Luận văn Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản – những vấn đề lí luận và thực tiễn tại Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản – những vấn đề lí luận và thực tiễn tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thu_tuc_phuc_hoi_trong_phap_luat_pha_san_nhung_van.pdf
Nội dung text: Luận văn Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản – những vấn đề lí luận và thực tiễn tại Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐỨC THƢỞNG THỦ TỤC PHỤC HỒI TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN – NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2013
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐỨC THƢỞNG THỦ TỤC PHỤC HỒI TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN – NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Huy Cƣơng Hà Nội – 2013
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tự do cạnh tranh và phá sản là những thuộc tính vốn có của kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào không đáp ứng được những đòi hỏi nghiệt ngã của thương trường, của sức ép cạnh tranh sẽ bị đào thải. Để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả, rủi ro mà những doanh nghiệp này có thể gây ra cho nền kinh tế, mỗi quốc gia đều phải xây dựng và thực thi một cơ chế phá sản có hiệu quả. Tuy nhiên, do tính chất nhạy cảm và mức độ ảnh hưởng rộng tới nhiều đối tượng khác nhau trong đời sống kinh tế nên cơ chế phá sản luôn đòi hỏi sự can thiệp mềm dẻo, linh hoạt của Nhà nước, phù hợp với những yêu cầu thực tiễn mà hoạt động kinh doanh đặt ra. Tuyên bố phá sản một con nợ chỉ là giải pháp cuối cùng nếu việc tái cấu trúc lại con nợ không đạt được kết quả thông qua thủ tục phá sản. Trong hệ thống pháp luật về phá sản hiện đại, thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ là một nội dung quan trọng. Sự ra đời của thủ tục phục hồi nhằm đem lại cho con nợ đang lâm vào tình trạng phá sản những điều kiện và cơ hội tiếp tục kinh doanh. Điều này không chỉ cứu vãn doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thoát khỏi tình trạng bị thanh lý tài sản, phục hồi lại được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà còn có thể đảm bảo quyền lợi cho chính bản thân các chủ nợ cũng như duy trì trật tự, ổn định xã hội, duy trì công ăn việc làm cho người lao động trong doanh nghiệp mắc nợ. Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Pháp luật phá sản Việt Nam cũng đang từng bước được hoàn thiện để phù hợp với công cuộc hội nhập này. Lần đầu tiên được ban hành vào năm 1993, Luật phá sản doanh nghiệp cũng đã có những quy định khá chi tiết, thể hiện đầy đủ nội dung của thủ tục phục hồi nhằm cứu vãn doanh nghiệp gặp khó
- khăn về tài chính trong hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng phá sản. Sự thay thế của Luật phá sản 2004 cho Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 với việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của đạo luật này đã làm cho pháp luật phá sản ngày càng phát triển hoàn thiện hơn và thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ tiến thêm một bước mới đã khuyến khích nhiều hơn nữa việc tham gia áp dụng thủ tục này. Có thể nói sự ra đời của Luật phá sản 2004 còn nhằm mục đích đưa đạo luật này phát triển theo chiều hướng phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ. Tuy nhiên, thực tế thi hành Luật phá sản trong thời gian qua đã cho chúng ta thấy nhiều điểm bất cập, nhiều quy định không phù hợp với thực tiễn, việc phục hồi doanh nghiệp đạt hiệu quả thấp. Từ những lý do kể trên, tác giả luận văn mạnh dạn lựa chọn đề tài “Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình với mục đích góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Đây là một chủ đề nghiên cứu vừa có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận vừa có tính thực tiễn cao ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã từ lâu, việc nghiên cứu về phá sản và pháp luật phá sản không còn là một hướng nghiên cứu xa lạ ở Việt Nam. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu công phu về chùm chủ đề này được công bố, trong đó có những công trình tiêu biểu như: “Giáo trình Luật Kinh tế”, “Giáo trình Luật thương mại” của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Mở Hà Nội, Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, và các sách tham khảo như: “Pháp luật phá sản của Việt Nam 2005” của PGS.TS Dương Đăng Huệ; “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004” do Bộ Tư pháp xây dựng; hoặc các bài viết như: “Đi tìm triết lý của Luật phá sản” của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa; “Luật phá sản năm 2004 với việc cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam” của PGS.TS Dương Đăng Huệ; “Một số ý
- kiến về dự thảo Luật phá sản (sửa đổi)” của PGS.TS Dương Đăng Huệ - Cao Đăng Vinh ; cho tới các khóa luận tốt nghiệp bậc cử nhân, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công. Tuy nhiên, các công trình và bài viết này chỉ đề cập đến những nội dung cơ bản của thủ tục phá sản nói chung mà chưa nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện và hệ thống về các khía cạnh pháp lý của thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ với tư cách là một thủ tục độc lập cũng như đánh giá toàn diện thực trạng của các quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thủ tục phục hồi. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích chính của luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện các vấn đề lý luận về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, thực trạng quy định và áp dụng pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh để trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ. Để thực hiện được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về thủ tục phục hồi thương nhân vỡ nợ trong pháp luật phá sản; Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về thủ tục phục hồi đối với thương nhân vỡ nợ; Nghiên cứu so sánh pháp luật phá sản của một số quốc gia trên thế giới về thủ tục phục hồi; Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật phá sản ở nước ta hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một Luật văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học, tác giả Luận văn chỉ tập trung khai thác và nghiên cứu đề tài ở phạm vi những vấn đề
- pháp lý liên quan đến thủ tục phục hồi thương nhân vỡ nợ ở Việt Nam với tính chất là một phần của thủ tục phá sản sau khi đã có quyết định mở thủ tục phá sản của tòa án. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin. Bên cạnh đó, Luận văn cũng tiếp thu những tinh thần và nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam. Cùng với việc tổng hợp, phân tích, đánh giá các thông tin khác nhau, những bài học rút ra từ thực tiễn và so sánh đối chiếu với các quan điểm lý luận đã có để giải quyết các vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đã đặt ra. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn bao gồm 3 chương.
- CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THñ TỤC PHỤC HỒI TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN HIỆN ĐẠI 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của thủ tục phục hồi trong thủ tục phá sản 1.1.1. Khái niệm thủ tục phục hồi Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế được Nhà nước khuyến khích thành lập và tạo điều kiện hoạt động một cách bình đẳng và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không thể tránh khỏi hiện tượng, bên cạnh những doanh nghiệp được thành lập và kinh doanh có hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm và công ăn việc làm cho người lao động, góp phần cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội, còn có một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính của mình khi đến hạn. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng tới chính bản thân doanh nghiệp, hợp tác xã đó mà nó còn có thể gây thiệt hại tới nhiều chủ thể khác, đó là quyền lợi của các chủ nợ không được bảo đảm, lợi ích của người lao động bị xâm phạm và đặc biệt sự đổ vỡ của các doanh nghiệp lớn hoặc những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực “nhạy cảm” như tài chính, tín dụng, bảo hiểm thì còn có thể kéo theo những hệ quả rất xấu cho nền kinh tế. Trước thực trạng đó, để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, hạn chế các thiệt hại cho người lao động và để duy trì sự ổn định của nền kinh tế, hầu hết các cước trên thế giới đều có các quy định pháp lý về thủ tục phá sản đối với các thương nhân vỡ nợ. Cũng cần phải nói thêm rằng, khi một thương nhân vỡ nợ, các chủ nợ và người lao động hoàn toàn có thể lấy nợ bằng cách khởi kiện đòi nợ theo thủ tục dân sự. Tuy nhiên, khi phải giải quyết mối quan hệ nợ nần giữa một con nợ với nhiều chủ nợ ở trạng thái mà sản nghiệp còn lại của con nợ không còn đủ để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với tất cả các chủ nợ thì thủ tục dân sự đã thể hiện một số những khiếm khuyết như:
- Thứ nhất, nếu sử dụng thủ tục lấy nợ dân sự trong trường hợp một con nợ có nhiều chủ nợ thì sẽ có sự xuất hiện đồng thời của nhiều vụ kiện dân sự trên thực tế và điều này dẫn đến hệ quả là sự quá tải của hệ thống tòa án cũng như chi phí đòi nợ lớn cũng sẽ làm tiêu hao sản nghiệp vốn đã hạn hẹp của con nợ và trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ; Thứ hai, thủ tục dân sự chỉ cho phép chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của mình khi khoản nợ đã đáo hạn. Vì vậy khi các khoản nợ không đáo hạn cùng một lúc sẽ dẫn đến tình trạng “lo âu” của các chủ nợ có các khoản nợ đáo hạn sau khi mà họ nhìn thấy sản nghiệp của con nợ đã không còn hoặc còn rất ít và chắc chắn sẽ không đủ để thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với mình. Ngay cả khi các khoản nợ đáo hạn cùng một lúc thì theo thủ tục dân sự, cơ quan tài phán cũng chỉ có thể ra phán quyết buộc con nợ có nghĩa vụ phải thanh toán chứ không thể giải quyết thỏa đáng vấn đề con nợ không còn khả năng thực hiện đồng thời tất cả các nghĩa vụ tài sản của mình [28, Tr 22]. Tất cả những khiến khuyết kể trên của thủ tục dân sự chỉ có thể được khỏa lấp bằng cơ chế lấy nợ tập thể của thủ tục phá sản. Để đảm bảo sự công bằng của các chủ nợ có vị thế giống nhau khi tiếp cận tài sản của con nợ, thay vì việc để cho các chủ nợ có thể kiện đòi nợ một cách riêng rẽ, thủ tục phá sản tạo ra một cơ chế lấy nợ tập thể giữa một bên là toàn bộ các chủ nợ (nhiều hơn một chủ nợ) đối với một con nợ duy nhất. Trong điều kiện sản nghiệp của con nợ không còn đủ để đồng thời thanh toán hết tổng số nợ, dù con nợ có trao toàn bộ sản nghiệp của mình cho các chủ nợ thì rủi ro vẫn là quá lớn đồi với các chủ nợ. Nếu có thể, bằng một giải pháp nào đó và với sự trợ giúp của các chủ nợ, mà con nợ còn có thể tiếp tục tồn tại thì cơ hội để thu hồi đủ số nợ cho các chủ nợ lại trở lên khả quan hơn. Chính vì vậy, so với thủ tục đòi nợ dân sự, thủ tục phá sản không đơn thuần chỉ là một công cụ lấy nợ “tập thể” mà còn hướng vào mục tiêu tái cấu trúc lại con nợ nhằm hài hòa một cách tốt nhất những mâu thuẫn lợi ích giữa chủ nợ, con nợ, người lao động và nền kinh tế.
- Ở thời điểm hiện tại, bất kì một đạo luật phá sản được coi là hiện đại trên thế giới đều coi trọng việc cứu vãn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ. Toà án chỉ tuyên bố phá sản con nợ trong những trường hợp bất đắc dĩ, khi các biện pháp khôi phục hoạt động kinh doanh và khả năng thanh toán của con nợ không thành công. Việc phục hồi hoạt động kinh doanh của con nợ có ý nghĩa không chỉ đối với bản thân con nợ mà còn có ý nghĩa lớn đối với các chủ nợ, người lao động, các đối tác, đặc biệt là đối với sự vững mạnh của nền kinh tế đất nước. Việc phục hồi tạo cơ hội cho doanh nghiệp mắc nợ vượt qua tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, khôi phục lại hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường, hạn chế đến mức thấp nhất việc giải thể doanh nghiệp khi còn có hy vọng phục hồi nó. Việc phục hồi hoạt động kinh doanh làm tăng thêm sự tin tưởng của người lao động đối với doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh nào đi nữa và với bất kỳ lý do gì, nếu doanh nghiệp mắc nợ phục hồi được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, thu được lợi nhuận, lấy lại được uy tín trên thương trường thì nó không chỉ giải quyết được các khoản nợ lương đối với người lao động mà còn tạo sự gắn bó hơn nữa giữa người lao động đối với doanh nghiệp. Quá trình phân công lao động ngày càng theo chiều rộng và chiều sâu ở mỗi thị trường quốc gia và thị trường toàn cầu đã làm tính phụ thuộc giữa các doanh nghiệp ngày càng lớn. Sự xuất hiện các công ty đa quốc gia cùng với quá trình toàn cầu hoá đã từng bước xoá nhoà đường biên giới về thị trường giữa các quốc gia trên thế giới và vì vậy làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh như vậy, phá sản không còn là công việc riêng của doanh nghiệp bị phá sản. Sự cho phép “rút lui một cách đột ngột” của doanh nghiệp ra khỏi thị trường bằng cơ chế phá sản không phải bất cứ trường hợp nào cũng là giải pháp được nhà nước lựa chọn sau khi đã cân nhắc đầy đủ và thận trọng các hệ quả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Nói cách khác, sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại đã khiến chúng ta nhìn nhận phá sản là một hiện tượng xã hội
- tiêu cực. Do vậy, việc cứu vớt các doanh nghiệp ra khỏi tình trạng khó khăn là vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế. Hiện nay, trong khoa học pháp lý cũng như hệ thống văn bản về pháp luật phá sản ở Việt Nam chưa thống nhất được khái niệm về “thủ tục phục hồi” cũng như khái niệm “thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản”. Điều này gây khá nhiều khó khăn cho những nghiên cứu có tính chất chuyên sâu về thủ tục phục hồi cũng như quá trình nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục phục hồi trong thủ tục phá sản. “Phục hồi” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là việc khôi phục lại cái đã mất đi, cũng theo từ điển tiếng Việt , “khôi phục” được hiểu là làm lại cho có lại được hay trở lại được như trước [36]. Tuy nhiên, theo những phân tích ở trên, chúng ta có thể hiểu rằng, “phục hồi doanh nghiệp mắc nợ” là việc khôi phục lại, làm sống lại khả năng sản xuất kinh doanh, lấy lại tình trạng tài chính đã mất và dựng lại uy tín, ảnh hưởng của của một thương nhân trên thương trường. Theo tác giả Ngô Cường thì “phục hồi là đem lại cho con nợ đang trong tình trạng khó khăn những điều kiện và cơ hội tiếp tục kinh doanh chứ không phải là thanh toán con nợ đó” [39, Tr 164]. Tuy nhiên, để làm rõ khái niệm thủ tục phục hồi con nợ trong thủ tục phá sản, nhất thiết chúng ta phải phân biệt với sự tự phục hồi của con nợ. Khi một con nợ lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, bản thân con nợ đó có thể áp dụng tất cả các biện pháp có thể nhằm tự “cứu mình”, thậm chí có thể thỏa thuận riêng rẽ với từng chủ nợ để tìm cơ hội cứu vãn tình trạng mất khả năng thanh toán. Nhưng khi thủ tục phá sản đã mở ra đối với con nợ thì việc phục hồi con nợ phải tuân theo một trình tự tố tụng hết sức chặt chẽ. Thủ tục này được áp dụng bởi tòa án sau khi có sự chấp thuận của các chủ nợ và được giám sát chặt chẽ bởi chính tòa án và các chủ nợ. Xét về bản chất pháp lí, thủ tục phục hồi con nợ có thể được hiểu là quá trình xác lập và thực hiện một “khế ước” giữa con nợ và tập thể các chủ nợ
- bao gồm cả đại diện của người lao động làm công cho con nợ đó với sự phê chuẩn của tòa án nhằm xây dựng một kế hoạch tái cơ cấu lại doanh nghiệp mắc nợ và lập một kế hoạch trả nợ phù hợp [1, Tr 1230]. Trong một số trường hợp, kế hoạch tái cơ cấu có thể dẫn đến việc thay thế bộ máy quản lý, điều hành doanh nghiệp mắc nợ. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh cho phép doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo cho con nợ có cơ hội thoát khỏi khó khăn về tài chính và do đó tránh được bị tuyên bố phá sản. Phục hồi hoạt động kinh doanh là nội dung thể hiện quan điểm tiến bộ, tính nhân đạo của pháp luật phá sản hiện đại đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Việc áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đem lại cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản những cơ hội và điều kiện để tổ chức lại hoạt động kinh doanh, giúp doanh nghiệp có thể thoát khỏi tình trạng phá sản. Từ việc phân tích các dấu hiệu nêu trên có thể đưa ra khái niệm phục hồi doanh nghiệp mắc nợ như sau: Thủ tục phục hồi là thủ tục do Toà án có thẩm quyền quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, theo đó, một con nợ không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn được hưởng một thời hạn nhất định để thi hành phương án phục hồi do Hội nghị chủ nợ thông qua dưới sự giám sát của Toà án và đại diện của chủ nợ nhằm tạo điều kiện cho con nợ được tiếp tục hoạt động kinh doanh đồng thời chi trả các khoản nợ đã tới hạn của mình. 1.1.2. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi trong giải quyết vụ việc phá sản 1.1.2.1. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi đối với các chủ nợ Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của thương nhân lâm vào tình trạng phá sản nhằm mục đích tối đa hóa việc trả nợ cho các chủ nợ, thông qua đó bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ và những người có liên quan. Khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, đối tượng phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất về tài sản là chủ nợ. Trừ những chủ nợ có bảo đảm, quyền lợi của các
- chủ nợ còn lại không được bảo đảm, vì lúc đó tài sản nợ lớn hơn rất nhiều so với sản nghiệp còn lại của thương nhân. Điều này có thể dẫn đến hậu quả sẽ có nhiều danh nghiệp khác lâm vào tình trạng phá sản khi bạn hàng, đối tác của họ bị tuyên bố phá sản. Để bảo vệ tối đa quyền lợi cho các chủ nợ và những người có liên quan, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là giải pháp mà các chủ nợ luôn mong muốn. Bởi lẽ, khi doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn hiện tại và tiếp tục hoạt động kinh doanh thì khả năng trả nợ cho các chủ nợ là rất lớn. Vì vậy, trong quá trình xây dựng, thông qua phương án phục hồi doanh nghiệp, vai trò của các chủ nợ là hết sức quan trọng. Hầu hết pháp luật các nước dùng luật phá sản để tạo cơ hội cho chủ nợ can thiệp và điều hành, tái cơ cấu doanh nghiệp mắc nợ. Pháp luật phá sản của Việt Nam đã rất coi trọng việc bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ, thể hiện qua các quy định pháp luật như quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền có đại diện trong thiết chế quản lý tài sản và thanh toán tài sản cuả con nợ, quyền đề xuất phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, quyền tiếp tục tiến hành mọi hoạt động kinh doanh sau khi toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản dưới sự giám sát kiểm tra của thẩm phán và tổ quản lý thanh lý tài sản, hay con nợ bị cấm, bị hạn chế một số hoạt động luật định. Những quy định này cũng là để đảm bảo tài sản phá sản của doanh nghiệp con nợ, từ đó đảm bảo tài sản thanh toán nợ cho các chủ nợ. 1.1.2.2. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi đối với ngƣời lao động Khi một thương nhân lâm vào tình trạng đổ vỡ trong kinh doanh thì ngoài các chủ nợ, có một nhóm đối tượng cũng phải chịu những tác động xấu một cách trực tiếp từ sự đổ vỡ này đó chính là những người làm công ăn lương. Bắt đầu từ khi công việc kinh doanh của thương nhân gặp khó khăn, những người lao động làm việc cho thương nhân đó đã có thể bị cắt giảm thu nhập hoặc bị giới chủ chậm trả lương và nếu như tình hình tài chính của
- thương nhân đó không được cải thiện thì họ còn có thể bị mất việc làm và mất luôn thu nhập. Chính vì vậy một trong những chức năng cơ bản của pháp luật phá sản là tìm giải pháp tối ưu nhất để bảo vệ lợi ích chính đáng của những người lao động. Giải pháp tối ưu đó có lẽ chỉ có thể tìm thấy trong thủ tục phục hồi khi mà thay vì thanh lí sản nghiệp và chấm dứt sự tồn tại của thương nhân vỡ nợ, pháp luật tạo điều kiện cho thương nhân đó có thể tiếp tục tồn tại và như vậy người lao động sẽ không bị mất việc làm, các khoản nợ thu nhập sẽ được thanh toán một cách đầy đủ. Trong thủ tục phục hồi người lao động còn có thể thể hiện vai trò như là một chủ nợ trong tổng thể các chủ nợ thông qua người đại diện của mình. 1.1.2.3. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi đối với thƣơng nhân mắc nợ Đối với một thương nhân “trung thực” thì sự đỗ vỡ trong kinh doanh là xuất phát từ những nguyên nhân khách quan như gặp phải rủi ro trong kinh doanh, do khủng hoảng của kinh tế, do năng lực kinh doanh yếu kém và khi lâm vào tình trạng phá sản, không còn khả năng thanh toán nợ cho các bạn hàng, thương nhân đó có thể rơi vào tình trạng tuyệt vọng vì: - Thứ nhất: họ có thể đánh mất đi niềm tin của các bạn hàng, mất đi sự tín nhiệm trên thương trường mà có thể mất rất nhiều thời gian mới có được; - Thứ hai: họ có thể mất đi sản nghiệp thương mại được gây dựng với nhiều công sức; - Thứ ba: họ có thể phải đón nhận sự thiếu tôn trọng của xã hội dành cho kẻ thất bại trong kinh doanh và những áp lực trả nợ rất lớn từ phía các chủ nợ. Thủ tục phục hồi chính là cứu cánh cuối cùng dành cho các thương nhân lâm vào tình trạng phá sản để khôi phục lại sản nghiệp thương mại, khôi phục lại khả năng thanh toán và uy tín, niềm tin của bạn hàng trên thương trường đối với mình. Việc áp dụng thủ tục phục hồi đối với một con nợ lâm vào tình trạng phá sản còn thể hiện sự “nhân đạo” mà các đạo luật phá sản hiện đại trên thế
- giới ngày nay đang hướng đến với triết lí “hướng vào con nợ” của mình. Đồng thời, thông qua thủ tục phục hồi, các chủ nợ, bạn hàng của con nợ cũng có cơ hội thể hiện sự chia sẻ khó khăn với con nợ - một biểu hiện của “thương mại công bằng” rất đáng trân trọng. Như vậy, vai trò của thủ tục phục hồi trong việc bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được thể hiện ở chỗ, khi thủ tục phục hồi được mở, doanh nghiệp mắc nợ sẽ có một khoảng thời gian cần thiết, dưới sự bảo vệ của pháp luật để xây dựng và thực hiện việc phục hồi hoạt động kinh doanh của mình. Quá trình thực hiện phương án phục hồi, con nợ có thể nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ rất lớn từ phía các chủ nợ trên cơ sở thỏa thuận đã được xác lập giữa chính con nợ với các chủ nợ thông qua hội nghị chủ nợ. 1.1.2.4. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi đối với nền kinh tế và sự ổn định của xã hội Việc một thương nhân lâm vào tình trạng phá sản thực hiện thành công phương án phục hồi và quay trở lại hoạt động bình thường cũng có ý nghĩa to lớn đối với xã hội. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mức độ phụ thuộc của các doanh nghiệp đối với nhau ngày càng lớn, vì vậy, khi một doanh nghiệp bị phá sản tất yếu sẽ có nhiều doanh nghiệp khác là chủ nợ hoặc bạn hàng có quan hệ với doanh nghiệp đó phải chịu những tác động xấu. Đặc biệt, nếu con nợ là những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực như tài chính, tín dụng, bảo hiểm việc phá sản của con nợ đó có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả một hệ thống các doanh nghiệp khác có liên quan. Ngoài ra, khi một doanh nghiệp bị phá sản, những người lao động làm việc trong doanh nghiệp đó sẽ bị mất việc làm và điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ mất đi nguồn thu nhập để duy trì cuộc sống của họ và gia đình. Giải quyết bài toán thất nghiệp hay tái đào tạo lại nghề cho những người lao động sẽ là một sức ép lớn cho nhà nước và xã hội.
- Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản không chỉ là sự xung đột lợi ích giữa con nợ mất khả năng thanh toán với các chủ nợ của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích của tập thể người lao động làm việc tại cơ sở của con nợ, đến lợi ích chung của xã hội, đến tình hình trật tự trị an tại một địa phương, vùng lãnh thổ nhất định nào đó. Phục hồi thành công doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ góp phần hạn chế những tác động tiêu cực đối với xã hội. Đặc biệt, nếu giải quyết thỏa đáng mối quan hệ lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phục hồi sẽ góp phần hạn chế những mâu thuẫn, căng thẳng có thể có giữa những chủ thể này với nhau, từ đó góp phần duy trì trật tự, ổn định xã hội và lành mạnh hóa môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp. 1.2. Các nguyên tắc của thủ tục phục hồi Khi một thương nhân lâm vào tình trạng phá sản và bị mở thủ tục phá sản, việc tòa án ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi đối với thương nhân đó cũng như trong suốt quá trình diễn ra thủ tục phục hồi đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc sau: 1.2.1. Thủ tục phục hồi chỉ đƣợc áp dụng đối với con nợ trên cơ sở “khế ƣớc” đã đƣợc xác lập giữa tổng thể các chủ nợ với con nợ. Mặc dù thủ tục phục hồi được áp dụng bởi quyết định của tòa án, nhưng cơ sở pháp lí thực sự của việc áp dụng thủ tục phục hồi đối với con nợ chính là kết quả của sự thỏa hiệp giữa tổng thể các chủ nợ với con nợ thông qua hội nghị chủ nợ. Như đã trình bày ở trên, trên thế giới hiện nay, bất kì đạo luật phá sản hiện đại nào cũng đều có thiên hướng ưu tiên phục hồi con nợ trước khi áp dụng thủ tục thanh lí với mục đích tối đa hóa lợi ích của các chủ thể có liên quan, tuy nhiên, việc phục hồi con nợ vẫn phải dựa trên cơ sở ý chí chung của các chủ nợ. Khi con nợ bị mở thủ tục phá sản, trừ trường hợp đặc biệt là con
- nợ không còn tài sản, hội nghị chủ nợ sẽ được tòa án tiến hành sau khi danh sách chủ nợ đã được lập song và quản tài viên đã lên được báo cáo về hiện trạng sản nghiệp của con nợ. Nội dung của phiên häp hội nghị chủ nợ lần thứ nhất (được triệu tập lần đầu sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản) chính là việc con nợ thỏa hiệp với các chủ nợ về “sự sống còn” của con nợ cũng như cách thức trả nợ. Sau khi các chủ nợ đánh giá về tình hình của con nợ thông qua nội dung báo cáo của quản tài viên và sự giải trình của con nợ, tổng thể các chủ nợ sẽ biểu quyết để thông qua nghị quyết về phương hướng xử lí đối với con nợ. Nội dung của nghị quyết này chính là việc có chấp thuận cho con nợ được áp dụng thủ tục phục hồi hay không với những cam kết trả nợ của mình. Nghị quyết này, theo pháp luật của nhiều nước trên thế giới, phải được đa số chủ nợ đại diện cho một số nợ nhất định (chẳng hạn hai phần ba nợ không có bảo đảm theo Luật thương mại Pháp, Luật thương mại trung phần [1; Tr 1227]) chấp thuận. Trong trường hợp nghị quyết không được thông qua thì cũng có nghĩa là sự thỏa hiệp giữa con nợ với các chủ nợ đã không thành công, và đương nhiên, con nợ sẽ phải áp dụng thủ tục thanh lí để trả nợ. Nếu tồn tại một nghị quyết của hội nghị chủ nợ về việc chấp thuận phương án trả nợ và phương án tái cơ cấu của con nợ thì đây chính là cơ sở để tòa án ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi đối với con nợ. Tuy nhiên, từ kết quả của nghị quyết phiên họp hội nghị chủ nợ lần thứ nhất cho tới khi có được một phương án tái cơ cấu khả thi được tổng thể các chủ nợ thông qua sẽ phải trải qua một thời gian thích hợp để con nợ và các chủ nợ tiếp tục thỏa hiệp để xây dựng phương án này. Như vậy, bản chất của nghị quyết hội nghị chủ nợ về việc chấp thuận cho con nợ được áp dụng thủ tục phục hồi chính là sự thể hiện ý chí chung của tổng thể các chủ nợ nhằm giao kết một hợp đồng với con nợ. Hình thức của hợp đồng này chính là biên bản họp hội nghị chủ nợ với sự chứng thực của tòa án. Bản hợp đồng này có giá trị:
- - Là cơ sở pháp lí để tòa án ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi đối với con nợ; - Ghi nhận sự ràng buộc nghĩa vụ giữa tổng thể các chủ nợ với con nợ trong suốt thời gian diễn ra thủ tục phục hồi; - Và là cơ sở để các chủ nợ giám sát, đánh giá về sự thành công hay thất bại của việc phục hồi con nợ để có những quyết định tiếp theo đối với “số phận” của con nợ. 1.2.2. Thủ tục phục hồi chỉ áp dụng đối với những con nợ bị lâm vào tình trạng phá sản nhƣng còn khả năng phục hồi “Lâm vào tình trạng phá sản” là một khái niệm cơ bản và vô cùng quan trọng trong pháp luật phá sản vì khái niệm này cho phép xác định điểm khởi đầu của một vụ kiện phá sản. Chỉ khi con nợ bị “lâm vào tình trạng phá sản” thì chủ nợ và một số chủ thể có quyền khác mới có thể đệ đơn tới tòa án yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ. Pháp luật của các quốc gia trên thế giới hiện nay có cách quy định khá khác nhau về “tình trạng phá sản” của con nợ, tuy nhiên, có hai phương pháp để xác định tình trạng phá sản của con nợ được khá nhiều quốc gia áp dụng là: - Dựa trên cán cân thanh toán giữa tài sản có và tài sản nợ của con nợ. Theo tiêu chí này, một con nợ sẽ bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi tổng giá trị tài sản sẵn có của doanh nghiệp thấp hơn tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Chẳng hạn như trong Luật phá sản của Cộng hoà Liên bang Nga, được xem là mất khả năng thanh toán nợ nếu doanh nghiệp “ mất khả năng đáp ứng yêu cầu của chủ nợ về thanh toán hàng hoá( công việc, dịch vụ) kể cả việc mất khả năng bảo đảm các thanh to¸n phải nộp ngân sách và các quỹ ngoài ngân sách do nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ vượt quá tài sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán cân thanh toán của doanh nghiệp mắc nợ”. Cũng tương tự như vậy, Điều 126 khoản 1 - Luật phá sản Nhật Bản
- quy định tình trạng phá sản của con nợ có nghĩa là con nợ hoàn toàn không có khả năng trả nợ. - Dựa vào sự ngừng trả nợ đến hạn của con nợ Theo quy định tại Điều L 621- 1 Bộ Luật Thương mại của Cộng hoà Pháp năm 1985, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn được hiểu là ngừng thanh toán các khoản nợ đến hạn, bị đòi bằng tài sản sẵn có của mình. Ở Đức, theo Khoản 2, Điều 17 - Bộ luật vỡ nợ, doanh nghiệp sẽ nằm trong tình trạng mất khả năng thanh toán nợ nếu như việc thanh toán các khoản nợ đến hạn bị thất bại. Như vậy, việc ngừng thanh toán nợ phải dựa trên nguồn tiền sẵn có của doanh nghiệp mắc nợ chứ không phải là trên tài sản có của doanh nghiệp mắc nợ. Tuy nhiên, khái niệm ngừng thanh toán nợ là một khái niêm rất chung. Do đó, cần phải có những dấu hiệu cụ thể để xác định thế nào là ngừng thanh toán các khoản nợ. Có 3 điều kiện để xác định việc ngừng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Đó là: 1) Có các khoản nợ thực sự đến hạn mà con nợ không trả nợ 2) Có yêu cầu đòi nợ của chủ nợ đối với doanh nghiệp mắc nợ. Yêu cầu đòi nợ này phải rõ ràng và có căn cứ. Yêu cầu đòi nợ có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng và do người đại diện hợp pháp của chủ nợ tiến hành 3) Có sự xác nhận không thể trả nợ nay của doanh nghiệp mắc nợ. Như vậy, nếu một con nợ ngừng không thanh toán các khoản nợ đến hạn thì được xem như là lâm vào tình trạng phá sản mà không cần biết nguyên nhân tại sao doanh nghiệp lại không thanh toán được các khoản nợ đến hạn. Căn cứ vào tình trạng phá sản thực chất của con nợ, tòa án có thể ra quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản đối với con nợ đó. Khi xem xét thủ tục phục hồi với tính chất là một thủ tục tố tụng do tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản thì rõ ràng chỉ có những