưa ra phán quyết của mình, kết luận bị cáo có phạm tội hay không, nếu có thì phạm tội gì, phạm vào điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, áp dụng hình phạt đối với bị cáo cũng như giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại và các vấn đề cần thiết khác. Nặng tin vào hồ sơ, có định kiến sau khi đọc hồ sơ, xem nhẹ việc xác minh sự thật khách quan tại phiên toà là biểu hiện của thái độ xử mà không xét. Nói tóm lại: xét xử là “hoạt động của Toà án tại phiên toà để xem xét các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Toà án” [ 25, Tr. 482 ]. Đây là một dạng đặc biệt của hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do Toà án, mà cụ thể là Hội đồng xét xử tiến hành công khai trước sự giám sát của đông đảo quần chúng nhân dân, theo một trình tự và thủ tục hết sức chặt chẽ được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Các trình tự và thủ tục này, một mặt bảo đảm sự nghiêm túc trong hoạt động xét xử ở chốn pháp đình, mặt khác thể hiện bản chất dân chủ, bình đẳng và công minh của pháp luật Xã hội chủ nghĩa.
  10. 8 Để bảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án được chính xác, công minh và có tính thuyết phục cao, nhiều nước trên thế giới quy định việc xét xử của Toà án bao gồm nhiều cấp xét xử . Ở nước ta cũng vậy, các vụ án nói chung cũng như các vụ án hình sự nói riêng đều được giải quyết theo hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt thì vụ án có thể được giải quyết theo những trình tự và thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm. Mỗi vụ án hình sự, sau khi Cơ quan điều tra đã thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm và Viện kiểm sát đã ra bản cáo trạng truy tố bị can ra trước Toà án thì hồ sơ vụ án được chuyển đến Toà án để xét xử . Khi Toà án mở phiên toà lần đầu để xét xử vụ án thì đó chính là xét xử theo trình tự sơ thẩm. Nếu sau đó, trong thời hạn luật định, bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị thì vụ án sẽ được Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại một lần nữa theo thủ tục xét xử phúc thẩm. Như vậy, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chính là lần xét xử đầu tiên trong hoạt động xét xử của Toà án đối với một vụ án hình sự. 1.1.2. Tính chất, vị trí của xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam Như đã nói ở phần 1.1.1, việc xét xử sơ thẩm chỉ được tiến hành khi Cơ quan điều tra đã điều tra vụ án; Viện kiểm sát đã truy tố bị can ra trước Toà án bằng bản cáo trạng. Chính vì vậy xét xử sơ thẩm được xác định như là một công đoạn trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Do căn cứ để xét xử ở mỗi cấp cũng có sự khác nhau nên tính chất xét xử ở mỗi cấp cũng có sự khác nhau. Nếu như tính chất của xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm là việc xét lại bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị; tính chất của xét xử phúc thẩm là việc xét lại những bản án hoặc quyết định của cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị; thì tính chất của xét xử sơ thẩm là
  11. 9 việc Toà án lần đầu tiên điều tra, xem xét một cách khách quan, toàn diện và công khai tại phiên toà đối với tất cả các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều tra, cùng với các tài liệu, chứng cứ được đưa ra tại phiên toà, nhằm xác định chính xác sự thật về vụ án, trên cơ sở đó Toà án đưa ra những quyết định giải quyết vụ án (bằng một bản án hoặc một quyết định). Nếu như bản kết luận điều tra và bản cáo trạng chỉ là kết luận sơ bộ của Cơ quan điều tra và của Viện kiểm sát để trên cơ sở đó đề nghị Toà án xét xử bị caó thì bản án của Toà án mới là kết luận chính thức và công khai bị cáo có tội hay không có tội, nếu có tội thì bị cáo phạm tội gì, theo quy định tại điều khoản nào của Bộ luật hình sự; Toà án có áp dụng hình phạt đối với bị cáo hay không, nếu áp dụng hình phạt thì là loại hình phạt gì; đồng thời Toà án quyết định các biện pháp tư pháp đối với bị cáo cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra hoặc kiến nghị với cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội sửa chữa những thiếu sót trong việc quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế và quản lý con người; Nếu có căn cứ, Toà án còn có thể khởi tố vụ án đối với người phạm tội mới hoặc hành vi phạm tội mới, v.v Nói cách khác, tính chất của xét xử sơ thẩm chính là việc Toà án phải xem xét và quyết định một cách công khai, toàn diện tất cả các vấn đề đặt ra của vụ án, theo yêu cầu của pháp luật tố tụng hình sự. Xuất phát từ tính chất như đã nêu trên nên hoạt động xét xử sơ thẩm có một vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Xét xử sơ thẩm được xác định như là một công đoạn đầu tiên trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Hay nói cách khác, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu cho toàn bộ hoạt động xét xử của Toà án. Bởi vậy, Bộ luật tố tụng hình sự đã giành một phần lớn, gồm 7 chương (từ chương XV đến chương XXI - từ Điều 145 đến Điều 203) và Điều 61 để quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm.
  12. 10 Với ý nghĩa là cuộc điều tra công khai, tại phiên toà sơ thẩm, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập được đều được đưa ra xem xét một cách công khai; những người tiến hành tố tụng được nghe trực tiếp lời khai, lời trình bày của người tham gia tố tụng; những người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai, lời trình bày của nhau, họ được đối chất, tranh luận và chất vấn một cách công khai về những vấn đề mà tại cơ quan điều tra họ chưa có điều kiện thực hiện. Tại phiên toà, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ; bị cáo, người bị hại đều bình đẳng với nhau, thậm chí còn bình đẳng cả với đại diện viện kiểm sát trong việc xuất trình chứng cứ, tranh luận và đưa ra yêu cầu. Do đó, có thể nói xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao của quyền tư pháp, đỉnh cao của tính dân chủ trong hoạt động tư pháp. Như đã nói, xét xử sơ thẩm là bước xét xử lần một của nguyên tắc hai cấp xét xử, nhưng trong thực tế thì không phải vụ án hình sự nào cũng trải qua hai cấp xét xử. Việc xét xử tiếp một vụ án ở cấp phúc thẩm chỉ được thực hiện khi bản án của cấp sơ thẩm bị kháng cáo hoặc bị kháng nghị. Bởi vậy, nếu việc xét xử sơ thẩm là chính xác, khách quan và toàn diện, tuân thủ những quy định của pháp luật nói chung và luật tố tụng hình sự nói riêng thì tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm sẽ giảm xuống, phần lớn các vụ án hình sự sẽ được giải quyết xong ngay khi đã được xét xử sơ thẩm. Như vậy, sẽ hạn chế được lượng án mà các toà án cấp trên phải giải quyết, tiết kiệm được về thời gian cũng như tiền bạc cho việc giải quyết một vụ án hình sự, hiệu quả hoạt động của toà án cũng như của bộ máy Nhà nước được nâng cao. Ngoài ra, xét xử sơ thẩm còn có vai trò rất lớn trong việc giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa tội phạm. Phiên toà xét xử sơ thẩm thường có đầy đủ những người tham gia tố tụng và có nhiều người khác tham dự. Nên,
  13. 11 với phiên toà công khai có văn hoá pháp luật cao, với bản án công bằng, thì sẽ có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục công dân ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quy tắc đời sống xã hội, bảo vệ pháp chế. 1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.2.1. Các nguyên tắc, yêu cầu của các quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm Trong hệ thống các quy phạm tố tụng hình sự, nguyên tắc tố tụng hình sự chiếm một vị trí quan trọng. Nó là những quy định pháp luật cơ bản, chung nhất, mang tính chỉ đạo được ghi nhận trong Hiến pháp (nguyên tắc Hiến định), trong Bộ luật tố tụng hình sự (nguyên tắc luật định) và các văn bản khác, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Các nguyên tắc tố tụng hình sự thể hiện bản chất của tố tụng hình sự, là cơ sở cho mọi hoạt động và hành vi tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã thể hiện khá đầy đủ các nguyên tắc tiến bộ, dựa trên nền tảng chung là dân chủ và pháp chế XHCN. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, các quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm đều được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Qua nghiên cứu thủ tục xét xử sơ thẩm, chúng tôi thấy những nguyên tắc, yêu cầu cơ bản đó là: Nguyên tắc pháp chế Nguyên tắc này được quy định tại Điều 2 Bộ luật tố tụng hình sự: “ Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này”
  14. 12 Trong tố tụng hình sự, không chỉ ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, mà trong tất cả các giai đoạn tố tụng, nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải triệt để tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự khi thực hiện các hoạt động, các hành vi tố tụng. Thực tiễn cho thấy hầu hết các vụ án bị xử oan sai là do trong quá trình xét xử vụ án, nguyên tắc này đã không được tuân thủ một cách triệt để. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một nguyên tắc và yêu cầu cơ bản, có tính chất xuyên suốt của thủ tục tố tụng hình sự Việt Nam. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 3 Bộ luật tố tụng hình sự là: Khi tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, phải tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu thấy có vi phạm pháp luật hoặc không cần thiết nữa. Nội dung nguyên tắc này nhấn mạnh đến trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, mà ở trong giai đoạn xét xử sơ thẩm chính là trách nhiệm của thẩm phán và hội thẩm nhân dân, vì những người này khi thực hiện hành vi tố tụng sẽ tác động trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, tính hợp pháp và cần thiết của những biện pháp đã được áp dụng nhất là đối với biện pháp tạm giam, phải được thường xuyên kiểm tra, nếu thấy không còn cần thiết nữa thì phải huỷ bỏ hoặc thay đổi. Việc thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp đã áp dụng phải xuất phát từ ý thức tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.
  15. 13 Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật Đây là nguyên tắc Hiến định, được quy định tại Điều 52 Hiến pháp năm 1992. Nguyên tắc này được thể hiện trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng như sau: - Mọi người, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội nếu phạm tội thì đều bị xử lý theo pháp luật. - Mọi người, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội nếu là người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng thì đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự, nội dung của quyền bình đẳng trước Toà án là Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu và tranh luận trước Toà án. Hiện nay, do nhận thức chưa đầy đủ về quyền này nên ở một số phiên toà đã xảy ra tình trạng Hội đồng xét xử, không tôn trọng việc bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng đưa ra các chứng cứ, yêu cầu; tình trạng thiếu sự tôn trọng lẫn nhau, gây mất trật tự tại phiên toà. Nguyên tắc bảo đảm việc tham gia tố tụng hình sự của các tổ chức xã hội và công dân. Theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự thì Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ, các tổ chức xã hội khác và công dân có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức xã hội và công dân tham gia tố tụng hình sự .
  16. 14 Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nguyên tắc này được thể hiện ở các nội dung như: - Đối với những vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử là người chưa thành niên thì thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩn nhân dân là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; đại diện của nhà trường hoặc tổ chức xã hội, cha mẹ hoặc người thân của bị cáo phải được triệu tập đến tham gia phiên toà để phát biểu ý kiến về những vấn đề có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. - Khi phát hiện có những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các tổ chức xã hội và công dân có quyền kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan này phải xem xét, giải quyết và trả lời cho các tổ chức xã hội và công dân đã kiến nghị biết. Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự với nội dung: Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nguyên tắc này được thể hiện là người bị Viện kiểm sát truy tố và Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử, hoặc ngay cả khi đã tuyên án và kết án, nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì họ chưa bị coi là người có tội, họ còn đầy đủ các quyền của một công dân, vì vậy những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng không được có định kiến, đối xử với họ như một kẻ có tội. Các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện để bị cáo được thực hiện các quyền của người công dân, bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo được sử dụng các biện pháp do luật định để gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
  17. 15 Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, việc xác định sự thật khách quan của vụ án không chỉ là mục đích của hoạt động tố tụng mà nó còn thể hiện toàn bộ nội dung, bản chất của quá trình chứng minh tội phạm. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự, là một nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình tố tụng ở tất cả các giai đoạn. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, nguyên tắc này yêu cầu người tiến hành tố tụng, mà cụ thể là Hội đồng xét xử, phải xác định nội dung vụ án: đúng với thực tế khách quan, tức là phải nêu đúng sự việc phạm tội, không thêm bớt, không nêu những nhận xét, đánh giá của cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng; toàn diện, tức phải xem xét, đánh giá các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm ; đầy đủ, tức không bỏ sót tình tiết nào của vụ án. Trong thực tiễn, không ít trường hợp, do không thực hiện đúng nguyên tắc này, việc xem xét, đánh giá chứng cứ của thẩm phán, hội thẩm nhân dân mang tính chủ quan, tuỳ tiện nên dẫn đến vụ án bị xử oan, sai. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.” Nguyên tắc này nhằm bảo đảm cho bị cáo sử dụng tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ mình trước toà án. Những người tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện cho bị cáo hoặc người bào chữa của bị cáo được sử dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để chứng minh bị cáo vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
  18. 16 Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo ở giai đoạn xét xử sơ thẩm được coi như tập trung nhất về quyền bào chữa. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng Theo điều 14 Bộ luật tố tụng hình sự thì thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, điều tra viên, thư ký phiên toà, người phiên dịch, người giám định không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hành nhiệm vụ của mình. Để nguyên tắc này được thực hiện, thủ tục tố tụng hình sự quy định cụ thể những trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng ( như việc thay đổi thẩm phán hoặc hội thẩm nhân dân quy định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự, ) Nguyên tắc xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Việc xét xử ở Toà án có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán” Nguyên tắc xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia được coi là một nguyên tắc dân chủ và là việc cụ thể hoá nguyên tắc “ bảo đảm việc tham gia phiên toà của các tổ chức xã hội và công dân”, nhưng là việc tham gia trực tiếp vào việc xét xử, có quyền như thẩm phán. Nguyên tắc này thể hiện tính nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà án, là sự kết hợp giữa kiến thức pháp lý của thẩm phán và sự hiểu biết của hội thẩm nhân dân về thực tế tâm tư của nhân dân Nguyên tắc này chỉ áp dụng cho giai đoạn xét xử và cũng không phải là nguyên tắc bắt buộc đối với tất cả các giai đoạn xét xử mà chỉ ở giai đoạn xét xử sơ thẩm thì nó mới là nguyên tắc bắt buộc.
  19. 17 Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Điều 17 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” Độc lập xét xử không chỉ là nguyên tắc xét xử mà còn là nguyên tắc hiến định, nhằm bảo đảm việc xét xử của Toà án không bị chi phối bởi bất cứ sự tác động nào khi ra bản án hoặc những quyết định. Nội dung của nguyên tắc này là thẩm phán và hội thẩm nhân dân hoàn toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong khi tiến hành chức năng xét xử các vụ án nói chung và vụ án hình sự nói riêng. Các cơ quan, tổ chức xã hội hoặc bất cứ ai khác không được can thiệp vào hoạt động xét xử của Toà án. Trong thực tiễn, không ít trường hợp, có những cá nhân tìm cách tác động, gây áp lực để tác động đến hoạt động xét xử của thẩm phán, hội thẩm nhân dân, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc này. Sự sai phạm này, trách nhiệm trước hết là của thẩm phán và hội thẩm nhân dân vì họ tự mình đã không đấu tranh và không thực hiện đúng nguyên tắc này. Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số Nguyên tắc này được quy định tại Điều 18 Bộ luật tố tụng hình sự: “Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số” Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số là một nguyên tắc thật sự dân chủ trong hoạt động xét xử và có quan hệ mật thiết với các nguyên tắc khác như: nguyên tắc “ xét xử có hội thẩm tham gia”, nguyên tắc “ thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Thực hiện một nguyên tắc này cũng tức là bảo đảm cho nguyên tắc khác được thực hiện. Nguyên tắc này được bảo đảm bằng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thành phần hội đồng xét xử ở cấp sơ thẩm, về thủ tục nghị án.