Luận văn Thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam

pdf 89 trang vuhoa 25/08/2022 7760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_thanh_toan_va_phan_chia_di_san_thua_ke_trong_phap_l.pdf

Nội dung text: Luận văn Thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ VÂN GIANG THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ MÃ SỐ : 60 3830 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Phạm Công Lạc HÀ NỘI - NĂM 2007 2
  2. MỤC LỤC TRANG Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời mở đầu CHƯƠNG 1: Lý luËn chung vÒ thanh to¸n vµ ph©n chia di s¶n 1 1.1.Quyền thừa kế và Di sản thừa kế 6 1.1.1. Quyền thừa kế 6 1.1.2. Di sản thừa kế 8 1.1.3. Hình thức thừa kế 14 1.2. Thanh toán di sản 17 1.2.1. Phạm vi thanh toán nợ của di sản 17 1.2.2. Trách nhiệm thanh toán nợ của di sản 22 1.3. Phân chia di sản 24 1.3.1. Thiết lập khối di sản đƣợc phân chia 24 1.3.2. Thời điểm phân chia 27 CHƯƠNG 2: Thanh to¸n vµ ph©n chia di s¶n thõa kÕ trong ph¸p luËt 29 d©n sù ViÖt Nam 2.1. Thanh toán di sản 29 2.1.1. Trách nhiệm thanh toán nghĩa vụ tài sản và các chi phí liên quan 29 đến thừa kế 2.1.1.1. Thực hiện việc thanh toán khi di sản chƣa đƣợc phân chia 29 2.1.1.2. Thực hiện việc thanh toán khi di sản đã đƣợc phân chia 34 2.1.2. Ngƣời đƣợc thanh toán nghĩa vụ tài sản và các chi phí liên quan 35 đến thừa kế 2.1.3. Thứ tự ƣu tiên thanh toán 37 2.2. Phân chia di sản 44 2.2.1. Nội dung việc phân chia di sản 44 4
  3. 2.2.1.1. Công bố di chúc 45 2.2.1.2. Họp mặt những ngƣời thừa kế 46 2.2.1.3 Ngƣời quản lý di sản và ngƣời phân chia di sản 47 2.2.2. Phân chia di sản theo di chúc 48 2.2.2.1. Các trƣờng hợp phân chia di sản theo di chúc 48 2 2 2 2. Ngƣời thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc 49 2. 3. Phân chia di sản theo pháp luật 51 2. 3.1. Ngƣời thừa kế theo hàng thừa kế 52 2.3 2. Ngƣời thừa kế thế vị 53 2.3.3. Phân chia di sản trong trƣờng hợp có ngƣời thừa kế mới 54 2.3.4. Trƣờng hợp có ngƣời thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế 55 2.3.5. Việc thừa kế trong trƣờng hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung, 55 đang xin ly hôn, đã kết hôn với ngƣời khác 2.4. Hạn chế việc phân chia 56 CHƯƠNG 3:Thực tiễn áp dụng, nguyên nhân và một số kiến nghị nhằm 58 hoàn thiện các qui định của pháp luật về thanh toán và phân chia di sản thừa kế 3.1. Tình hình giải quyết các thanh chấp về thừa kế tại Tòa án trong 58 những năm qua 3.1.1. Xác định chí phí bảo quản di sản, thanh toán tiền thù lao cho 60 ngƣời quản lý di sản 3.1.2. Xác định thời điểm định giá di sản 64 3.1.3. Phân chia di sản bằng hiện vật hay bằng giá trị 69 3.1.4. Xác định di sản phân chia trong khối tài sản chung 72 3.2. Những nguyên nhân dẫn đến sai sót trong quá trình giải quyết c¸c 74 tranh chÊp thanh to¸n vµ ph©n chia di s¶n 3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định thanh toán và phân 77 chia di sản thừa kế KÕt luËn 81 5
  4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 6
  5. LỜI MỞ ĐẦU 1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI BLDS năm 1995 của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đƣợc Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995 tại kỳ họp thứ 8 Khoá IX là một bƣớc ngoặt của pháp luật dân sự Việt Nam trong thời kỳ đổi mới của đất nƣớc, với nhiệm vụ “bảo vệ quyền, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”. Tiếp đến tại kỳ họp thứ 7, khoá XI ngày 14 tháng 6 năm 2005 Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua BLDS năm 2005. Đây là BLDS đã quán triệt và kịp thời thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001; Xây dựng BLDS này là luật chung điều chỉnh các quan hệ xã hội đƣợc xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự chịu trách nhiệm, tự thoả thuận giữa các chủ thể; hạn chế sự can thiệp mang tính hành chính của Nhà nƣớc vào các quan hệ dân sự, tôn trọng và phát huy sự tự thoả thuận, tự định đoạt của các chủ thể. BLDS năm 2005 đã rút gọn từ 838 Điều của BLDS năm 1995 xuống còn 777 Điều và vẫn đƣợc chia thành bẩy phần. Toàn bộ phần thứ tƣ của BLDS qui định riêng về Thừa kế gồm từ Chƣơng XXII đến Chƣơng XXV cộng với Chƣơng XXXIII thừa kế quyền sử dụng đất, ngoài ra còn khoản 2- Điều 742 trong phần Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, Điều 767 trong phần Quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài. Vậy, có tất cả hơn 60 Điều luật qui định về thừa kế. Tuy nhiên, khi giải quyết các tranh chấp về thừa kế không chỉ áp dụng BLDS mà còn bị chi phối bởi nhiều các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực khác nhƣ Luật Hôn nhân và gia đình, Luật đất đai Do vậy, một số qui định trong chế định Thừa kế đã đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các văn bản pháp luật đó và phù hợp với thực tế vì các tranh 7
  6. chấp về thừa kế đang ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Riêng phần qui định về Thanh toán và phân chia di sản thừa kế đã có một số những điểm đƣợc sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng những phản ánh từ thực tiễn thi hành chế định này. Thực tế các tranh chấp về thanh toán và phân chia di sản ít đƣợc các bên tranh chấp đƣa ra Toà án nhân dân giải quyết mà thƣờng các bên tự giải quyết bằng nhiều con đƣờng hoà giải khác nhau: anh, chị, em, thuyết phục lẫn nhau; nhờ trƣởng họ, hội đồng gia tộc đứng ra phân chia di sản hoặc các bên cùng ra Phòng công chứng Nhà nƣớc viết Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế. Theo kết quả khảo sát đối với những đối tƣợng, thành phần khác nhau về việc chia thừa kế cho thấy có 57% di sản đƣợc chia theo thoả thuận của các thừa kế, theo di chúc là 12,67%, theo luật tục là 16,92%, tại Toà án nhân dân là 10,77%. Vậy, chỉ có những vụ phức tạp, thời điểm mở thừa kế quá lâu, ngƣời thừa kế thuộc hàng thứ nhất đã có ngƣời đã chết các bên mới đƣa đơn khởi kiện ra Tòa. Nhìn chung, việc giải quyết tranh chấp về thanh toán và phân chia di sản liên quan đến nhiều quan hệ dân sự khác nhƣ quan hệ mua, bán, tặng, cho, thế chấp, cầm cố, vay mƣợn trong một thời gian dài. Các qui định về thanh toán và phân chia di sản có ảnh hƣởng rất nhiều trong việc thực hiện, áp dụng và giải quyết tranh chấp thừa kế. 2. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong cuộc sống hiện đại, quan niệm về thừa kế không chỉ mang tính đạo đức truyền thống gia đình mà nó đã bị chi phối bởi kinh tế - lợi ích vật chất. Hiện tƣợng tranh giành nhau tài sản giữa những ngƣời trong quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dƣỡng trong gia đình ngày nay đang rất phổ biến, kéo theo việc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Các hành vi này có thể là hành động nhƣ đánh, giết lẫn nhau hoặc không hành động nhƣ để mặc tình thế nguy hiểm đến tính mạng của ngƣời để lại di sản hay nó có thể diễn ra ngấm ngầm trong ý thức của họ. Các vụ án tranh chấp về thừa kế liên tiếp xẩy 8
  7. ra gây tình trạng án tồn đọng không thể giải quyết đƣợc tại Toà án các cấp bởi nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan. Tại các cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực các việc liên quan đến lập di chúc, khai nhận thừa kế, thoả thuận phân chia di sản thừa kế, khƣớc từ quyền thừa kế ngày một gia tăng. Phòng công chứng, Uỷ ban nhân dân các cấp khi tiếp nhận đơn yêu cầu của đƣơng sự cũng phải rất thận trọng cho từng vụ việc vì rất có thể thông qua những yêu cầu đó các đƣơng sự muốn lẩn tránh một trách nhiệm hay nhận quyền hƣởng di sản không theo đúng qui định của pháp luật. Còn tại các Toà án nhân dân, việc thụ lý giải quyết một vụ án về tranh chấp di sản thừa kế dƣờng nhƣ gặp rất nhiều khó khăn vì tính phức tạp của vụ việc đồng thời cũng do bởi các qui định của pháp luật về chế định Thừa kế còn rất chung chung dẫn đến nhiều cách hiểu và cách giải quyết khác nhau giữa các toà. Ví dụ nhƣ có Toà án rất lúng túng trong việc giải quyết thanh toán phần công sức trông coi, duy trì, bảo quản di sản; hay nhƣ việc phân chia di sản theo hiện vật hay bằng giá trị tƣơng đƣơng nhƣng xác định giá trị di sản vào thời điểm nào? Thời điểm phân chia di sản thì theo khung giá của Nhà nƣớc hay theo giá thị trƣờng Với việc chọn đề tài “Thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt nam” chúng tôi nhận thấy đây là một trong những chế định quan trọng trong các qui định về thừa kế của luật dân sự Việt Nam. Việc làm rõ các khoản phải thanh toán, trách nhiệm ngƣời thanh toán, ngƣời đƣợc thanh toán, xác định khối di sản còn lại để giải quyết những tranh chấp về phân chia di sản thừa kế của những ngƣời thừa kế là rất cần thiết. Từ trƣớc đến nay, thừa kế luôn là một trong những đề tài đƣợc các nhà nghiên cứu luật học quan tâm và dành nhiều tâm huyết nghiên cứu. Đã có rất nhiều luật văn thạc sỹ, Luật án tiến sĩ tập chung vào các chế định về thừa kế nhƣ đề tài " Những qui định chung về quyền thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam" của Thạc sỹ Nguyễn Minh Tuấn, " Chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam" của Thạc sỹ Đinh Duy Thanh, Luật án tiến sĩ có " Thừa kế theo 9
  8. pháp luật của công dân Việt nam theo qui định của pháp luật từ năm 1945 đến nay" của Tiến sĩ Phùng Trung Tập, " Thừa kế theo di chúc theo qui định của Bộ Luật Dân Sự Việt Nam" của Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết. Tuy nhiên, chế định Thanh toán và phân chia di sản dƣờng nhƣ vẫn đang còn bỏ ngỏ, có rất ít công trình nghiên cứu làm sáng tỏ chế định trên theo qui định của pháp luật Việt Nam, ngoài cuốn sách "Bình luận khoa học về Thừa kế" của Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Điện. Với tình hình trên, chúng tôi đã chọn đề tài này để phân tích: đƣa ra khái niệm chung về thanh toán nghĩa vụ tài sản của ngƣời chết để lại; khái niệm phân chia di sản thừa kế; những qui định của pháp luật về thanh toán nghĩa vụ tài sản của ngƣời để lại di sản; quyền và nghĩa vụ của ngƣời lĩnh trách nhiệm thanh toán thay thế ngƣời đã chết; làm rõ khối di sản còn lại sau khi đã thực hiện việc thanh toán để phân chia di sản; tìm hiểu thực tiễn áp dụng luật thực định để giải quyết các tranh chấp về thanh toán và phân chia di sản; từ đó tìm ra những bất cập, thiếu sót của luật thực định để đề ra phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về chế định này. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Theo tƣ tƣởng triết học Mác- Lênin, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã vận dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu điển hình: - Phƣơng pháp so sánh: Đặt các qui định của pháp luật về thanh toán và phân chia di sản thừa kế so sánh với các qui định về thừa kế khác trong Bộ luật dân sự, các qui định tƣơng đƣơng trong quá trình phát triển chế định Thừa kế của pháp luật dân sự Việt Nam, các bộ luật dân sự của các nƣớc trên thế giới. - Phƣơng pháp phân tích: Phân tích qua lại trong mối quan hệ biện chứng với những yếu tố tác động cả mặt tốt lẫn mặt hạn chế của vấn đề. - Phƣơng pháp tổng hợp: Rút ra những nhận định mang tính logíc và cố gắng tạo ra đƣợc sự thuyết phục cho đề tài. 10
  9. Với những phƣơng pháp cơ bản trên, chúng tôi hy vọng đề tài sẽ có đƣợc sự nghiên cứu nghiêm túc, đầy đủ và mang tính logíc cao. 4. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Bố cục của Luận văn đƣợc chia nhƣ sau: Lời mở đầu CHƢƠNG 1: Lý luận chung về thanh toán và phân chia di sản thừa kế. CHƢƠNG 2: Chế định thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam . CHƢƠNG 3:Thực tiễn áp dụng, nguyên nhân và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định của pháp luật về thanh toán và phân chia di sản thừa kế. Kết luận Tài liệu tham khảo 11
  10. CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ 1. QUYỀN THỪA KẾ VÀ DI SẢN THỪA KẾ 1.1.1 Quyền thừa kế : Chế độ tƣ hữu ra đời kèm theo đó là sự phân hoá giai cấp trong xã hội. Nhà nƣớc và pháp luật ra đời không phải là hiện tƣợng ngẫu nhiên mà là sản phẩm tất yếu của tiền đề trên. Quyền tƣ hữu đối với công cụ sản xuất và các sản phẩm do thành quả trong quá trình lao động, chiếm hữu, bóc lột mà con ngƣời có đƣợc dần dần đƣợc Nhà nƣớc và pháp luật bảo vệ. Chế định quyền sở hữu phát triển theo năm tháng đã góp phần bảo vệ thành quả lao động của mỗi cá nhân trong quá trình sống tồn tại và phát triển trong xã hội. Một trong những căn cứ để xác lập quyền sở hữu là thừa kế. Từ điển Tiếng việt định nghĩa “ Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”. Nói cách khác, thừa kế là một chế định pháp lý nhằm đẳm bảo sự dịch chuyển tài sản của ngƣời đã chết cho những ngƣời còn sống. Chế định pháp lý này rất cần thiết và quan trọng để bảo vệ quyền sở hữu, bảo toàn và gia tăng của cải cho xã hội. Nếu sau khi chết chủ sở hữu tài sản biết đƣợc rằng khối di sản của mình sẽ đƣợc chuyển dịch sang cho chính con cháu, ngƣời thân của mình thì sẽ kích thích sự năng động trong việc phát triển khối tài sản lúc mình còn sống và nhƣ vậy sẽ gián tiếp làm gia tăng của cải cho xã hội. Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật, xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và phát triển với sự phát triển của xã hội loài ngƣời. Nhà nƣớc xuất hiện, bằng công cụ pháp luật, Nhà nƣớc ghi nhận, điều chỉnh và đảm bảo thực hiện các quan hệ xã hội theo ý chí của mình trong đó có quyền để lại tài sản cũng nhƣ quyền hƣởng di sản của các chủ thể. Thừa kế là một chế định pháp luật, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của ngƣời chết cho ngƣời khác theo di chúc hoặc theo một trình tự do luật 12
  11. định, đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phƣơng thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của ngƣời thừa kế. Quyền thừa kế là chế định pháp luật bảo hộ quyền của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của họ trong việc chuyển dịch tài sản để lại sau khi họ chết cho những ngƣời còn sống, quyền hƣởng thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Các hình thức chuyển dịch di sản của một ngƣời đã chết cho những ngƣời còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật là những cơ sở xác lập quyền sở hữu đối với di sản. Nhƣ vậy quyền thừa kế có quan hệ chặt chẽ với quyền sở hữu và có những đặc điểm sau: - Quyền thừa kế là phƣơng thức kế thừa quyền sở hữu tài sản của ngƣời chết. Do đó quyền thừa kế là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu. - Quyền thừa kế chỉ có hiệu lực sau khi ngƣời để lại di sản chết và tài sản của ngƣời đó vẫn còn. - Quyền sở hữu và quyền thừa kế đều là công cụ duy trì và bảo vệ chế độ tƣ hữu về tài sản; - Quyền sở hữu và quyền thừa kế đều phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của chế độ trong xã hội có giai cấp. Trong xã hội phong kiến, gia đình Việt Nam theo truyền thống phụ hệ, do vậy, khối tài sản do các thành viên trong gia đình tạo ra không những để đảm bảo cho cuộc sống hàng ngày mà còn để tích luỹ dịch chuyển cho các thế hệ sau. Sự bất bình đẳng trong quan hệ thừa kế phong kiến diễn ra do mục đích bảo tồn những quan niệm chuẩn mực đạo đức nhƣ thờ cúng tổ tiên, quyền và nghĩa vụ của ngƣời con trƣởng, cháu đích tôn trong nội tộc Quyền thừa kế của ngƣời vợ trong gia đình bị trói buộc theo thuyết “Tam tòng” và còn bị các quan hệ nội tộc phía nhà chồng làm cho mờ nhạt. Đến giai đoạn hiện nay, quan hệ hôn nhân đƣợc coi trọng theo nguyên tắc vợ chồng bình đẳng trong việc để lại di sản và quyền thừa kế tài sản của nhau khi một bên chết trƣớc. Quyền thừa kế còn đảm bảo cho công dân có quyền bình đẳng trong việc hƣởng di sản, không phân biệt giới tính, già trẻ, có năng 13
  12. lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự, Điều 634 BLDS năm 2005: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Các qui định pháp luật về thừa kế của nhà nƣớc ta không những đảm bảo quyền tự do cá nhân trong việc thể hiện ý chí của mình mà còn kết hợp hài hoà với những truyền thống tốt đẹp trong trong quan hệ gia đình, trong dòng tộc. 1.1.2. Di sản thừa kế Trong mỗi giai đoạn lịch sử phát triển Nhà nƣớc và pháp luật, chế định thừa kế thƣờng đƣợc các Nhà nƣớc từ thời cổ đại đều đặc biệt quan tâm. Tuy bản chất của mỗi Nhà nƣớc khác nhau, ví dụ nhƣ Nhà nƣớc chủ nô, Nhà nƣớc phong kiến nhƣng đều có quan niệm chung là di sản thừa kế là những gì thuộc về quyền sở hữu hợp pháp của ngƣời chết. Tuy nhiên, nếu trong nhà nƣớc chủ nô, bản chất của nhà nƣớc là chế độ chiếm hữu nô lệ thì nô lệ đƣợc coi nhƣ là một loại tài sản và do vậy “ngƣời” nô lệ cũng bị coi là di sản đƣợc để lại thừa kế. Một trong những tài sản có giá trị nhất trong mọi thời đại đó là đất đai, đây là tƣ liệu sản xuất quan trọng nhất không chỉ đối với cá nhân mà còn đối với các hình thái nhà nƣớc khác nhau. Do vậy pháp luật các Nhà nƣớc đều điều chính tƣơng đối chặt chẽ về vấn đề đất đai đặc biệt trong Nhà nƣớc phong kiến. Ở Việt Nam, dƣới triều Lê, Điền thổ là vấn đề đƣợc đặt lên hàng đầu. Theo GS Vũ Văn Mẫu viết trong cuốn Hồng Đức Thiện chính thƣ [Sài Gòn, 1959, tr 15] thì “điểm này cũng dễ hiểu vì trong một nền kinh tế trọng nông, chỉ có điền thổ mới được coi là yếu tố chính yếu, các động sản khác chỉ là những vật có ít giá trị”. Do vậy, trong Quốc triều hình luật, các qui định về thừa kế không nhiều vì một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu về ruộng đất là thừa kế nên các Điều 374, 375, 376 và Điều 390 qui định về thừa kế nằm trong chƣơng Điền sản. Luật phong kiến Tây Âu thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất của các chủ thể nhƣ quyền sở hữu của công xã, quyền sở hữu của tƣ nhân, Luật ghi nhận “ Không đất nào là đất không có chủ”. Tuy nhiên, 14
  13. chế độ phong kiến chỉ thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất của quý tộc phong kiến và đó là đặc quyền của họ. Đến Nhà nƣớc tƣ sản, khi sự phát triển của lực lƣợng sản xuất là những công cụ máy móc thay sức lao động của con ngƣời, của cải làm ra nhiều hơn thúc đẩy thông thƣơng buôn bán thì tài sản quí giá của con ngƣời không chỉ là đất đai, sự giầu có của các thƣơng nhân không chỉ đƣợc đánh giá thông qua họ sở hữu bao nhiêu m2 đất mà đánh giá qua việc họ chiếm đƣợc bao nhiêu cổ phiếu trong các tập đoàn kinh tế. Di sản để lại cho con cháu không những chỉ là truyền lại quyền lực về kinh tế mà còn là sự truyền lại quyền lực về chính trị để duy trì áp bức bóc lột. Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển tự do cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin tin học, tài sản không chỉ đơn thuần là những gì nhìn thấy, hay sờ thấy ngay đƣợc, hay nói cách khác không chỉ đơn thuần là những gì hiện hữu có tại thời điểm hiện tại mà còn là những gì sẽ có và sẽ đƣợc hình thành trong tƣơng lai ví dụ nhƣ : Lợi tức; các quyền ƣu tiên; quyền lựa chọn; các tài khoản mở tại ngân hàng; các chứng chỉ tiền gửi; các văn bằng sáng chế; các tác phẩm văn học; tên thƣơng hiệu; các bất động sản đƣợc hình thành trong tƣơng lai. Tất cả chính là tài sản và đƣơng nhiên cũng là di sản khi chủ sở hữu của chúng qua đời. Pháp luật Việt Nam trong tiến trình phát triển chế định thừa kế cũng đƣa ra khái niệm di sản là gì. Đây là một trong những căn cứ quan trọng để xác định chính xác tài sản ngƣời chết để lại thừa kế bao gồm những gì, ở đâu, trị giá bao nhiêu để giải quyết tốt các tranh chấp về thừa kế, phân chia di sản thừa kế cho các đồng thừa kế, xác định di sản dùng vào việc thờ cúng và di sản để tặng cho. Nhƣ chúng ta đã biết sau năm 1945 với Sắc lệnh 97-SL ngày 22 -5-1950 của Chủ tịch nƣớc Hồ Chí Minh chƣa có quy định cụ thể về di sản thừa kế nhƣng bƣớc đầu những qui định cơ bản của Sắc lệnh đã gián tiếp đề cập di sản thừa kế của một ngƣời sau khi chết bao gồm tài sản mà không bao gồm 15
  14. nghĩa vụ tài sản của ngƣời đó với ngƣời khác. Đến khi Thông tƣ số 594/NCPL ngày 27-8-1968 của Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế đƣợc ban hành, vấn đề di sản thừa kế bƣớc đầu đƣợc hƣớng dẫn xác định nhƣ sau: “ Di sản thừa kế bao gồm không những quyền sở hữu cá nhân về những tài sản mà người chết đó để lại mà còn gồm cả những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản phát sinh do quan hệ hợp đồng hoặc do việc gây thiệt hại mà người chết đó để lại”. Nhƣ vậy, di sản theo Thông tƣ này không chỉ bao gồm những tài sản, quyền tài sản mà còn bao gồm nghĩa vụ tài sản của một ngƣời đã chết đƣợc chuyển cho ngƣời thừa kế hợp pháp. Ngày 24-7-1981 Toà án nhân dân tối cao đã ra Thông tƣ số 81/TATC hƣớng dẫn toà án các cấp trong việc xét xử các tranh chấp về không đồng bộ của pháp luật dân sự thời điểm đó. Thông tƣ này hƣớng dẫn: “ Di sản thừa kế bao gồm: - Các tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại thừa kế và thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt và những công cụ sản xuất trong trường hợp được phép lao động riêng lẻ. - Các quyền về tài sản mà người để thừa kế được hưởng theo quan hệ hợp đồng hoặc do được bồi thường thiệt hại. - Các nghĩa vụ về tài sản của người để thừa kế phát sinh do quan hệ hợp đồng, do việc gây thiệt hại hoặc do quyết định của cơ quan có thẩm quyền.” Hoàn cảnh ra đời của Thông tƣ là trƣớc đó ít lâu, Nhà nƣớc vừa ban hành Hiến pháp đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam thống nhất và xã hội chủ nghĩa (Hiến pháp năm 1980) với nền tảng kinh tế là chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất đƣợc tập trung hầu hết trong tay Nhà nƣớc và Hợp tác xã. Vì thế đối tƣợng của sở hữu của công dân chủ yếu là những thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tƣ liệu sản xuất. Sở hữu của công dân bị giới hạn ở “ những công cụ sản xuất trong trƣờng hợp đƣợc phép lao động riêng lẻ”(Điều 27, Hiến pháp 1980). Do đó, di sản thừa kế cũng không thể vƣợt ra ngoài 16
  15. khuôn khổ những tài sản mà pháp luật qui định công dân có quyền sở hữu. Mặt khác, khi một ngƣời đã chết đi không chỉ để lại các tài sản thuộc quyền sở hữu của mình mà còn để lại các quyền về tài sản nhƣ quyền đòi nợ từ hợp đồng cho vay, quyền yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng hoặc các nghĩa vụ tài sản nhƣ một khoản nợ phải trả, một khoản bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng nhƣng chƣa thực hiện. Trong khi đó, về mặt lập pháp, chúng ta lại chƣa có văn bản nào qui định cụ thể khái niệm và phân loại tài sản. Pháp lệnh Thừa kế đƣợc Hội đồng Nhà nƣớc thông qua ngày 30-8-1991 đã đƣợc coi là vản bản có giá trị pháp lý cao nhất, qui định toàn diện và đầy đủ nhất về thừa kế tại Điều 4- khoản 1 qui định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác, quyền về tài sản do người chết để lại. Tài sản gồm có tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp." Đây là văn bản dƣới luật nên phải triệt để tuân thủ Hiến pháp và luật. Hiến pháp năm 1980 và Luật đất đai 1988 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và chƣa qui định việc Nhà nƣớc giao đất cho các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất ổn định lâu dài nên quyền sử dụng đất cũng chƣa đƣợc quy định là di sản thừa kế. Tuy nhiên, vào thời điểm này, Nhà nƣớc ta đã bắt đầu thực hiện đƣờng lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần nên quyền sở hữu công dân theo chủ trƣơng chung cũng đƣợc mở rộng đối với cả tƣ liệu sản xuất nhất định. Theo qui định trên, nghĩa vụ về tài sản do ngƣời chết để lại không thuộc di sản thừa kế. Điểm này xuất phát từ thực tế xã hội là đại đa số ngƣời dân Việt Nam đều quan niệm trƣớc khi nhắm mắt xuôi tay luôn cố gắng trang trải nợ nần những chi phí liên quan đến bản thân mình, kể cả dành một chút cho việc ma chay cho chính mình để khỏi phải phiền luỵ đến con cái. Hơn nữa, mỗi ngƣời khi còn sống đều nghĩ đến trách nhiệm, bổn phận tạo dựng tài sản để nâng cao cuộc sống cho chính bản thân sau đó yên tâm để lại thừa kế cho con cháu, còn việc để lại nghĩa vụ về tài sản là việc ngoài ý muốn. Nếu có xẩy 17
  16. ra thì đã đƣợc đảm bảo bằng phần di sản hoặc phân chia theo kỷ phần thừa kế mà mỗi ngƣời thừa kế nhận đƣợc. Sự ra đời Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp của thời kỳ đổi mới và BLDS năm 1995 đã tập trung điều chỉnh đầy đủ, chặt chẽ các quan hệ dân sự trong điều kiện xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Điều 637 BLDS năm 1995 đã quy định đầy đủ, ngắn gọn, súc tích hơn về di sản: -“1- Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. -2- Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo qui định ” và tại Điều 172 qui định về tài sản: “ Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Quyền sử dụng đất cũng là di sản thừa kế và đƣợc để lại theo quy định riêng đƣợc qui định trong phần khác của BLDS. Quy định này phù hợp với chính sách đổi mới về quản lý đất đai của Đảng và Nhà nƣớc trong những năm qua. Tuy nhiên, việc khẳng định quyền sử dụng đất thuộc di sản thừa kế đã có những hạn chế nhất định. Nếu quyền sử dụng đất đƣợc để lại thừa kế thì những quyền về tài sản khác có đƣợc coi là di sản không. Chính vì qui định chƣa rõ này mà trong thời gian qua đã có những cách hiểu nhau về di sản, gây khó khăn trong áp dụng. Đến BLDS năm 2005, Điều 634 đã bỏ khoản 2 và chỉ giữ lại qui định:“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Qui định nhƣ vậy đã mở rộng khái niệm tài sản. Quyền sử dụng đất đƣợc coi gần nhƣ tài sản sở hữu vì ngƣời có quyền sử dụng đất đƣợc chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng, cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, đƣợc bồi thƣờng khi Nhà nƣớc thu hồi (Điều 106 Luật đất đai năm 2004) và quyền sử dụng đất đã đƣợc khằng định là một tài sản tại Điều 174 BLDS qui định về bất động sản và động sản là bất động sản bao gồm: đất đai; nhà, công trình 18
  17. xây dựng gắn liền với đất đai Khác với qui định về di sản trong BLDS năm 2005 của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại Điều 1600 của Bộ luật Dân sự và thƣơng mại Thái Lan lại chỉ rõ di sản là: “ Tuỳ thuộc vào những qui định của bộ luật này, tài sản của một người đã chết bao gồm mọi loại tài sản của người đó, cũng như các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người đó, trừ những quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm mà theo qui định của pháp luật hoặc theo tính chất của chúng hoàn toàn mang tính cá nhân đối với người chết.” Đây là một điều chúng ta nên so sánh và nghiên cứu. Theo chúng tôi, điểm đáng lƣu ý tại qui định là nghĩa vụ của ngƣời chết cũng đƣợc coi là di sản. Đây chính là một trong nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện của những ngƣời đƣợc hƣởng quyền thừa kế. Chế định thừa kế trong pháp luật Việt Nam không chỉ rõ nghĩa vụ của ngƣời chết để lại là di sản nhƣng những ngƣời thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ này kể từ thời điểm mở thừa kế, Điều 636 BLDS năm 2005 qui định: “ Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” . Tóm lại theo qui định của pháp luật Việt Nam, kể từ thời điểm mở thừa kế, ngƣời đã chết để lại di sản gồm các tài sản, quyền tài sản và trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ tài sản sau: - Di sản là tài sản thuộc sở hữu của ngƣời chết nhƣ các tƣ liệu sinh hoạt, tiền, vàng, bạc, nhà ở, vốn cổ phần, tƣ liệu sản xuất mà ngƣời đó đã sử dụng để tiến hành sản xuất kinh doanh, thành lập doanh nghiệp, hoặc góp vốn vào công ty. - Di sản gồm phần tài sản của ngƣời chết trong khối tài sản chung với ngƣời khác: phần tài sản đƣợc tặng cho chung, đƣợc thừa kế chung hoặc mua chung với ngƣời khác, hoặc tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng - Quyền sở hữu về những hiện vật và tiền sẵn có của ngƣời để lại di sản trƣớc khi chết, quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, hay do việc ngƣời chết bị gây thiệt hại khi còn sống. Ví dụ, quyền đòi tiền làm thuê chƣa 19
  18. trả hết, quyền đồi bồi thƣờng thiệt hại, quyền đòi lại tiền cho vay cả gốc và lãi - Di sản còn gồm cả quyền tài sản phát sinh sau khi ngƣời quá cố chết và do sự kiện chết đó. Ví dụ, tiền đòi bồi thƣờng tai nạn giao thông do lỗi của ngƣời gây tai nạn, hành khách khi mua vé đi các phƣơng tiện vận tải mà xẩy ra tai nạn, thì số tiền bồi thƣờng về bảo hiểm thuộc di sản của hành khách đó. Trong hợp đồng bảo hiềm tính mạnh (bảo hiểm nhân thọ), nếu không nói rõ ai sẽ đƣợc hƣởng hoặc không nói là ngƣời thừa kế sẽ đƣợc hƣởng tiền bảo hiểm khi xẩy ra sự kiện chết, thì số tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm trả thuộc di sản của ngƣời mua bảo hiểm sau khi ngƣời này chết. - Các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng hay do việc ngƣời chết đã gây thiệt hại cho ngƣời khác khi còn sống.Ví dụ, nghĩa vụ trả những món nợ mà ngƣời chết đã vay khi còn sống, nghĩa vụ bồi thƣờng thiệt hại mà ngƣời chết đã gây ra cho ngƣời khác khi còn sống Di sản không bao gồm những quyền tài sản và nghĩa vụ tài gắn với nhân thân ngƣời để lại di sản. Ví dụ, Quyền đƣợc hƣởng lƣơng hƣu, hƣởng trợ cấp thƣơng tật những quyền tài sản và nghĩa vụ này chấm dứt khi ngƣời để lại di sản chết và không chuyển cho những ngƣời thừa kế. Trong trƣờng hợp những quyền và nghĩa vụ này khi còn sống ngƣời để lại di sản chƣa đƣợc lĩnh hoặc chƣa thanh toán hết thì đến thời điểm ngƣời đó chết sẽ đƣợc gộp vào khối di sản. 1.1.3. Hình thức thừa kế Pháp luật của các nƣớc trên thế giới cũng nhƣ của Việt Nam đều qui định và cho phép áp dụng hai hình thức thừa kế: Thừa kế theo di chúc và thừa kế pháp luật. Tuỳ từng trƣờng hợp cụ thể mà di sản có thể đƣợc phân chia hoặc hoàn toàn theo di chúc hoặc hoàn toàn theo pháp luật hoặc đồng thời vừa chia theo di chúc vừa chia theo pháp luật. Pháp luật Lamã cổ đại quy định hai hình thức thừa kế nhƣng lại tuyệt đối hoá sự độc lập của các hình thức đó với nhau, không chấp nhận áp dụng cả hai hình thức, một là chỉ chia theo pháp 20
  19. luật hoặc chỉ chia theo di chúc không cho phép một phần di sản đƣợc chia theo di chúc, một phần di sản đƣợc chia theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật có sự khác nhau về chủ thể đƣợc thừa kế, căn cứ để chia di sản, cách thức phân chia di sản và phần di sản ngƣời thừa kế đƣợc hƣởng. 1.1.3.1. Thừa kế theo di chúc: Điều 646 BLDS năm 2005 qui định: “ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết” do vậy, di chúc có thể đƣợc pháp luật thừa nhận hay không thừa nhận, hoặc chỉ thừa nhận một phần tuỳ thuộc vào điều kiện có hiệu lực của di chúc do pháp luật qui định. Về hình thức, di chúc đƣợc chia thành hai loại: Di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Trƣờng hợp một ngƣời không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng, tuy nhiên pháp luật đòi hỏi phải có ít nhất hai ngƣời làm chứng và ngay sau đó ngƣời làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ, thì di chúc mới đƣợc coi là hợp pháp. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm có di chúc miệng mà ngƣời để lại di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ (Khoản 2- Điều 651, BLDS năm 2005). Di chúc bằng văn bản bao gồm 4 loại: Di chúc bằng văn bản có ngƣời làm chứng; Di chúc bằng văn bản không có ngƣời làm chứng; Di chúc có công chứng hoặc chứng thực. Dù là di chúc bằng văn bản hay bằng miệng, ngƣời lập di chúc phải thoả mãn các điều kiện qui định tại Điều 652 BLDS năm 2005: “1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép; b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật ” Xuất phát từ sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đƣơng sự, nên dù di chúc đã đƣợc lập nhƣng ngƣời lập di chúc vẫn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế huỷ bỏ di chúc bất cứ lúc nào (Điều 662). Tuy nhiên, đối với di chúc 21