Luận văn Thi hành án treo từ thực tiễn Quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thi hành án treo từ thực tiễn Quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thi_hanh_an_treo_tu_thuc_tien_quan_11_thanh_pho_ho.pdf
Nội dung text: Luận văn Thi hành án treo từ thực tiễn Quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THỊ YẾN OANH THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN QUẬN 11 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, NĂM 2021 . 1
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THỊ YẾN OANH THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN QUẬN 11 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGHIÊM XUÂN MINH HÀ NỘI, NĂM 2021 1
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nêu trong luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác, số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác và trung thực. Tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem xét cho phép tôi được bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tác giả luận văn Huỳnh Thị Yến Oanh
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN TREO 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án treo. 8 1.2. Quy định pháp luật về thi hành án treo 12 1.3. Chủ thể thi hành án treo, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong thi hành án treo 19 1.4. Mục đích, ý nghĩa của thi hành án treo 23 1.5. Các yếu tố đảm bảo hiệu quả thi hành án treo. 23 Chương 2: TÌNH HÌNH CÓ LIÊN QUAN THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN TREO Ở QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, TỪ NĂM 2015 – THÁNG 6 NĂM 2020 26 2.1. Tình hình có liên quan đến thi hành án treo trên địa bàn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh 26 2.2. Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn quận 11, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020 31 2.3. Nhận xét đánh giá về thi hành án treo trên địa bàn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh 40 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 51 3.1. Những tác động ảnh hưởng đến việc thi hành án treo tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. 51 3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án treo 54 KẾT LUẬN 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân Tối cao THAHS: Thi hành án hình sự UBND: Ủy ban nhân dân VKS: Viện kiểm sát
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Bảng Bảng số lượng các bị cáo được hưởng án treo trên địa 30 bàn Quận 11, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 1.1 đến tháng 6 năm 2020.
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án hình sự (THAHS) là một giai đoạn quan trọng trong xử lý tội phạm, đưa phán quyết có hiệu lực pháp luật của Tòa án vào thực hiện trong thực tế. Thi hành án tốt đảm bảo hiệu quả cả quá trình tố tụng, là thước đo uy tín của hệ thống tư pháp hình sự và lòng tin của nhân dân vào trong hệ thống đó. Thi hành án là giai đoạn cuối cùng của trình tự tố tụng nhằm đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất và đúng quy định, nhằm mục đích góp phần răn đe, phòng ngừa chung về tội phạm. Đồng thời, đạt mục đích cao hơn là giáo dục, cảm hóa, hình thành ý thức thượng tôn luật pháp, học tập, lao động để trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội của người chấp hành án. Trong lý luận, vấn đề thi hành án hình sự nói chung, thi hành án treo nói riêng chưa được nghiên cứu nhiều. Nhiều vấn đề lý luận vẫn chưa được giải quyết triệt để; thực tiễn thi hành án treo vẫn con những bất cập hạn chế, vướng mắc. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục nghiên cứu kể cả góc độ lý luận, pháp luật và thực tiễn thi hành án treo, qua đó đề ra các giải pháp bảo đảm hiệu quả thi hành án treo treo tại Quận 11, thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, hầu hết mới chỉ tập trung vào công tác thi hành hình phạt tù, tử hình, trục xuất mà chưa quan tâm đúng đến việc tổ chức thi hành các hình phạt khác, đặc biệt là hình phạt tù cho hưởng án treo. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo đã được ban hành ở những thời điểm khác nhau nên còn bất 1
- cập, chưa đồng bộ, nhiều nội dung chưa được quy định cụ thể, gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn thi hành. Việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Song song đó, qua thực tiễn cho thấy, hệ thống các cơ quan có thẩm quyền trong thi hành án chưa được phân công, phối hợp chặt chẽ, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm trong quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát nhất là vai trò, trách nhiệm của Tòa án, Ủy ban nhân dân (UBND), Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; Cơ chế giám sát, chế tài cưỡng chế khi người bị kết án không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm, có vi phạm chưa được đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tái phạm; Công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ chính sách, nâng cao trình độ cho cán bộ thực thi và cơ sở vật chất cho công tác thi hành án chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn để ra. Những tồn tại và hạn chế nêu trên đã làm giảm hiệu quả của công tác thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo trên địa bàn Quận 11 nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng về công tác thi hành án hình sự tại Ủy ban nhân dân (UBND) các Phường, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp nhằm không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả đối với công tác quản lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo tại UBND các Phường. Để làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo và do bản thân tôi công tác tại Ủy ban nhân dân 2
- Phường từ những lý luận và thực tiễn cần thiết nêu trên tôi chọn đề tài: “Thi hành án treo từ thực tiễn Quận 11, thành phố Hồ Chí Minh”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thi hành hình phạt có vị trí, vai trò quan trọng trong chính sách hình sự của mỗi quốc gia, thể hiện được hiệu quả đạt được của cả hệ thống tư pháp, nên trong những năm qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở nhiều mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về THAHS và hệ thống các hình phạt trước hết là hoạt động THAHS được phân tích trong một số tài liệu tham khảo như về sách và các bài viết đăng trên báo, tạp chí như: Luật thi hành án hình sự năm 2019. Về Sách tham khảo: Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư Pháp, năm 2006, của tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh – PGS.TS Nguyễn Mạnh Khang chủ biên. Về Sách chuyên khảo: Một số vấn đề về thi hành án hình sự, Nxb Công an nhân dân, năm 2002 của TS Trần Quang Tiệp. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Về tổ chức, quản lý công tác thi hành án và báo cáo kết quả tọa đàm về mô hình quản lý công tác thi hành án một số nước trên thế giới, của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương năm 2013. Chuyên đề khoa học: Công tác thi hành án hình sự và việc tổ chức, qảun lý công tác thi hành án hình sự - thực trạng và phương hướng hoàn thiện mô hình quản lý, của Nguyễn Ngọc Anh, năm 2013 Hội thảo khoa học: Chính sách pháp luật thi hành án hình sự ngày 11/4/2019, của Học viện khoa học và Xã hội. Các công trình nghiên cứu hoặc các bài viết trên chủ yếu phân tích và bình luận về chế định án treo hoặc có đề tài không dừng lại ở phần lý luận mà 3
- có đánh giá thực trạng về thi hành án hình sự đối với người được hưởng án treo ở địa phương mình, song chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực trạng về thực hiện pháp luật, lý giải các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện pháp luật, các biện pháp, giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo nói chung và ở Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép việc khẳng định nghiên cứu đề tài “Thi hành án treo từ thực tiễn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh” là đòi hỏi khách quan cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật về án treo, luận văn làm rõ thực tiễn thi hành án treo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án treo tại cơ sở. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trong nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận văn còn nghiên cứu các nhiệm vụ trọng tâm cụ thể như sau: Nghiên cứu đánh giá thực tiễn thi hành án treo trên cơ sở có so sánh, đối chiếu với tình hình thực tiễn thi hành án từ thực tiễn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, khó khăn trong việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo trên địa bàn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020. 4
- Trên cơ sở nghiên cứu đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Người được hưởng án treo được quuy định tại Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Luật Thi hành án hình sự năm 2019. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận Văn tập trung nghiên cứu, giải quyết những vấn đề xung quanh lý luận và thực tiễn thi hành án treo trên địa bàn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên nhân những tồn tại, hạn chế để đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành trong thực tiễn. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành hành án treo từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác thi hành án và chiến lược cài cách tư pháp đến năm 2020 và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị. Phương pháp nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: So sánh, phân tích, chứng minh, tổng hợp, hệ thống hóa, diễn giải, đối chiếu trong khi trình bày luận văn, ví dụ như tác giả sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích khi trình bày sự hình thành và phát triển chế định án treo, có so sánh với một số khái niệm trong nước và trên thế giới. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo của các ngành Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trong 5
- những năm 2015-2020 và thông tin, tài liệu trên mạng Internet để phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh hoạt động thi hành án treo từ thực tiễn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Tác giả phân tích lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án treo từ thực tiễn quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó nêu ra một số khái niệm liên quan đến thực hiện pháp luật thi hành án treo, với mục tiêu bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời qua đó chỉ ra các đặc điểm cơ bản nhất của thi hành án treo. Vì vậy, việc nghiên cứu về mặt lý luận, đánh giá thực tiễn thi hành án treo ở một địa bàn nhất định để hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự, nhận thức và thực thi thống nhất quy định của pháp luật là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận cũng như thực tiễn quan trọng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Tác giả trình bày thực trạng hiện thực pháp luật thi hành án treo từ thực tiễn quận 11, Thành phố Hồ Chí minh, trên những kết quả đạt được, những yếu kém và các nguyên nhân khách quan, chủ quan. Từ thực trạng nêu ra tác giả xây dựng các quan điểm và nêu ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng pháp luật thi hành án treo, kiến nghị sửa đổi các qui định của pháp luật thi hành án nói chung và thi hành án treo nói riêng. Việc nghiên cứu đề tài thánh công sẽ là đóng góp cho sự phát triển của khoa học luật hình sự và tố tụng hình sự, góp phần định hướng áp dụng pháp luật về thi hành án treo the quy định của Pháp luật Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu luận văn bao gồm phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn “Thi hành án treo từ thực tiễn quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh” có 3 chương cụ thể như sau: 6
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về thi hành án treo. Chương 2: Tình hình có liên quan và thực trạng thi hành án treo ở Quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020 Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa bàn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN TREO 1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án treo. Thứ nhất, về khái niệm thi hành án treo. Án treo là một biện pháp chấp hành hình phạt tù và được quy định cụ thể về án treo và điều kiện được hưởng án treo tại Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cụ thể như sau: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự, áp dụng đối với người bị phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù tại trại giam, nhằm khuyến khích họ tự giác cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội. Án treo ra đời từ rất sớm, trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu dài của khoa học hình sự trong sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 tới nay, vẫn còn nhiều cách hiểu. Việc thi hành án đối với người được hưởng án treo được bắt đầu khi bản án và quyết định hình sự có hiệu lực pháp luật, hoặc khi chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay theo quy định của pháp luật, được kết thúc khi bản án, quyết định hình sự được thi hành xong và người bị kết án đã được xóa án tích, bao gồm cả kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án hình sự. 8
- Để hiểu hơn hoạt động thi hành án đối với người được hưởng án treo thì chúng ta sẽ tìm hiểu một số quy định pháp luật về chế định này. Trên thực tế có nhiều quan điểm về án treo cụ thể như sau: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt không quá ba năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù” quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế, nguyên Chánh án tòa Hình sự – Tòa án nhân dân tối cao. “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách quy định của Luật Thi hành án hình sự” Căn cứ Điều 65 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015. Từ những quan điểm trên, án treo là "biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, không buộc họ phải chấp hành hình phạt tù khi có đầy đủ những căn cứ và điều kiện nhất định do pháp luật hình sự quy định nhằm khuyến khích họ cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội, được áp dụng cho người bị kết án phạt tù không quá ba năm, bên cạnh đó cũng cảnh cáo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách họ sẽ phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo của bản án đã vi phạm”. Thứ hai, Về khái niệm thi hành án. Nhằm góp phần lập lại trật tự kỷ cương xã hội nên Tòa án là cơ quan xét xử, nhân danh Nhà nước ra các phán quyết. Song phán quyết có được thi hành trong thực tế hay không nhờ một phần rất lớn vào hoạt động thi hành án. 9
- Theo từ diển Tiếng Việt, thi hành là : “Thực hiện điều đã chính thức quyết định” [32, tr.1559]. Còn thi hành án được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo trình tự thủ tục được pháp luật quy định nhằm thưc hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án [36, tr.706]. Hiện nay, xung quanh bản chất pháp lý của khái niệm thi hành án, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo quan điểm thứ nhất cho rằng: Thi hành án là một giai đoạn tố tụng, hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử, tiếp theo là quá trình xét xử và chịu sự chi phối của cơ quan tố tụng, đặc biệt là Tòa án. Thi hành án nhằm mục đích thực thi các phán quyết của Tòa án , đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành. Quan điểm thứ hai cho rằng: Thi hành án là hoạt động tư pháp bởi các lý do sau đây: Thứ nhất, cần khẳng định thi hành án là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử, hoạt động xét xử là hoạt động tiền đề của hoạt động thi hành án. Thi hành án là giai đoạn diễn ra ngay sau giai đọan xét xử và các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành hoạt động thi hành án. Thứ hai, mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối như trên, nhưng ở giai đoạn thi hành án, tính chất tố tụng đã chấm dứt, bởi lẽ khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, chức năng xét xử đã hoàn thành, chân lý đã được làm sáng tỏ, có tội hay vô tội, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng. 10
- Ở thời điểm này, quyền lực của Nhà nước mới chỉ được thể hiện trên các bản án, quyết định công nhận các sự kiện pháp lý, các quan hệ pháp luật hoặc buộc người thi hành án, chứ việc công nhận này chưa được thực hiện trên thực tế. Để thực hiện nhiệm vụ đưa các phán quyết của Tòa án trở thành hiện thực trên thực tế, cơ quan thi hành án phải có sự phối hợp với các cơ quan, trong đó có Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án, nhìn chung không thuộc chức năng của cơ quan xét xử, điều này được thể hiện rõ nhất trong hạt động thi hành án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động. Thứ ba, Về khái niệm Thi hành án treo. Thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát, giáo dục người bị kết án phạt tù được hưởng án treo trong thời gian thử thách. Theo quy định tại Điều 85 Luật thi hành án hình sự 2019 thì việc thi hành quyết định thì hành án treo được thực hiện như sau: Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có nhiệm vụ triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là người chưa thành niên đến trụ sở Cơ quan thi hành án để ấn định thời gian người được hưởng án treo có mặt tại ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc và cam kết việc chấp hành án, lập hồ sơ chấp hành án. Hồ sơ thi hành án bao gồm: Cam kết của người được hưởng án treo; Quyết định thi hành án treo; Bản án đã có hiệu lực phập luật. 11
- Đối với người được hưởng án treo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bản cam kết của người đó phải có sự xác nhận của người đại diện hợp pháp; Tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án treo. 1.2. Quy định pháp luật về thi hành án treo 1.2.1. Thi hành án treo, đặc điểm thi hành án treo Trên thế giới, mỗi quốc gia có quy định khác nhau về chế định này, chẳng hạn luật hình sự của Anh và Mỹ coi án treo là trường hợp hoãn tuyên án kèm theo biện pháp bảo lĩnh hoặc biện pháp bảo đảm bằng tiền. Luật hình sự của Pháp, Bỉ và một số nước coi án treo là việc hoãn hoặc miễn chấp hành hình phạt. Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây coi án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, nhưng cũng có nước coi án treo là hình phạt chính như Cộng hòa dân chủ Đức. Ở nước ta, thi hành án treo được qui định ngay từ những năm đầu của Nhà nước dân chủ Nhân dân và tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù chưa có văn bản luật nào đưa ra định nghĩa chính thức án treo là gì, song nhìn chung các văn bản đều đưa ra những qui định về án treo, điều kiện được hưởng án treo. Trải theo dòng lịch sử Việt Nam, các quy định về án treo có một số thay đổi và ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Văn bản đầu tiên quy định về án treo là Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về tổ chức của Tòa án quân sự thiết lập tại bắc, Trung và Nam Bộ, trong đó: Khi xét xử hình phạt tù, Vì những lý do đáng khoan hồng thì Tòa án có thể cho phạm nhân được hưởng án treo. Bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành án. 12
- Trong thời gian từ ngày tuyên án năm năm, nếu phạm nhân không bị tòa án kết tội thêm lần nữa về một tội mới thì bản án đã tuyên sẽ bị hủy đi, coi như không có. Trong thời gian năm năm bị tuyên án, nếu phạm nhân lại bị kết án thì bản án treo sẽ được thi hành. Bộ luật hình sự 1985, BLHS 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, BHLS 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xác định án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. So với BLHS năm 1985, thi hành án treo trong BLHS năm 2015 có nhiều thay đổi, trong đó mức hình phạt tù xem xét cho hưởng án treo từ 5 năm xuống còn 3 năm tù; điều kiện thử thách không vi phạm tội mới thay thế cho điều kiện không phạm tội mới do cố ý hoặc không phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù. Thời gian qua, đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các quan điểm về án treo và mặc dù có khác nhau trong cách đặt vấn đề nhưng nhìn chung các tác giả đều thống nhất với sự hướng dẫn, giải thích của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP ngày 18/10/1990 và mới đây nhất là Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018, có thể thống nhất xác định: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. Trên cơ sở đó, tác giả rút ra nhận xét về đặc điểm thi hành án treo như sau: Thứ nhất: Pháp luật Hình sự Việt Nam quy định bảy hình phạt chính trong đó có hình phạt tù, còn án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù 13
- khi người phạm tội có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành. Thứ hai: Người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách bằng 02 lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới một năm và không được quá 05 năm. lần mức hình phạt tù, nhưng được dưới một năm và không qua 01 năm. Thứ ba: Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo phạm tội mới thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, người được hưởng án treo buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án mà Hội đồng xét xử đã cho hưởng án treo trước đó cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện. Việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn, sinh sống chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi người được hưởng án treo theo làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú và gia đình người đó. Từ khái niệm, bản chất của án treo và kết quả phân tích những đặc điểm trên, tác giả rút ra khái niệm của thi hành án án treo là một bộ phận của THAHS, nhằm đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế và đạt được hiệu quả xã hội cao, bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,mang tính nhân đạo sâu sắc, do cơ quan không chuyên trách, tổ chức xã hội, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, kết hợp chặt chẽ giữa trừng trị và giáo dục, khuyến khích, tạo điều kiện để người chấp hành án treo tự lao 14
- động, học tập, cải tạo trở thành người lương thiện và nhanh chóng tái hòa nhập xã hội trong môi trường sống bình thường. 1.2.2. Nội dung thi hành án treo Tòa án mới được áp dụng án treo đối với người bị phạt tù là những yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc do pháp luật hình sự quy định đối với người đó mà chỉ khi nào có đầy đủ những căn cứ đó thì mới được áp dụng án treo đối với họ. Căn cứ Điều 65 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì căn cứ vào những điều kiện sau để Tòa án quyết định cho hay không cho bị cáo được hưởng án treo: Theo quy định tại Điều 9 BLHS năm 2015: Mức phạt tù không quá 03 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng; Chưa có tiền án tiền sự, có nhân thân tốt; Không có tình tiết tăng nặng, có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên mà trong đó không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 và có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Trường hợp vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015; Có nơi làm việc ổn định, nơi cư trú rõ ràng để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục; Trường hợp nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù. 15
- Mức hình phạt tù đối với người phạm tội. Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt không quá 03 năm tù thì cũng có thể được hưởng án treo. Người bị áp dụng hình phạt tù không quá 03 năm, không phân biệt tội gì thì có thể được xem xét cho hưởng án treo. Khi Tòa án tuyên mức hình phạt tù phải dựa trên cơ sở tuân thủ những căn cứ để quyết định hình phạt, đồng thời tuân theo những nguyên tắc của pháp luật hình sự Việt Nam để áp dụng hình phạt cho từng trường hợp cụ thể thì phải dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tránh những trường hợp vì đáng lẽ bị cáo được hưởng án treo nhưng Tòa án có ý định từ trước là không cho hưởng án treo nên Tòa án đã tuyên mức án cao hơn 03 năm để không cho bị cáo được hưởng án treo hoặc có ý định từ trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo nên Tòa án tuyên mức án thấp hơn thời hạn 03 năm tù giam để cho người đó được hưởng án treo. Đối với nhân thân người phạm tội. Người phạm tội có khả năng tự cải tạo, giáo dục cao từ đó cho thấy người phạm tội có nhân thân tốt. Chính vì có nhân thân tốt nên giúp họ đạt được mục đích của hình phạt là hỗ trợ cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả cũng như giáo dục các thành viên khác trong xã hội tuân thủ pháp luật. Căn cứ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Theo Sổ tay Thẩm phán, tình tiết này được hiểu là trường hợp tội phạm đã gây ra hậu quả, gây ra thiệt hại nhưng tự nguyện (không do cưỡng chế, ép buộc) khắc phục hậu quả, sửa chữa, bồi thường thiệt hại do mình gây ra. 16
- Ngoài ra còn có Tình tiết “người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả, sửa chữa, bồi thường thiệt hại do mình gây ra” tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Người được hưởng án treo phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015. Trường hợp hành vi phạm tội chưa kịp gây ra hậu quả (thiệt hại) cho các quan hệ xã hội mà Luật hình sự bảo vệ. Tình tiết “ Người Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn hoặc chưa gây thiệt hại” (ví dụ: người phạm tội bị bắt giữ và thu lại chiếc xe máy khi đang dắt chiếc xe máy lấy cắp được ra khỏi nhà). Trường hợp hành vi phạm tội đã gây ra hậu quả (thiệt hại) cho các quan hệ xã hội mà Luật hình sự bảo vệ nhưng mức độ thiệt hại không đáng kể là gây thiệt hại không lớn (ví dụ: cơ quan điều tra đã thu lại chiếc xe máy mất cắp vẫn trong tình trạng như cũ và trả cho chủ sở hữu một ngày sau khi bị mất trộm). Những tình tiết giảm nhẹ đối với “Người phạm tội là người có công với cách mạng”. Cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ hoặc là người có công giúp đỡ cách mạng (tình tiết này trước đây theo BLHS cũ được áp dụng theo khoản 2); Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng lao động trong thời kỳ kháng chiến; Bệnh binh; người hưởng chính sách như thương binh; Thương binh. Người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945; Người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày tổng khởi nghĩa tháng 8/1945; Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân; 17
- Người bị nhiễm chất độc hóa học do hoạt động kháng chiến; Người bị địch bắt, tù, đày do hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến; Người bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc. Nơi cư trú rõ ràng đối với người phạm tội được hiểu như sau: Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo. Còn nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Những trường hợp không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù. Khi xét việc cho người bị kết án được hưởng án treo, Hội đồng xét xử chủ yếu dựa vào 3 căn cứ mức phạt tù, nhân thân của người bị kết án và các tình tiết giảm nhẹ, phân tích từng căn cứ và đánh giá các căn cứ đó, đồng thời đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa và chống tội phạm ở từng loại tội trong môi trường xã hội cụ thể của từng thời kì để có thể kết luận về khả năng tự giáo dục, cải tạo của người bị kết án phạt tù với sự giúp đỡ của gia đình và xã hội để từ đó xác định chính xác việc bắt người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù hay cho họ được hưởng án treo. Chỉ khi nào xét thấy nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mà ngược lại, còn có tác dụng tốt cho việc cải tạo, khuyến khích người phạm tội sửa chữa thì mới cho họ hưởng án treo. 18
- Cần tránh tình trạng cho người được hưởng án treo một cách tuỳ tiện, thiếu căn cứ, không được nhân dân đồng tình ủng hộ và làm giảm tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung của án treo. 1.3. Chủ thể thi hành án treo, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong thi hành án treo 1.3.1. Chủ thể thi hành án treo Xuất phát từ bản chất tư pháp – hành chính và tính xã hội rộng lớn của hoạt động thi hành án treo nên có nhiều chủ thể tham gia trong quá trình thi hành án. Mỗi chủ thể có quyền hạn, trách nhiệm khác nhau, song các chủ thể đều cùng chung mục đích là cảm hóa, giám sát, giáo dục và giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để người bị kết án cải tạo tốt, trở thành người lương thiện trong điều kiện cuộc sống bình thường ở nơi cư trú, lao động, học tập. Có các loại chủ thể như sau: Đối với Tòa án nhân dân: Tòa án là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án còn là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tố tụng trong giai đoạn thi hành án hình sự như ra quyết định thi hành án. Căn cứ điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì năm 2013 và luật tổ chức Tòa án năm 2014 quy định; Xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù (Điều 238) Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2004. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức giám sát giáo dục người bị kết án treo: Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về giám sát, giáo dục người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân; quản lý người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người 19