Luận văn Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thoi_han_cua_cac_bien_phap_ngan_chan_trong_to_tung.pdf
Nội dung text: Luận văn Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔ THỊ THU TRANG THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔ THỊ THU TRANG THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí Hà Nội - 2014 2
- Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch•a tõng ®•îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n T« ThÞ Thu Trang 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN CỦA CÁC 9 BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN 1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và thời hạn tố tụng 9 hình sự 1.1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 9 1.1.2. Thời hạn tố tụng hình sự 14 1.2. Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 16 1.2.1. Khái niệm thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố 16 tụng hình sự 1.2.2. Căn cứ quy định thời hạn các biện pháp ngăn chặn trong luật 18 tố tụng hình sự 1.2.3. Thời hạn biện pháp ngăn chặn với các thời hạn khác có liên 27 quan trong quá trình giải quyết vụ án 1.3. Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình 29 sự một số nước trên thế giới 1.3.1. Luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ 29 1.3.2. Luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức 31 1.3.3. Luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga 34 4
- Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN 38 TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG 2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật tố tụng 38 hình sự Việt Nam về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến 38 khi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam được ban hành lần đầu (năm 1988) 2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 40 năm 1988 cho đến nay 2.2. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về thời 41 hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 2.2.1. Quy định về thời hạn của biện pháp bắt người 41 2.2.2. Quy định về thời hạn của biện pháp tạm giữ 48 2.2.3. Quy định về thời hạn của biện pháp tạm giam 51 2.2.4. Quy định về thời hạn của biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú 56 2.2.5. Quy định về thời hạn của biện pháp bảo lĩnh 58 2.2.6. Quy định về thời hạn của biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có 60 giá trị để bảo đảm 2.3. Thực trạng áp dụng các quy định về thời hạn của các biện 62 pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự đến nay 2.3.1. Tình hình và kết quả áp dụng trong thực tiễn 62 2.3.2. Những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng thời hạn của các 63 biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 2.3.3. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập từ thực tiễn 73 5
- Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU 89 QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN CỦA BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 3.1. Nhóm giải pháp và kiến nghị về hoàn thiện các quy định của 89 pháp luật 3.1.1. Những nội dung quy định về thời hạn của biện pháp ngăn 89 chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự cần được sửa đổi, bổ sung 3.1.2. Tăng cường ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các 98 quy định của pháp luật về thời hạn của biện pháp ngăn chặn quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 3.2. Nhóm giải pháp và kiến nghị về nâng cao năng lực cho cơ 99 quan và người tiến hành tố tụng hình sự 3.2.1. Tăng cường lực lượng và nâng cao trình độ cho Điều tra 101 viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác 3.2.2. Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật mới về 103 tố tụng hình sự cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác 3.2.3. Tiến hành tổng kết thực tiễn, tổ chức rút kinh nghiệm về việc 104 áp dụng các quy định về thời hạn của biện pháp ngăn chặn quy định trong tố tụng hình sự 3.2.4. Giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi kinh nghiệm 105 với các nước về áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng về thời hạn của biện pháp ngăn chặn KẾT LUẬN 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110 6
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CAND : Công an nhân dân CQĐT : Cơ quan điều tra TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTHS : Tố tụng hình sự UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Các biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Nghiên cứu lịch sử lập pháp của Việt Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy các biện pháp ngăn chặn trong TTHS được quy định phong phú và đa dạng với nhiều tên gọi khác nhau, đồng thời có sự kế thừa và bổ sung hoàn thiện qua từng thời kỳ. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 trên cơ sở kế thừa có chọn lọc của BLTTH năm 1988 và các văn bản pháp luật về TTHS trước đây, trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan tư pháp đã quy định chặt chẽ hơn về các biện pháp ngăn chặn, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án. Các quy định về biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS đã tạo hành lang pháp lý cho việc áp dụng, góp phần tích cực vào việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng những biện pháp ngăn chặn, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và các văn bản pháp luật ghi nhận. Do đó, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn áp dụng. Thực tế áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS cho thấy còn nhiều vi phạm, tình trạng quá hạn tạm giữ, tạm giam còn xảy ra, việc áp dụng thời hạn tạm giam hiện nay còn quá dài, vượt mức quy định, thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú còn chưa đảm bảo.v.v đã ảnh hưởng lớn các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nguyên nhân của những vi phạm trên xuất phát từ việc các quy định của pháp luật chưa chặt chẽ, số lượng, chất lượng cán bộ làm công tác tiến hành TTHS còn thiếu, có nơi còn chưa chưa đáp ứng yêu cầu, chưa chú trọng bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, công tác kiểm 8
- tra, giám sát còn chưa được thường xuyên, kịp thời, hiểu biết pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế v.v Xuất phát từ tình hình thực tế đó, cần thiết phải nghiên cứu chuyên sâu các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này, và đó cũng là lý do, luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Do việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ có ý nghĩa về mặt TTHS mà còn có vai trò lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, nên đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về các biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Hiện nay, khoa học luật TTHS trong và ngoài nước đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn, nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ thống những khía cạnh lý luận chung nhất về các biện pháp ngăn chặn mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Ở Việt Nam, nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn, đã có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: Cấp độ luận văn Tiến sĩ có đề tài: - Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lượng cảnh sát nhân dân của tác giả Trịnh Văn Thanh, (Bộ Công an), 2000; - Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của Nguyễn Văn Điệp, Học viện Tư pháp, 2005; 9
- Ở cấp độ luận văn Thạc sĩ có đề tài: - Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Điệp, Học viện Tư pháp, 1996; - Tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, của Phạm Thanh Bình, Tòa án nhân dân tối cao, 1996; - Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam, của Vũ Gia Lâm, 2000; - Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp tạm giam, của Phạm Duy Trường, 2006; - Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Nguyễn Bá Phùng, 2010; - Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, của Lê Thanh Bình, 2010. Về đề tài khoa học cấp Bộ có Hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, của Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2008, Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình của các tác giả sau: - Những điều cần biết về bắt, giữ, khám xét, của Phạm Quang Mỹ và Phạm Hữu Kỳ, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1983; - Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật, của Phạm Quang Mỹ và Phạm Hữu Kỳ, Nhà xuất bản Pháp lý, 1993; - Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự; của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp - 1990, 1992, - Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Viện Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; - Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự, của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1994; 10
- - Các biện pháp ngăn chặn và vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, của TS. Nguyễn Vạn Nguyên, Nhà xuất bản Công an nhân dân (CAND), 1995; - Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Nguyễn Mai Bộ, Nhà xuất bản CAND, 1997. - Biện pháp ngăn chặn khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự, của ThS. Nguyễn Mai Bộ, 2004; - Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, của TS. Trần Quang Tiệp, 2005. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về các biện pháp ngăn chặn, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn đối với riêng thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS Việt Nam, nhìn một cách tổng quan có thể khẳng định chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu. Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" nêu rõ: "Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp luật phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ"; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" trong đó có nêu: "hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người" với nhiệm vụ đặt ra là "Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội" thì vấn đề hoàn thiện pháp luật TTHS về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn càng trở nên cần thiết. 11
- Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn áp dụng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và ngoài nước về các biện pháp ngăn chặn, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về các biện pháp ngăn chặn và thời hạn của các biện pháp ngăn chặn như: Khái niệm, ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn; Khái niệm thời hạn biện pháp ngăn chặn, căn cứ quy định thời hạn, thời hạn của các biện pháp ngăn chặn với các thời hạn khác có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án. - Khái quát sự phát triển của các quy định về biện pháp ngăn chặn cũng như thời hạn của các biện pháp ngăn chặn được trong lịch sử pháp luật TTHS của nước ta từ năm 1945 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu các quy định về thời hạn của từng biện pháp ngăn chặn cụ thể trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá; 12
- - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng; - Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, cũng như những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan tư pháp, những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn. Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một số nước trong khi nghiên cứu về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn. Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trên phạm vi cả nước. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong 10 năm (2004-2013). 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, chính sách TTHS, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X 13
- và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật TTHS như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học về luật TTHS và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS để xây dựng nên khái niệm thời hạn của các biện pháp ngăn chặn, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra ý nghĩa của việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong mối tương quan so sánh với một số chế định khác; - Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển của các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan tiến hành tố tụng; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng pháp luật; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao 14
- hiệu quả áp dụng pháp luật trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn. Chương 2: Quy định về thời hạn biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thời hạn của biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. 15
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN 1.1. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỜI HẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 1.1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn Trong bất kỳ xã hội nào, con người cũng luôn giữ vai trò quyết định đối với sự phát sinh, tồn tại và và phát triển của xã hội đó. Tác giả Phạm Thanh Bình đã chỉ ra rằng: "Tuy nhiên, chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người mới được đặt vào vị trí trung tâm của toàn bộ hoạt động xã hội. Mọi chiến lược, chính sách phát triển của Đảng ta đều nhằm tới mục đích vì con người, cho con người" [3]. Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) với vai trò là đại diện cho nhân dân, đã thể chế hóa ý chí và lợi ích của nhân dân thành pháp luật, do đó bảo vệ trật tự XHCN, bảo vệ quyền công dân là một trong những chức năng quan trọng của Nhà nước ta. Trên tinh thần kế thừa Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã quy định: 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. 2. Nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử khác xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con người [50, khoản 1, 2 Điều 22] Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân cũng đã được quy định tại Điều 6 BLTTHS năm 2003 và trở thành nguyên tắc quan trọng xuyên suốt toàn bộ quá trình TTHS. Tuy nhiên, trong hoạt động bảo vệ pháp luật nói chung và hoạt động chống tội phạm nói riêng vẫn cần thiết đặt ra vấn đề hạn chế một số quyền công dân, nhằm bảo đảm trật tự chung của cả xã hội. Cụ thể 16
- hơn, để công tác phát hiện tội phạm được nhanh chóng, chính xác, kịp thời xử lý tội phạm và hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật phải cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế nào đó hạn chế quyền và lợi ích của công dân, trong đó có các biện pháp ngăn chặn. Theo Từ điển Tiếng Việt "ngăn chặn" là "chặn lại ngay từ đầu, không để cho gây tác hại" [55]. Theo định nghĩa của Giáo trình của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, biện pháp ngăn chặn được hiểu là biện pháp cưỡng chế TTHS được quy định trong pháp luật TTHS, do người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc các cơ quan khác được giao một số hoạt động tố tụng áp dụng, công dân đối với bị can, bị cáo, người phạm tội tang, người có lệnh truy nã hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, không để họ cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như nhằm đảo bảo cho việc thi hành án [10, tr. 248]. 1.1.1.2. Mục đích của biện pháp ngăn chặn Mục đích của các biện pháp ngăn chặn là không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng Như vậy, biện pháp ngăn chặn không nhằm mục đích trừng trị như hình phạt mà nhằm mục đích phòng ngừa và có thể làm giảm hậu quả của tội phạm gây ra, để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, mặc dù khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng có thể hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại của người bị áp dụng. Do đó, mọi nhận thức áp dụng biện pháp ngăn chặn để trấn áp, trừng trị người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn đều là không đúng; như quan niệm của nhà Luật học I.I. Karpes: 17
- "Giải quyết việc lựa chọn áp dụng biện pháp ngăn chặn chính là thực hiện trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội" [54, tr. 49] hay các tác giả Phan Hữu Kỳ, Phạm Quang Mỹ là "có tác dụng trấn áp mạnh mẽ kẻ địch và các bọn tội phạm khác, thỏa mãn được yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng" [31]. 1.1.1.3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn Điều 79 BLTTHS năm 2003 quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bao gồm: - Để kịp thời ngăn chặn tội phạm: Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm xảy ra hoặc không để người phạm tội có điều kiện kết thúc hành vi phạm tội của mình gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm rất cần thiết và cấp bách vì mỗi tội phạm xảy ra đều có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hoặc nhiều quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Quy định áp dụng trong những trường hợp cụ thể như: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp khi có căn cứ để cho rằng một người nào đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003); hoặc bắt người phạm tội quả tang khi phát hiện một người đang thực hiện tội phạm (khoản 1 Điều 82 BLTTHS năm 2003). - Khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: Người đã thực hiện xong hành vi phạm tội sau khi đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố với tư cách bị can hoặc đưa ra xét xử với tư cách bị cáo, mà có căn cứ cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội nếu vẫn để họ tự do nên cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Cụ thể là: Bị can, bị cáo có những hành vi tích cực chuẩn bị thực hiện tội phạm mới và là bất kỳ loại tội nào; Bị can, bị cáo có hành vi đe dọa, trả thù người tố cáo, người làm chứng và có khả năng thực hiện sự đe dọa đó; Bị can, bị cáo trong nhiều trường hợp là những phần tử có ý thức chống đối chế độ sâu sắc, nhiều trường hợp lại là đối tượng côn đồ, hung hãn, có tiền án, tiền sự, thuộc loại tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Căn cứ này được thể hiện cụ thể trong quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; tạm giữ; tạm giam. 18
- - Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử: Những biểu hiện của việc gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử có thể là bị can, bị cáo trốn khỏi nơi cư trú; nhiều lần không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng mà không có lý do chính đáng; xóa bỏ dấu vết tội phạm; tiêu hủy chứng cứ; làm thay đổi tài liệu liên quan đến tội phạm; mua chuộc người bị hại, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch; thông đồng cấu kết với nhau đối phó lại hoạt động điều tra, truy tố, xét xử Căn cứ này được hiểu là bị can, bị cáo đã có hành vi gây cản trở hoặc có khả năng thực hiện ngay tức khắc việc gây cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đối tượng để áp dụng căn cứ này thường là bị can, bị cáo, người bị truy nã; Cũng có thể áp dụng đối với người chưa có quyết định khởi tố bị can như một người thực hiện tội phạm và sau đó bỏ trốn hoặc sau khi phát hiện dấu vết tội phạm trên người hoặc nơi ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và có căn cứ cho rằng người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ, cụ thể là những trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang theo quy định của BLTTHS. - Để đảm bảo thi hành án: Thi hành án là giai đoạn cuối cùng của TTHS, phát huy hiệu lực của bản án được thi hành trong thực tế. Việc cản trở thi hành án được thể hiện: bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng, không có nghề nghiệp hoặc bị cáo có nhân thân xấu như có tiền án, tiền sự, đối tượng côn đồ hung hãn, Khi có căn cứ cho rằng bị cáo cản trở việc thi hành án thì có thể áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn thích hợp như: Tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lãnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. 1.1.1.4. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn Thứ nhất, các biện pháp ngăn chặn thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm: Tội phạm trực tiếp hoặc hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế - chính trị và xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tự do, 19
- danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lí nghiêm minh nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng. Thứ hai, các biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông thường, người phạm tội luôn tìm đủ mọi cách để có thể nhanh chóng đạt được mục đích phạm tội lại vừa có thể che giấu, trốn tránh được sự phát hiện và trừng phạt của pháp luật, do đó, cần thiết phải ngăn chặn kịp thời ngay từ đầu các hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lý người phạm tội. Như vậy, các biện pháp ngăn chặn góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án. Thứ ba, các biện pháp ngăn chặn bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại ; thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN: Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong việc áp dụng biện pháp chăn chặn đều phải bị phát hiện và khắc phục kịp thời. Mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng biện pháp ngăn chặn gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân đều bị xử lý nghiêm minh. Như vậy, quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm chỉnh những biện pháp ngăn chặn trong TTHS là sự thể hiện tập trung và rõ nét nhất sự dân chủ, tính ưu việt của chế độ XHCN của Nhà nước ta. 1.1.1.5. Các biện pháp ngăn chặn Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định các biện pháp ngăn chặn bao gồm: Bắt người (với bốn trường hợp bắt: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; 20
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người có lệnh truy nã); Tạm giữ; Tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lĩnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Mỗi biện pháp ngăn chặn có những quy định khác nhau về đối tượng, thẩm quyền, thủ tục áp dụng, do đó tùy từng trường hợp cụ thể để lựa chọn biện pháp ngăn chặn phù hợp sẽ mang lại ý nghĩa tích cực và hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. 1.1.2. Thời hạn tố tụng hình sự Pháp luật về TTHS đều có quy định về thời hạn trong từng giai đoạn tố tụng cụ thể nhằm đảm bảo các hành vi tố tụng được thực hiện một cách chính xác, khách quan. Trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự, BLTTHS đã quy định về thời hạn giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, đảm bảo mọi tội phạm được phát hiện kịp thời để từ đó quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 103 BLTTHS năm 2003, thời hạn này là hai mươi ngày đối với sự việc đơn giản, hai tháng đối với vụ việc phức tạp. Thời hạn điều tra vụ án hình sự được quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2003 như sau: Không được quá bốn tháng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án, trong thời hạn mười ngày trước khi hết hạn điều tra, CQĐT phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Trong suốt giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chặt chẽ việc kiểm sát điều tra của CQĐT, đồng thời thực hiện một số hoạt động điều tra trong thời hạn mà pháp luật cho phép v.v Có thể thấy rằng, ở mỗi giai đoạn TTHS, pháp luật đều quy định chặt chẽ một thời hạn nhất định, không có hoạt động tố tụng nào lại không bị ràng buộc bởi một thời hạn cụ thể. Việc quy định thời hạn tố tụng nhằm để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có ý thức tinh thần trách nhiệm về các hoạt động của mình đảm bảo đúng thời gian quy định, chống lại sự tùy tiện và những biểu hiện vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. 21