Luận văn Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thoi_hieu_truy_cuu_trach_nhiem_hinh_su_trong_luat_h.pdf
Nội dung text: Luận văn Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ TUẤN ANH THêI HIÖU TRUY CøU TR¸CH NHIÖM H×NH Sù TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2019
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ TUẤN ANH THêI HIÖU TRUY CøU TR¸CH NHIÖM H×NH Sù TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI – 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực khoa häc, ®ång thêi t«i xin chÞu tr¸ch nhiÖm vÒ néi dung khoa häc cña LuËn v¨n nµy. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Đỗ Tuấn Anh
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục các bảng PHÇN MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HIỆU TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 12 1.1. Cơ sở lý luận, ý nghĩa và lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 12 1.1.1. Cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc ghi nhận chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam 12 1.1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 17 1.2. Khái niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý và vị trí của chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 19 1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 19 1.2.2. Bản chất pháp lý của phạm trù “hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” 23 1.2.3. Vị trí (chỗ đứng) của chế định thời hiệu truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam 28 1.3. Phân biệt thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và các chế định có liên quan 32 1.3.1. Phân biệt thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự 32
- 1.3.2. Phân biệt thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu thi hành bản án kết tội 36 1.4. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới 40 Kết luận Chương 1 48 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỜI HIỆU TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA (GIAI ĐOẠN 2014-2018) 49 2.1. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 49 2.1.1. Nhận xét chung về chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 2015 dưới góc độ so sánh với Bộ luật hình sự năm 1999 49 2.1.2. Điều kiện để chủ thể phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do đã hết thời hiệu 50 2.1.3. Xác định thời điểm bắt đầu và chấm dứt của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 51 2.1.4. Mối liên quan giữa phạm vi của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và phạm vi của quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự 60 2.1.5. Vấn đề tính lại thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 72 2.1.6. Vấn đề không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 74 2.2. Thực tiễn áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa (giai đoạn từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2018) 75 2.2.1. Cách tiếp cận vấn đề và cơ sở của việc lấy số liệu 76 2.2.2. Những kết quả đạt được 79 2.2.3. Một số hạn chế 84
- 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trên thực tiễn 88 Kết luận Chương 2 91 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỜI HIỆU TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TRÊN THỰC TIỄN 93 3.1. Sự cần thiết của định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 93 3.2. Những cơ sở của định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam trong tương lai 99 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả và kiến giải mô hình lý luận về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong tương lai 101 3.3.1. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trên thực tiễn 101 3.3.2. Kiến giải mô hình lý luận về chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong tương lai 104 Kết luận Chương 3 111 KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. BLHS : Bộ luật hình sự 2. BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự 3. CA : Công an 4. CTTP : Cấu thành tội phạm 5. CQĐT : Cơ quan điều tra 6. NNPQ : Nhà nước pháp quyền 7. PLHS : Pháp luật hình sự 8. TA : Tòa án 9. TNHS : Trách nhiệm hình sự 10. THTT : Tiến hành tố tụng 11. TTHS : Tố tụng hình sự 12. VKS : Viện kiểm sát 13. VKSND : Viện kiểm sát nhân dân 14 XHCN : Xã hội chủ nghĩa 15 BPTM : Biện pháp tha miễn
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng biểu Trang Thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự trên Bảng 2.1 địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2014 đến tháng 6 năm 80 2018 Thống kê số vụ án, bị can đình chỉ tố tụng của CQĐT Bảng 2.2 2 cấp tỉnh Thanh Hóa từ năm 2014 đến tháng 6 năm 81 2018 Thống kê số vụ án, bị can đình chỉ tố tụng của VKS Bảng 2.3 2 cấp tỉnh Thanh Hóa từ năm 2014 đến tháng 6 năm 82 2018 Thống kê số vụ án, bị cáo đình chỉ tố tụng của TA 2 cấp tỉnh Thanh Hóa từ năm 2014 đến tháng 6 năm Bảng 2.4 83 2018
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Khi phân tích các quy phạm thuộc Phần chung của PLHS Việt Nam hiện hành cho thấy việc nghiên cứu đề tài: Thời hiệu truy cứu TNHS trong Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa) là rất cần thiết và quan trọng trên bốn phương diện chủ yếu sau đây: Về mặt lý luận: Chế định thời hiệu nói chung và chế định thời hiệu truy cứu TNHS nói riêng là một chế định quan trọng trong PLHS của mỗi quốc gia, sự hiện diện của nó là bằng chứng phản ánh rõ ràng về thái độ và trách nhiệm của các cán bộ tư pháp trong khi làm nhiệm vụ, đồng thời nó còn mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Bởi bản chất của thời hiệu là một khoảng thời gian xác định mà trong đó Nhà nước và toàn xã hội có quyền thể hiện thái độ và hành động lên án của mình đối với những hành vi phạm tội, đồng thời nó cũng để cho những chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đó có quyền hi vọng rằng mình có thể được hưởng chế định nhân đạo khi hết thời hiệu truy cứu TNHS theo những căn cứ và những điều kiện được quy định cụ thể trong PLHS thực định của mỗi quốc gia. Do đó, trong giai đoạn xây dựng NNPQ và cải cách tư pháp ở Việt Nam đương đại thì việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này là rất quan trọng và cần thiết. Hiện nay, trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam có khá nhiều công trình nghiên cứu về chế định thời hiệu nói chung trong luật hình sự Việt Nam, tuy nhiên việc chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu riêng biệt về chế định thời hiệu truy cứu TNHS thì chưa nhiều, mới ở các dạng bài viết trên các tạp chí hoặc lồng ghép trong việc nghiên cứu về chế định thời hiệu nói chung. Do đó, việc chỉ đi sâu tập trung nghiên cứu riêng về chế định thời hiệu truy cứu TNHS là cần thiết về mặt lý luận. Việc chỉ tập trung đi vào nghiên cứu một chế định nhỏ 1
- trong một chế định lớn về thời hiệu trong luật hình sự theo tác giả là một sự lựa chọn hợp lý và vừa sức, phù hợp với dung lượng của một Luận văn thạc sỹ. Các công trình nghiên cứu trước đây, chỉ tập trung nghiên cứu về thời hiệu truy cứu TNHS dưới góc độ của luật hình sự, tuy nhiên tác giả cho rằng việc xem xét như vậy là chưa có sự toàn diện. Vì rằng, khi nói tới phạm trù về thời hiệu truy cứu TNHS thì nó liên quan đồng thời tới cả hai ngành luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự - Luật hình sự và luật TTHS, do đó, việc làm rõ phạm trù này cần phải có sự kết hợp nghiên cứu đồng bộ các quy định của PLHS và pháp luật TTHS có liên quan ở các mức độ khác nhau đến quá trình truy cứu TNHS người phạm tội, các phạm trù có liên quan như: Phạm trù về phân loại tội phạm, khái niệm, bản chất của các dạng, loại tội phạm, phạm trù về quá trình truy cứu TNHS (khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử), tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án, bị can Hơn nữa từ khi BLHS năm 1999 được ban hành (sửa đổi, bổ sung năm 2009 - sau đây trong bài viết tác giả gọi chung là BLHS năm 1999), nay đã được thay thế bằng BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 - sau đây trong bài viết tác giả gọi chung là BLHS năm 2015), trong khoa học luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có một công trình nào đề cập riêng đến việc nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về chế định này. Về mặt lập pháp: Trong lần pháp điển hóa lần thứ ba luật hình sự Việt Nam, với việc thông qua BLHS năm 2015 đã có những sự thay rất lớn, cơ bản và toàn diện cả về kỹ thuật lập pháp tới nội dung của bộ luật, trong đó chế định về thời hiệu nói chung và chế định thời hiệu truy cứu TNHS nói riêng đã được quan tâm tới và đã có những sự sửa đổi, bổ sung nhất định so với lần pháp điển hóa thứ hai, do đó việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện chế định này là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa. Về xu hướng nghiên cứu: Cho đến nay sau pháp điển hóa lần thứ ba luật hình sự Việt Nam và luật TTHS Việt Nam với việc thông qua BLHS năm 2015 2
- và BLTTHS năm 2015 thì hầu hết các quy phạm, chế định trong BLHS và BLTTHS đã được các nhà nghiên cứu khoa học nghiên cứu đề cập tới trên thực tế bằng các công trình nghiên cứu khoa học của mình. Do vậy việc lựa chọn đề tài có tính chất liên ngành là một xu hướng nghiên cứu mới, cần được tiếp tục phát huy. Về mặt thực tiễn: Với đề tài này tác giả không chỉ xem xét nó ở góc độ lý luận mà cố gắng gắn với hoạt động thực tiễn: điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan THTT, xem nó được áp dụng trên thực tế như thế nào, trong những trường hợp nào và trên thực tiễn việc áp dụng pháp luật về thời hiệu truy cứu TNHS còn những khó khăn, vướng mắc gì, qua đó để đưa ra những phương hướng, giải pháp khắc phục trong thời gian tới. Hàng năm trong các Chỉ thị công tác của Viện trưởng VKSND tối cao luôn chỉ ra những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để thực hiện trong năm, năm 2017 Viện trưởng VKSND tối cao đã chỉ đạo toàn ngành Kiểm sát nhân dân phải “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, bảo đảm không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chỉ thị công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành” “phải kiểm sát chặt chẽ việc tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án, bị can ”. Trực tiếp xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về các trường hợp CQĐT, VKS đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự nhưng phát hiện oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm; chủ động tổ chức kiểm tra, khảo sát, đánh giá tình hình chấp hành pháp luật trong việc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can của CQĐT, VKS , đề ra các giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế [58]. Đây có thể nói là một sự tư duy, đổi mới từ nhận thức tới hành động, một quyết tâm rất lớn của Viện trưởng VKSND tối cao trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm: Không chỉ bảo đảm không làm oan người vô tội, hạn chế tới mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội như những năm trước đây mà yêu cầu: Không làm oan người vôi tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội - Chúng 3
- tôi đánh giá đây là một chỉ tiêu, yêu cầu rất lớn và rất nặng nề mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, kỳ vọng vào Ngành kiểm sát nhân dân. Qua đó, thấy được thực tiễn công tác kiểm sát hàng năm đã chỉ ra rằng, vấn đề đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án, bị can những năm qua đang là những chế định còn có vấn đề và gây ra những bức xúc trên thực tế, đây là những chế định của TTHS mà có thể làm cho các chế định trong luật hình sự chở nên vô hiệu trên thực tiễn và có liên quan mật thiết tới chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong luật hình sự. Đây cũng chính là yêu cầu đặt ra cho chúng ta cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và sâu sắc về chế định thời hiệu hiệu truy cứu TNHS. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu về chế định thời hiệu truy cứu TNHS ở các mức độ khác nhau đã được một số nhà khoa học, luật gia quan tâm, nghiên cứu và được đề cập trong các công trình, trong các tạp chí, trong một số sách chuyên khảo và giáo trình. Trong các công trình, tạp chí, sách chuyên khảo và giáo trình này bước đầu phân tích và làm rõ những vấn đề xung quanh chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong BLHS năm 1999. Chúng ta có thể kể đến như: Ở cấp độ giáo trình có: Giáo trình Luật hình sự của Khoa Luật Ðại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Truờng Ðại học Luật Hà Nội Trong các giáo trình Luật hình sự này chế định thời hiệu truy cứu TNHS mới chỉ cập nhật ở mức độ cơ bản. Ở cấp độ bình luận khoa học, phân tích chuyên sâu có các công trình nghiên cứu của các tác giả như: 1. GS.TSKH. Lê Văn Cảm với một số công trình nghiên cứu: 1.1 Về chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, Tạp chí DC & PL, số 11/2000; 1.2) Chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam: Một số vấn đề lý luận cơ bản. Tạp chí Khoa học pháp lý-KHPL (của Trường 4
- Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh), số 2/2001 (Đồng tác giả với PGS.TS. Trịnh Tiến Việt); 1.3) Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Khoa trực thuộc (Trường thành viên) năm 2001 của tập thể tác giả Bộ môn Tư pháp hình sự Khoa luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002; 1.4) Những vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới. Thông tin Khoa học pháp lý, năm 2002; 1.5) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, tập I – Phần chung. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2001; 1.6) Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung). Sách chuyên khảo Sau đại học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2005; 1.7) Nhận thức khoa học về Phần chung pháp luật hình sự Việt Nam sau pháp điển hóa lần thứ ba (Sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2018. 2. PGS.TS. Phạm Hồng Hải: Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và vấn đề áp dụng chế định này trong thực tiễn. Tạp chí Luật học số 05/2001; 3. Tác giả Hoàng Ngọc Hoài: Hoàn thiện chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam - lý luận và thực tiễn. Tạp chí Toà án nhân dân số 05/2003; 4. TS. Trần Quang Tiệp: Một số vấn đề lý luận về chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Toà án nhân dân, tháng 2/2006 (Số 4). Một số Luận văn thạc sỹ có liên quan như: 1. Nguyễn Thị Thanh Hoa: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định thời hiệu theo pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn Thạc sỹ - Khoa Luật, Đại học quốc gia hà nội năm 2009; 2. Phùng Thanh Mai: Bảo vệ quyền con người bằng các quy định về các biện pháp tha miễn. Luận văn Thạc sỹ - Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2014 Tuy nhiên, khái quát tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả cho thấy các công trình này mới chỉ dừng lại ở các bài viết đăng trên tạp chí 5
- khoa học pháp lý chuyên ngành, với việc giải quyết một nội dung tương ứng xem xét nội dung của chế định này như khối kiến thức cơ bản của một phần, mục trong các giáo trình giảng dạy, một chương của sách chuyên khảo, hay lồng ghép việc nghiên cứu chế định này trong chế định thời hiệu trong luật hình sự nói chung, nghiên cứu trong tổng thể các biện pháp tha miễn trong luật hình sự Việt Nam, mà chưa có công trình nào đề cập đến việc nghiên cứu với đúng tên gọi “Thời hiệu truy cứu TNHS trong Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)” một cách có hệ thống, toàn diện, đồng bộ và chuyên khảo ở cấp độ một Luận văn thạc sỹ luật học. Về nội dung, các công trình đã nêu mới đề cập khái quát căn cứ pháp lý và những điều kiện áp dụng, đánh giá ở mức độ riêng rẽ từng trường hợp hết thời hiệu truy cứu TNHS cụ thể hoặc mới đưa ra một số kiến nghị độc lập về hoàn thiện các trường hợp tương ứng này trong luật hình sự Việt Nam. Trong khi đó, chưa có công trình nghiên cứu nào hệ thống hoá các vấn đề lý luận về chế định thời hiệu truy cứu TNHS; tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng cũng như chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn để đề xuất các kiến giải lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chúng. Mặt khác, nhiều nội dung xung quanh chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong BLHS năm 2015 đã có những sự sửa đổi, bổ sung so với BLHS năm 1999, do đó đòi hỏi các nhà nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tư pháp hình sự của nước ta cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa, nên việc nghiên cứu chế định thời hiệu truy cứu TNHS vẫn rất cần thiết và quan trọng. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ một cách tương đối có hệ thống và đầy đủ về mặt lý luận những nội dung cơ bản về chế định thời hiệu truy cứu TNHS trên phương diện của cả hai ngành luật trong lĩnh vực tư pháp 6
- hình sự - luật hình sự và luật TTHS cũng như thực tiễn áp dụng nó trên thực tiễn, từ đó xác định những hạn chế, bất cập của chế định này để tiếp tục đề xuất những kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình lý luận của các quy phạm về chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong tương lai, cũng như đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả Luận văn đặt cho mình những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: 1. Phân tích làm rõ thêm một số vấn đề chung về thời hiệu truy cứu TNHS; 2. Nghiên cứu các điều luật, phân tích khái niệm, đặc điểm cơ bản của chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong BLHS năm 2015; 3. Phân tích những nội dung cơ bản của việc áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS trong BLTTHS, những hình thức thể hiện thời hiệu truy cứu TNHS trong BLTTHS năm 2015. 4. Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm PLHS về chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại trong các quy định của chế định thời hiệu truy cứu TNHS và thực tiễn áp dụng chúng nhằm đề xuất và luận chứng sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện PLHS Việt Nam về thời hiệu truy cứu TNHS trong tương lai và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS trên thực tiễn. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng trên thực tiễn bao gồm: 1. Những vấn đề lý luận chung về thời hiệu truy cứu TNHS. 7
- 2. Các quy định về thời hiệu truy cứu TNHS trong luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2014- 2018. 3. Định hướng tiếp tục hoàn thiện PLHS Việt Nam về thời hiệu truy cứu TNHS trong tương lai và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn. Tuy nhiên, do đây là một vấn đề khó và phức tạp, có tích chất nghiên cứu liên ngành, thêm vào đó thời gian nghiên cứu có hạn cũng như năng lực nghiên cứu, kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề của tác giả còn hạn chế, nên trong Luận văn này, tác giả chỉ cố gắng làm sáng tỏ những khía cạnh mà theo quan điểm của tác giả là quan trọng và chủ yếu hơn cả. 3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thời hiệu truy cứu TNHS trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ của hai ngành luật có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau và không thể tách rời là luật hình sự và luật TTHS. Do đây là công trình nghiên cứu có tính chất liên ngành đầu tiên về vấn đề này nên phần áp dụng thực tiễn tác giả chỉ giới hạn trong phạm vi địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Từ cơ sở nghiên cứu trên phạm vi địa bàn tỉnh Thanh Hóa, với đề tài mà tác giả đã chọn có thể là tiền đề, cơ sở cho việc xem xét nghiên cứu ở những công trình khoa học tiếp theo với phạm vi nghiên cứu rộng lớn hơn (có thể trên phạm vi toàn quốc). Về thời gian, Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật về thời hiệu truy cứu TNHS trong TTHS Việt Nam giai đoạn từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2018. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 8
- Cơ sở lý luận của Luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về tính nhân đạo của pháp luật. Đồng thời, cơ sở lý luận của Luận văn cũng dựa trên thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, luật TTHS, tội phạm học, triết học , những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên các tạp chí của một số nhà khoa học về tư pháp hình sự Việt Nam và nước ngoài. Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn này dựa trên việc sử dụng phương pháp luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử: nhìn đối tượng nghiên cứu trong một hệ thống các sự vật, hiện tượng có tác động qua lại và liên quan đến đối tượng cần nghiên cứu của Luận văn này, đồng thời không quên đặt nó trong một tiến trình lịch sử và pháp triển. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê trong sự nhìn nhận tổng thể và khách quan, không phiến diện một chiều. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn áp dụng pháp luật thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do Tòa án nhân dân tối cao hoặc (và) của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương ban hành có liên quan đến việc áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS trong luật TTHS Việt Nam; dựa vào những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền THTT để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự, TTHS và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong Luận văn. 5. Tính mới và những đóng góp về mặt khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học luật hình sự Việt Nam nghiên cứu liên ngành một cách có hệ thống và đồng bộ những vấn đề lý 9
- luận và thực tiễn về chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa) ở cấp độ một Luận văn thạc sỹ. Lần đầu tiên trong công trình nghiên cứu này có đề cập tới việc áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS trong TTHS Việt Nam trên cơ sở thực tiễn tại các cơ quan có thẩm quyền THTT tỉnh Thanh Hóa từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2018, qua đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật liên quan đến vấn đề thời hiệu truy cứu TNHS của các cơ quan THTT trong thời gian qua. Đặc biệt, Luận văn còn chỉ ra một số các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và những nguyên nhân của thực trang này để tìm ra giải pháp khắc phục. Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng, Luận văn đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về chế định thời hiệu truy cứu TNHS trên thực tiễn nhằm phục vụ yêu cầu của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng như việc giáo dục, cải tạo chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Xây dựng và đưa ra mô hình lý luận về chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong tương lai. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên đề cập một cách tương đối có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về thời hiệu truy cứu TNHS trong luật hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều kiện cụ thể của từng trường hợp áp dụng chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan có thẩm quyền THTT, cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế định thời hiệu truy cứu TNHS ở khía cạnh lập pháp, để giúp việc áp dụng chúng trong thực tiễn ngày một hoàn thiện hơn. Ngoài ra, Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học, luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên 10
- cao học chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS ở nước ta hiện nay. 7. Bố cục của luận văn Theo quan điểm của tác giả, Luận văn là hợp lý và logic khi được sắp xếp theo trình tự sau đây: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn sẽ bao gồm ba chương, đó là: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Chương 2: Các quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa (giai đoạn 2014 - 2018). Chương 3: Định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong tương lai và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn. 11
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HIỆU TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1.1. Cơ sở lý luận, ý nghĩa và lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 1.1.1 Cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc ghi nhận chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam Khi nghiên cứu bất cứ một sự vật, hiện tượng nào trên thế giới thì điều đầu tiên mà chúng ta phải tự đặt ra và phải trả lời đối với hai câu hỏi, hai vấn đề cơ bản trước tiên đó là: thứ nhất, cơ sở nào để sự vật, hiện tượng đó tồn tại và thứ hai, ý nghĩa tồn tại của nó là gì (?). Do đó, khi nghiên cứu về chế định thời hiệu truy cứu TNHS trong luật hình sự cũng không nằm ngoài quy trình đó. 1.1.1.1. Cơ sở lý luận Luật hình sự là bộ phận hợp thành hệ thống pháp luật nước ta, có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa một bên là chủ thể có hành vi phạm tội (bao gồm: người và pháp nhân thương mại) và bên kia là Nhà nước. Để thực hiện chức năng điều chỉnh đó, luật hình sự quy định tội phạm và hình phạt và kèm theo chúng là các chế định khác trong đó có chế định TNHS. TNHS là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do chủ thể thực hiện hành vi phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước. Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền thực hiện việc truy cứu TNHS đối với chủ thể phạm tội thông qua các biện pháp cưỡng chế như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và các biện pháp tư pháp hình sự khác áp dụng đối với chủ thể phạm tội. Việc áp dụng các biện pháp nêu trên đối với chủ thể phạm tội là thể hiện tính nghiêm khắc của luật hình sự so với các ngành luật khác. Nó phù hợp với một trong những nguyên tắc rất quan trọng của luật hình sự nước ta là không 12
- một hành vi phạm tội nào không bị phát hiện và không một chủ thể phạm tội nào không bị trừng trị. Song song với tính nghiêm khắc, luật hình sự còn có tính nhân đạo sâu sắc thể hiện thông qua nhiều quy định và chế định khác nhau trong đó có chế định thời hiệu truy cứu TNHS và miễn TNHS. Về nguyên tắc, khi một người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm thì phải chịu TNHS. Tuy nhiên, trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm thì thấy rằng trong một số trường hợp, dù hành vi phạm tội đã xảy ra, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội còn sống, tồn tại, hoạt động và hoàn toàn có đủ khả năng để chịu các biện pháp khác nhau của TNHS, nhưng do có những điều kiện nhất định mà Nhà nước thấy cần miễn TNHS cho họ hoặc không cần phải truy cứu TNHS đối với họ. Chính vì vậy, trong BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 cũng như BLHS năm 2015 đã có hai điều luật quy định về thời hiệu truy cứu TNHS và miễn TNHS. Thời hiệu truy cứu TNHS là khoảng thời gian (thời hạn) do Luật định mà khi đã qua thời gian đó thì không được truy cứu TNHS chủ thể phạm tội nữa. Tính nhân đạo của chế định thời hiệu truy cứu TNHS thể hiện ở chỗ, lẽ ra chủ thể phạm tội phải bị Nhà nước truy cứu TNHS nhưng vì những lý do nào đó từ phía các cơ quan bảo vệ pháp luật, TA mà tội phạm, chủ thể phạm tội đã không bị phát hiện và khi tội phạm, chủ thể phạm tội bị phát hiện thì đã qua thời hạn coi là thời hiệu truy cứu TNHS đối với tội phạm đó. Quy định thời hiệu truy cứu TNHS xuất phát từ quan niệm cho rằng, vì những nguyên nhân, mục đích, động cơ nào đó mà một chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng trong khoảng thời gian nhất định sau khi đã phạm tội, họ không phạm tội mới, đã ăn năn hối cải, thậm chí trở thành người tốt, người có ích, có uy tín trong xã hội. Đối với những người này không cần bắt họ phải chịu TNHS trước Nhà nước bởi lẽ chính bản thân họ đã tự giáo dục và cải tạo tốt, tại thời điểm đó tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đã không còn, cũng 13
- như bản thân người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Việc xử lý tội phạm theo luật hình sự phải có mục đích giáo dục và có tính nhân đạo. Thể hiện tinh thần này, BLHS khi quy định về mục đích của hình phạt đã khẳng định: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tôi phạm” [45, Điều 31]. Như vậy, việc xử lý tội phạm ngoài mục đích trừng trị còn mục đích giáo dục riêng và giáo dục chung [20, tr.9]. Do đó, theo tác giả việc áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS để không buộc người, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu TNHS ở đây là do mục đích của luật hình sự cũng như mục đích của hình phạt đã đạt được. Nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm là một trong những nguyên tắc cơ bản trong PLHS nước ta. Khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”; Điều 1 BLTTHS năm 2015 quy định: “Xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội ”. Để thực hiện nguyên tắc này, các cơ quan tiến hành điều tra, truy tố, xét xử trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình phải chủ động đấu tranh phòng, chống tội phạm, thường xuyên có sự phối hợp để nhằm phát hiện kịp thời mọi hành vi phạm tội, đồng thời xử lý những hành vi đó một cách nhanh chóng, công bằng, đúng pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có một số trường hợp vì lý do này hay lý do khác mà các cơ quan THTT đã bỏ quên một số hành vi phạm tội mà không truy cứu TNHS. Đối với những trường hợp này, nếu trong một thời gian nhất định, chủ thể phạm tội đã tự hối cải, làm ăn lương thiện, không phạm tội mới, không trốn tránh sự trừng trị của pháp luật thì việc truy cứu TNHS đối với họ lúc này sẽ là không cần thiết, bởi vì hành vi nguy 14