Luận văn So sánh pháp luật Việt Nam về cho thuê lại lao động với một số nước trên thế giới

pdf 108 trang vuhoa 25/08/2022 8420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn So sánh pháp luật Việt Nam về cho thuê lại lao động với một số nước trên thế giới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_so_sanh_phap_luat_viet_nam_ve_cho_thue_lai_lao_dong.pdf

Nội dung text: Luận văn So sánh pháp luật Việt Nam về cho thuê lại lao động với một số nước trên thế giới

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ OANH SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ OANH SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Thúy Lâm Hà Nội – 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. NGƯỜI CAM ĐOAN
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG. 8 1.1. Khái niệm cho thuê lại lao động 8 1.1.1. Quan niệm về cho thuê lại lao động 8 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động cho thuê lại lao động 12 1.1.3. Phân loại hình thức cho thuê lại lao động 17 1.1.4. Phân biệt cho thuê lại lao động với một số hoạt động khác 19 1.2. Lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của hoạt động cho thuê lại lao động 21 1.2.1. Lợi ích của hoạt động cho thuê lại lao động 21 1.2.2. Nguy cơ tiềm ẩn của hoạt động cho thuê lại lao động 25 1.3. Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động cho thuê lại lao động 27 1.3.1. Vai trò của điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động cho thuê lại lao động 27 1.3.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động cho thuê lại lao động 29 Kết luận Chương 1 33 Chương 2: SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG VỚI PHÁP LUẬT ĐỨC, NHẬT BẢN VÀ TRUNG QUỐC 34 2.1. Điều kiện đối với doanh nghiệp hoạt động cho thuê lại lao động 35 2.1.1. Điều kiện cấp giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động 35 2.1.2. Ngành nghề, công việc được phép cho thuê lại lao động 42 2.2. Hợp đồng cho thuê lại lao động 51
  5. 2.3. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ cho thuê lại lao động 61 2.4. Xử lý vi phạm trong hoạt động cho thuê lại lao động 82 Kết luận Chương 2 78 Chương 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG 79 3.1. Thực trạng hoạt động cho thuê lại lao động 79 3.1.1. Kết quả đạt được 79 3.1.2. Những tồn tại và nguyên nhân 82 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cho thuê lại lao động 86 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về cho thuê lại lao động 86 3.2.2. Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật cho thuê lại lao động . 93 Kết luận Chương 3 96 KẾT LUẬN 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
  6. DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLLĐ : Bộ luật Lao động BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm y tế BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp CTLLĐ : Cho thuê lại lao động HĐLĐ : Hợp đồng lao động ILO : Tổ chức Lao động Quốc tế LĐ – TB & XH : Lao động – Thương binh và Xã hội NLĐ : Người lao động NSDLĐ : Người sử dụng lao động
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Thị trường lao động là nơi diễn ra các quan hệ liên quan đến việc mua bán một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động. Quá trình mua bán này được hình thành thông qua sự thỏa thuận tự nguyện, bình đẳng giữa các bên. Tuy nhiên, do những nhu cầu khác nhau của thị trường lao động dẫn đến nhu cầu tuyển dụng và sử dụng lao động ngày càng đa dạng, theo đó, các hình thức pháp lý cũng trở nên phong phú nhằm phúc đáp các nhu cầu nhiều mặt của thị trường. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện hoạt động CTLLĐ như là một nhu cầu tất yếu của thị trường lao động Việt Nam. Trên thế giới, CTLLĐ đã xuất hiện ở nhiều quốc gia từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XX nhưng ở Việt Nam, hoạt động này mới bắt đầu xuất hiện từ những năm 2000 khi làn sóng đầu tư nước ngoài ào ạt đổ vào Việt Nam. Tuy nhiên, thể chế pháp lý điều chỉnh quan hệ này hầu như không có. Trước khi BLLĐ 2012 được ban hành, hầu hết các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ CTLLĐ hoạt động theo hình thức “chui” hoặc “lách luật”, dẫn tới tình trạng nhiều doanh nghiệp vi phạm nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ thuê lại. Trước thực tiễn đó, yêu cầu đặt ra là cần phải có các quy định pháp luật điều chỉnh mối quan hệ xã hội trong quan hệ CTLLĐ. BLLĐ 2012 được ban hành đã ghi nhận và quy định một khung pháp lý cho hoạt động CTLLĐ hình thành và phát triển. Từ đây, hoạt động CTLLĐ đã chính thức được luật hóa. Mọi hoạt động liên quan đến CTLLĐ phải tuân thủ và thực hiện trong phạm vi pháp luật cho phép. Đây cũng là cơ sở cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp và xử lý vi phạm phát sinh trong hoạt động CTLLĐ. CTLLĐ hình thành như một giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động trong việc luân chuyển lao động, khai thác đúng bản chất của loại hàng hóa đặc biệt - hàng hóa sức lao 1
  8. động trên thị trường. Đối với doanh nghiệp CTLLĐ, CTLLĐ là một phương thức kinh doanh hiệu quả, mang lại lợi nhuận cao; đối với doanh nghiệp thuê lại lao động, CTLLĐ góp phần giải quyết nhu cầu lao động ngắn hạn, bù đắp lao động thiếu hụt tạm thời do tai nạn lao động, nghỉ thai sản, đi nghĩa vụ quân sự Đồng thời, giảm chi phí quản lý, chi phí nhân sự, thỏa mãn nhu cầu sử dụng nhân sự có trình độ cao. Đối với NLĐ, đây là cơ hội để có việc làm liên tục, được thay đổi môi trường làm việc và có cơ hội tìm kiếm công việc phù hợp với khả năng. Tuy nhiên, là một hình thức lao động mới, CTLLĐ cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ CTLLĐ; công tác quản lý của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực CTLLĐ còn nhiều khó khăn; trong quá trình thực thi, các quy định về CTLLĐ đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định đòi hỏi cần có sự điều chỉnh kịp thời. Bên cạnh đó, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương – TPP, sự thành của Cộng đồng Kinh tế Asean – AEC với sự dịch chuyển lao động mạnh mẽ, việc sử dụng lao động, cho thuê lại lao động là một trong những vấn đề được quan tâm hơn bao giờ hết. Ngoài ra, Việt Nam là quốc gia đi sau trong việc ghi nhận hoạt động CTLLĐ, vì vậy, việc tiếp tục học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới để xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động CTLLĐ ở Việt Nam hiện nay là một trong những vấn đề cần thiết và hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, thị trường lao động trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng chính là lý do mà tôi lựa chọn đề tài “So sánh pháp luật Việt Nam về CTLLĐ với một số nước trên thế giới” để nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tôi đã lựa chọn so sánh pháp luật Việt Nam về CTLLĐ với pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức, Nhật Bản và Trung Quốc để thấy được sự tương đồng và khác biệt trong các quy định của các quốc gia, từ đó, 2
  9. rút ra những điểm tích cực, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam; đồng thời, làm rõ hơn một số một số vấn đề lý luận về CTLLĐ và điều chỉnh pháp luật về CTLLĐ cũng như làm rõ hơn thực trạng pháp luật CTLLĐ ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về CTLLĐ và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về CTLLĐ của Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài CTLLĐ là hoạt động khá phổ biến trên thế giới, được pháp luật nhiều nước ghi nhận và biểu hiện qua không ít các công trình nghiên cứu của các chuyên gia trong và ngoài nước. Các tài liệu nghiên cứu, bài báo, chuyên đề của các học giả, nhà nghiên cứu nước ngoài như: - Tài liệu ILO: “Hướng dẫn cho các cơ quan việc làm tư nhân – Quy chế giám sát và thực thi”; - Báo cáo nghiên cứu của chuyên gia Nhật Bản – “Thực trạng và các vấn đề của phái cử lao động Nhật Bản”; - Báo cáo nghiên cứu của chuyên gia Hàn Quốc – “Hệ thống phái cử lao động ở Hàn Quốc”; - Temporary Employment Relationships: Review of the Joint Employer Doctrine under the NLRA (những quan hệ lao động tạm thời: Học thuyết người sử dụng lao động chung theo quy định của Luật quan hệ lao động Quốc gia) – Kenneth A. Jenero và mark A. Spognardi đang trên tạp chí Employee Relations L.J/Vol.21,No.2/Autumn 1995 trang 128-138. - Employee Leasing: Implications for State Unemployment Insurance Program- Final Report, submitted to: Unemployment Insurance Services Department of Labor under contract No. K-4280-3-00-80-30, August 31, 1996 ( Cho thuê lao động: sự liên quan đến chương trình bảo hiểm thất nghiệp liên bang – báo cáo cuối cùng, đệ trình tới Ủy ban bảo hiểm thất nghiệp, Bộ 3
  10. Lao động Liên bang theo hợp đồng số K-4280-3-00-80-30 ngày 31/8/1996). Ở Việt Nam, trong giai đoạn chuẩn bị cho việc xây dựng các quy định của pháp luật về CTLLĐ trong BLLĐ 2012, Bộ LĐ – TB & XH và ILO đã phối hợp xuất bản cuốn “Tài liệu nghiên cứu CTLLĐ” đã tổng hợp được các kinh nghiệm của một số nước về vấn đề CTLLĐ và thực trạng hoạt động CTLLĐ ở Việt Nam để làm tài liệu tham khảo. Năm 2010, Bộ LĐ – TB & XH đã xuất bản cuốn “Tài liệu tham khảo pháp luật lao động nước ngoài” NXB Lao động – Xã hội, đã đề cập khái quát một số quy định của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc về CTLLĐ. Năm 2011 trường Đại học Luật Hà Nội đã nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: “CTLLĐ – Một hướng điều chỉnh của pháp luật lao động Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” do TS. Nguyễn Xuân Thu làm chủ nhiệm đề tài, đã đề cập đến một số vấn đề mang tính lý luận về CTLLĐ, phân tích, đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động dịch vụ việc làm và kinh nghiệm của ILO cũng như một số quốc gia, đề xuất giải pháp cụ thể cho việc điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động CTLLĐ tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các bài viết về các khía cạnh CTLLĐ trên các báo, tạp chí cũng đã đề cập, đánh giá thực trạng hoạt động cho thuê lại trong thời gian qua như: - “CTLLĐ và những yêu cầu đặt ra đối với việc điều chỉnh pháp luật lao động Việt Nam” của PGS.TS Lê Thị Hoài Thu đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012); - Nguyên tắc, nội dung và hình thức pháp luật điều chỉnh hoạt động CTLLĐ của PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số tháng 7 năm 2012; - Lao động cho thuê lại ở Việt Nam của TS. Nguyễn Xuân Thu, tham luận tại Hội thảo Việt - Đức: Pháp luật lao động, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010; 4
  11. - Hoạt động cho thuê lao động: Nên điều chỉnh pháp luật theo hướng cho phép của Phan Huy Hồng và Ngô Thị Thu đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11(112)/2007 vv; - Đề tài Luận văn Thạc sỹ: “Pháp luật về cho thuê lại lao động ở Việt Nam hiện nay” của Trịnh Xuân Tiến là một trong các công trình đầu tiên nghiên cứu pháp luật về cho thuê lại lao động hiện nay sau khi Bộ luật Lao động năm 2012 có hiệu lực. Có thể nói, những tài liệu, công trình nghiên cứu trên đã cung cấp khái niệm cơ bản ban đầu cho sự hình thành một khuôn khổ pháp lý hoàn thiện về CTLLĐ. Nhìn chung, các bài viết đều đưa ra các đề xuất nhằm đóng góp vào quá trình pháp điển hóa các quy định pháp luật về CTLLĐ và nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về CTLLĐ ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, đề tài Luận văn Thạc sỹ của tác giả Hồ Thị Quỳnh Trang về “So sánh các quy định pháp luật về CTLLĐ trong BLLĐ Việt nam và pháp luật Trung Quốc” là một trong những công trình nghiên cứu về CTLLĐ trên cơ sở so sánh với quốc gia khác khi vấn đề này được ghi nhận trong BLLĐ 2012. Luận văn đã đưa ra được tổng quan về CTLLĐ và pháp luật về CTLLĐ hiện nay, trong đó, tác giả đã khái quát đưa ra khái niệm CTLLĐ; bản chất và các loại hình CTLLĐ; so sánh các quy định pháp luật về CTLLĐ của Việt Nam với Trung Quốc; nêu lên thực trạng pháp luật CTLLĐ ở Việt Nam và một số kiến nghị đảm bảo thực hiện pháp luật CTLLĐ ở Việt Nam. Những kết quả mà tác giả Hồ Thị Quỳnh Trang nghiên cứu được trong đề tài trên khá thành công, đã giúp cho người đọc hiểu rõ hơn sự giống và khác nhau giữa pháp luật CTLLĐ ở Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, phạm vi so sánh của Luận văn mới chỉ dừng lại ở một quốc gia là Trung Quốc. Vì vậy, trên cơ sở đó, tôi muốn tiếp tục nghiên cứu đề tài về CTLLĐ trên góc độ so sánh pháp luật Việt Nam về CTLLĐ với một số quốc gia, không chỉ là quốc gia phương Đông và mở rộng ra quốc gia phương Tây – nơi có sự hình thành và phát triển sớm của hoạt động CTLLĐ. 5
  12. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về CTLLĐ và pháp luật về CTLLĐ; nghiên cứu, so sánh các quy định pháp luật Việt Nam về CTLLĐ với pháp luật Đức, Nhật Bản và Trung Quốc để thấy được sự tương đồng và khác biệt trong điều chỉnh pháp luật về CTLLĐ, rút ra những điểm tích cực Việt Nam cần học hỏi; từ đó, đề xuất, kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về CTLLĐ ở Việt Nam. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là: - Các văn bản pháp luật về CTLLĐ ở Việt Nam; - Các văn bản pháp luật về CTLLĐ của Đức, Nhật Bản và Trung Quốc quy định về CTLLĐ/phái cử lao động; - Các công trình nghiên cứu, quan điểm, bình luận của các tác giả trong và ngoài nước về CTLLĐ; - Thực tiễn hoạt động CTLLĐ và công tác quản lý Nhà nước về CTLLĐ ở Việt Nam hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu khái niệm và bản chất của CTLLĐ; nghiên cứu một số vấn đề lý luận về pháp luật CTLLĐ như: nhu cầu điều chỉnh pháp luật về CTLLĐ, yêu cầu đặt ra đối với việc điều chỉnh pháp luật về CTLLĐ; nghiên cứu pháp luật CTLLĐ ở Đức, Nhật Bản và Trung Quốc về một số khía cạnh như: Điều kiện cấp phép đối với doanh nghiệp hoạt động CTLLĐ, hợp đồng CTLLĐ, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ CTLLĐ và xử lý vi phạm trong hoạt động CTLLĐ. Các nội dung khác không nghiên cứu trong phạm vi Luận văn này. 6
  13. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được triển khai trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; dựa trên việc sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài: - Phương pháp phân tích: Được sử dụng trong tất cả các chương để phân tích, đánh giá các tài liệu, số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu; - Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh, đối chiếu, đánh giá các quy định pháp luật về CTLLĐ của Việt Nam so với các quốc gia (Đức, Nhật Bản, Trung Quốc), từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm làm luận cứ cho các đề xuất hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về CTLLĐ ở Việt Nam; - Phương pháp chứng minh: Được dùng để chứng minh cho các luận điểm, luận cứ được đưa ra trong Luận văn; - Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để tổng hợp các luận điểm, căn cứ lý luận được đưa ra trong Luận văn để đưa ra các kết luận của từng chương và kết luận chung của Luận văn. 5. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 03 chương: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận về CTLLĐ và pháp luật về CTLLĐ; - Chương 2: So sánh pháp luật Việt Nam về CTLLĐ với pháp luật Đức, Nhật Bản và Trung Quốc; - Chương 3: Thực trạng hoạt động CTLLĐ ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về CTLLĐ. 7
  14. Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG 1.1. Khái niệm CTLLĐ 1.1.1. Quan niệm về CTLLĐ Trên thế giới, CTLLĐ là một khái niệm không còn xa lạ và tương đối phổ biến, tồn tại dưới những hình thức khác nhau như cho thuê nhân viên hay cho thuê lao động phổ thông theo thời vụ Ở Mỹ và các nước Tây Âu, cho thuê lao động đã trở thành một xu hướng khá thịnh hành từ những năm 60 – 70 của thế kỷ XX. Một số liệu thống kê tại Mỹ đã chỉ ra rằng, nếu trong năm 1992, con số nhân viên thời vụ chỉ chiếm khoảng 17% tổng số nhân viên nói chung thì tới năm 2000, con số này đã xấp xỉ lên tới 50%. [30, tr.28] Còn theo báo cáo của CIETT – Tổ chức quốc tế của các doanh nghiệp CTLLĐ, khảo sát tại 34 quốc gia cho thấy, có 71.000 công ty, 9.5 triệu NLĐ cho thuê lại tương đương làm việc trọn thời gian. Con số này đã tăng gấp đôi từ năm 1998 đến năm 2008. Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu các quốc gia cần ban hành những quy định pháp luật riêng để điều chỉnh vấn đề này. Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã ban hành luật riêng để điều chỉnh về vấn đề này như: Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc; ở Trung Quốc là một chương của Luật Hợp đồng lao động hay Thái Lan, Singapore cũng có những quy định cụ thể về hoạt động CTLLĐ. Vậy, CTLLĐ là gì? CTLLĐ được biết dưới nhiều tên gọi khác nhau. Mỗi cách gọi phản ánh những khái niệm, ý nghĩa và mục đích nhấn mạnh tính chất, thời hạn công việc khác nhau. Đối với các nước Châu Âu, Châu Mỹ, tên gọi phổ biến nhất là “lao động cho thuê tạm thời”, trong khi đó, các nước Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc thường gọi là “lao động phái cử” hay “cung 8
  15. ứng lao động”. Bên cạnh đó, một số khái niệm cũng thường được nhắc đến như “lao động thuê ngoài”, “lao động cho thuê lại”, “lao động dịch vụ”, “lao động tạm thời” vv “Tại Châu Âu, hình thức giao kết việc làm này chủ yếu cho các công việc có tính “tạm thời”. Điều này có nghĩa khi một NLĐ được gửi từ công ty cho thuê lao động (được gọi là “Tổ chức cho thuê lao động tạm thời” tại Châu Âu) đến một công ty sử dụng lao động cho thuê, công việc của NLĐ này tại công ty sử dụng này chủ yếu là dành cho “mục đích tạm thời”, bởi có thể thấy, trong thực tế, số lượng lớn nhất NLĐ làm việc cho công ty sử dụng trong thời gian ít hơn một tháng và đại đa số NLĐ cho thuê không làm việc quá ba tháng. Tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, khái niệm được nhấn mạnh là “cung ứng”. Có nghĩa là NLĐ được gửi đến công ty sử dụng để làm việc trong khoảng thời gian dài hơn, từ một đến nhiều năm” [31, tr.9] Theo quan điểm của ILO, cho thuê lao động được hiểu là việc các tổ chức việc làm tư nhân (chủ sử dụng lao động chính) tuyển dụng lao động nhưng không trực tiếp sử dụng mà để cung cấp lao động cho bên thứ ba (doanh nghiệp trực tiếp sử dụng lao động). Doanh nghiệp trực tiếp sử dụng lao động có quyền giao việc cũng như giám sát NLĐ trong việc thực hiện công việc được giao nhưng quyền lợi của NLĐ lại do tổ chức việc làm tư nhân chịu trách nhiệm chính. [29, tr.29] Trên thế giới đã có nhiều quốc gia thừa nhận vấn đề việc làm tạm thời và CTLLĐ. Trong Luật số 88 ngày 05 tháng 7 năm 1985 và các luật sửa đổi bổ sung Luật Đảm bảo thực hiện phù hợp các giao dịch phái cử lao động và đảm bảo điều kiện xin việc cho NLĐ phái cử của Nhật Bản đã đưa ra định nghĩa: “Lao động phái cử có nghĩa là NLĐ làm thuê cho một NSDLĐ, sau đó được thuê lại để làm việc cho một NSDLĐ khác dưới sự quản lý, điều hành của NSDLĐ đó, trong khi vẫn duy trì quan hệ lao động với NSDLĐ trước, trừ 9
  16. trường hợp NSDLĐ trước đồng ý với NSDLĐ sau, trong trường hợp này NLĐ sẽ được NSDLĐ sau tuyển dụng”. Ở Trung Quốc cũng quy định về CTLLĐ nhưng hoạt động này được thực hiện dưới hình thức hợp đồng phái cử. Theo quy định của Luật Hợp đồng lao động năm 2007 của Trung Quốc thì: CTLLĐ (phái cử lao động) được hiểu là việc đơn vị phái cử tuyển dụng lao động và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với NLĐ nhưng phái cử lao động của mình sang làm việc tại một đơn vị khác. Hợp đồng giữa đơn vị phái cử và NLĐ được phái cử là hợp đồng lao động, còn hợp đồng giữa đơn vị phái cử và đơn vị nhận phái cử là hợp đồng phái cử. Còn theo EntrepreneurMedia Inc - Tổ chức cho thuê lao động chuyên nghiệp đưa ra định nghĩa CTLLĐ như sau: “CTLLĐ là một thỏa thuận hợp đồng trong đó doanh nghiệp cho thuê lao động cũng được biết như là một tổ chức cho thuê lao động chuyên nghiệp (PEO), là NSDLĐ chính thức. Trách nhiệm thuê lao động có đặc trưng là sự chia sẻ giữa người CTLLĐ và người thuê lại lao động. Người thuê lại lao động thực chất là người điều hành quản lý mọi công việc mà NLĐ được thuê thực hiện. Trong khi đó, người CTLLĐ có trách nhiệm thực hiện các công việc khác như khai báo bảng lương, chi trả các khoản thuế cho NLĐ. Trách nhiệm của người thuê lại lao động là ký séc để chi trả phí cho người CTLLĐ trong đó bao gồm các khoản lương, thuế, các lợi ích và chi phí hành chính. Còn lại là trách nhiệm của người CTLLĐ” [32]. Ở Việt Nam, lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật lao động Việt Nam xuất hiện khái niệm CTLLĐ: “CTLLĐ là việc NLĐ đã được tuyển dụng bởi doanh nghiệp được cấp phép hoạt động CTLLĐ sau đó làm việc cho NSDLĐ khác, chịu sự điều hành của NSDLĐ sau và vẫn duy trì quan hệ lao động với doanh nghiệp CTLLĐ.” [17] Như vậy, có thể thấy, dù tên gọi khác nhau, cách định nghĩa khác nhau 10
  17. nhưng theo quan điểm của ILO cũng như một số quốc gia, CTLLĐ đều là một hoạt động đặc biệt, có một số dấu hiệu đặc trưng sau: (i) Doanh nghiệp CTLLĐ tuyển dụng, ký kết hợp đồng lao động đối với NLĐ nhưng sau đó lại cho doanh nghiệp khác thuê lại trong một thời gian nhất định theo hợp đồng CTLLĐ giữa hai doanh nghiệp; (ii) Quyền lợi của NLĐ cho thuê lại vẫn do doanh nghiệp CTLLĐ thực hiện và đảm bảo (doanh nghiệp CTLLĐ vẫn là chủ sử dụng lao động); (iii) Trong thời gian làm việc ở doanh nghiệp thuê lại lao động, NLĐ phải chịu sự giám sát, quản lý, điều hành trực tiếp của doanh nghiệp thuê lại lao động. CTLLĐ có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau sau: Dưới góc độ của NLĐ cho thuê lại, CTLLĐ có thể hiểu là NLĐ đã được tuyển dụng bởi một doanh nghiệp (trên cơ sở HĐLĐ giữa NLĐ và doanh nghiệp CTLLĐ) được cá nhân, tổ chức khác thuê lại trong một khoảng thời gian nhất định thông qua hợp đồng CTLLĐ giữa doanh nghiệp CTLLĐ và bên thuê lại lao động. Trong thời gian làm việc tại doanh nghiệp thuê lại lao động, NLĐ chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của bên thuê lại lao động nhưng quan hệ lao động (HĐLĐ) vẫn được duy trì với doanh nghiệp CTLLĐ. Điều này có nghĩa, những quyền lợi cơ bản của NLĐ như tiền lương, BHXH, BHYT được doanh nghiệp CTLLĐ đảm bảo theo HĐLĐ đã giao kết giữa hai bên và phù hợp với quy định pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình làm việc, NLĐ có thể được hưởng các phúc lợi khác như những lao động chính thức của bên thuê lại lao động, đồng thời, chịu sự điều hành, quản lý nhất định từ đơn vị này. Dưới góc độ của doanh nghiệp CTLLĐ, CTLLĐ là việc doanh nghiệp tổ chức tuyển dụng NLĐ sau đó cho một hoặc một số đơn vị khác thuê lại lao 11
  18. động đó trên cơ sở thỏa thuận giữa hai bên thông qua hợp đồng dịch vụ CTLLĐ. Theo đó, doanh nghiệp CTLLĐ sẽ nhận được một khoản phí dịch vụ từ việc CTLLĐ. Doanh nghiệp CTLLĐ phải đảm bảo các điều kiện nhất định về CTLLĐ theo quy định của pháp luật. Dưới góc độ của đơn vị thuê lại lao động, CTLLĐ được hiểu là việc một cá nhân, tổ chức (gọi chung là doanh nghiệp) trên cơ sở nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thuê lại lao động của một doanh nghiệp CTLLĐ trong một khoảng thời gian nhất định trên cơ sở thỏa thuận thông qua hợp đồng dịch vụ CTLLĐ. Nếu đối với doanh nghiệp CTLLĐ, việc thu phí dịch vụ từ việc CTLLĐ là mục đích đầu tiên thì dưới góc độ doanh nghiệp thuê lại lao động, CTLLĐ nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn lao động do thiếu hụt lao động tạm thời hoặc cần lao động làm những công việc có tính chất tạm thời trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí tuyển dụng, đào tạo cũng như các thủ tục hành chính liên quan. Tất nhiên, doanh nghiệp thuê lại lao động vẫn phải có trách nhiệm quản lý, điều hành, tổ chức lao động đối với NLĐ được thuê lại, bao gồm nhưng không giới hạn ở việc kỷ luật lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn, vệ sinh lao động vv Trên cơ sở phân tích các quan điểm về CTLLĐ và các dấu hiệu cơ bản của hoạt động CTLLĐ, có thể đưa ra khái niệm về CTLLĐ như sau: CTLLĐ là việc một doanh nghiệp được cấp phép theo quy định pháp luật tổ chức tuyển dụng lao động trong một số lĩnh vực, ngành nghề nhất định, sau đó cho tổ chức, cá nhân khác thuê lại trong một khoảng thời gian nhất định trên cơ sở hợp đồng CTLLĐ. NLĐ cho thuê lại sẽ chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của bên thuê lại lao động nhưng vẫn duy trì quan hệ lao động với doanh nghiệp CTLLĐ. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động CTLLĐ Thứ nhất, CTLLĐ vừa mang đặc điểm của quan hệ lao động vừa mang đặc điểm của quan hệ thương mại 12
  19. Dù được tiếp cận dưới góc độ nào (NLĐ, doanh nghiệp CTLLĐ hoặc doanh nghiệp thuê lại lao động), CTLLĐ luôn có sự tham gia của ba chủ thể: (i) NLĐ cung ứng sức lao động để đổi lấy tiền lương/thu nhập, được tuyển dụng bởi doanh nghiệp CTLLĐ nhưng lại chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp từ đơn vị thuê lại lao động (ii) Doanh nghiệp CTLLĐ là NSDLĐ đã tuyển dụng, ký kết hợp đồng lao động với NLĐ và cử NLĐ đến làm việc tại một đơn vị khác, chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của đơn vi khác, (iii) Đơn vị thuê lại lao động là người nhận NLĐ từ NSDLĐ cử đi và trực tiếp sử dụng, quản lý, điều hành lao động đó cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đối với bên thuê lại lao động, trong quan hệ CTLLĐ không nhất thiết phải là doanh nghiệp, đó có thể là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu sử dụng lao động ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu lao động và phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả giả định chung là doanh nghiệp thuê lại lao động. Về mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia quan hệ CTLLĐ, theo quan điểm của ILO và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, thuê lại lao động là mối quan hệ việc làm tam giác phát sinh giữa NLĐ và hai chủ sử dụng lao động. [29, tr.29] Nghĩa là một doanh nghiệp sẽ tiến hành tuyển dụng lao động nhưng sau đó lại cho doanh nghiệp khác thuê lại lao động trong một thời gian nhất định. Trong thời gian làm việc tại doanh nghiệp thuê lại lao động, NLĐ chịu sự giám sát, điều hành, quản lý của doanh nghiệp này. Có thể tóm tắt sơ đồ về mối quan hệ của các chủ thể CTLLĐ như sau: 13
  20. Hình 1.1. Sơ đồ mối quan hệ giữa các chủ thể trong quan hệ CTLLĐ Người lao động Hợp đồng lao động Chỉ đạo, mệnh lệnh Hợp đồng CTLLĐ Doanh nghiệp Doanh nghiệp cho thuê lại thuê lại lao động lao động CTLLĐ về bản chất là mối quan hệ ba bên với sự tham gia của bên CTLLĐ (doanh nghiệp CTLLĐ), bên thuê lại lao động (doanh nghiệp thuê lại lao động) và NLĐ cho thuê lại nên thực chất trong hoạt động CTLLĐ sẽ gồm ba mối quan hệ: (i) Quan hệ giữa doanh nghiệp CTLLĐ và NLĐ được cho thuê lại Quan hệ này là quan hệ lao động được thiết lập trên cơ sở của HĐLĐ. Doanh nghiệp CTLLĐ tuyển dụng và ký kết hợp đồng lao động với NLĐ, sau đó cho doanh nghiệp khác thuê lại lao động. Vì vậy, trong quan hệ này, doanh nghiệp CTLLĐ chính là NSDLĐ và lao động được cho thuê lại là NLĐ. NLĐ tuy không làm việc trực tiếp tại doanh nghiệp CTLLĐ, nhưng doanh nghiệp CTLLĐ vẫn chịu trách nhiệm trả lương và đảm bảo các quyền lợi của NLĐ theo quy định của pháp luật. (ii) Quan hệ giữa doanh nghiệp CTLLĐ và doanh nghiệp thuê lại lao động Quan hệ giữa hai doanh nghiệp này là quan hệ mang tính dịch vụ, thương mại được hình thành trên cơ sở hợp đồng CTLLĐ. Theo đó, doanh nghiệp CTLLĐ có trách nhiệm cung cấp cho doanh nghiệp thuê lại lao động 14
  21. lượng lao động theo điều kiện, tiêu chuẩn mà doanh nghiệp đó đặt ra, đồng thời, doanh nghiệp thuê lại lao động có trách nhiệm trả cho doanh nghiệp CTLLĐ một khoản tiền là phí dịch vụ. Khi hết thời hạn thuê lao động theo hợp đồng, doanh nghiệp thuê lại lao động sẽ hoàn trả lại số lao động đã thuê cho doanh nghiệp CTLLĐ. (iii) Quan hệ giữa NLĐ cho thuê lại và doanh nghiệp thuê lại lao động Trong mối quan hệ này, doanh nghiệp thuê lại lao động tuy không phải là NSDLĐ nhưng lại có quyền điều hành, giám sát, quản lý đối với NLĐ cho thuê lại trong suốt quá trình NLĐ thuê lại thực hiện các nghĩa vụ lao động tại doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng lao động thuê lại, nếu NLĐ thuê lại vi phạm nghĩa vụ lao động hoặc có hành vi vi phạm kỷ luật lao động thì doanh nghiệp thuê lại lao động không tiến hành xử lý kỷ luật mà trả lại NLĐ cho doanh nghiệp CTLLĐ. Như vậy, để hình thành quan hệ CTLLĐ, cần có sự tham gia của ba chủ thể: doanh nghiệp CTLLĐ, NLĐ cho thuê lại và doanh nghiệp thuê lại lao động. Trong mối quan hệ này có sự tồn tại của hai loại hợp đồng là HĐLĐ giữa doanh nghiệp CTLLĐ với NLĐ cho thuê lại và hợp đồng dịch vụ (hợp đồng CTLLĐ) giữa doanh nghiệp cho thuê lao động và doanh nghiệp thuê lại lao động. Về nguyên tắc, hai hợp đồng này phải có sự thống nhất với nhau về nội dung, trong đó có quy định về điều kiện lao động, vấn đề sử dụng lao động đối với NLĐ. Có như vậy mới đảm bảo được quyền lợi cho NLĐ và hạn chế được các tranh chấp phát sinh. Có thể nói, dù nhìn dưới góc độ nào, CTLLĐ cũng là sự tổng hòa của ba chủ thể: doanh nghiệp CTLLĐ, NLĐ và doanh nghiệp thuê lại lao động, với ba mối quan hệ khác nhau: Quan hệ lao động giữa NLĐ và doanh nghiệp CTLLĐ, chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn; Quan hệ thương mại giữa doanh nghiệp CTLLĐ và doanh nghiệp thuê lại lao động, chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự, Luật 15
  22. Thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành (pháp luật dân sự và thương mại); Quan hệ hỗn hợp giữa NLĐ và doanh nghiệp thuê lại lao động. Điều đó cho thấy, CTLLĐ vừa mang đặc điểm của quan hệ lao động vừa mang đặc điểm của quan hệ thương mại. Thứ hai, hoạt động CTLLĐ vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội Cũng như các hoạt động khác, CTLLĐ chịu sự điều chỉnh của các quy luật kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu Bên cung cấp lao động phải tính toán mọi hoạt động của mình làm sao để bù đắp được chi phí và có lãi; bên thuê lại lao động cũng phải tinh toán kỹ hiệu quả của việc sử dụng lao động đem lại. Đó là những biểu hiện mang tính kinh tế. Về mặt xã hội, CTLLĐ hình thành như một giải pháp quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động trong việc luân chuyển lao động, khai thác đúng bản chất của loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động trên thị trường, góp phần đảm bảo cuộc sống cho NLĐ thông qua việc đem lại cơ hội việc làm cho NLĐ, góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội. Cùng với những biện pháp về mặt quản lý như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành có dung lượng lao động nhiều như ngành dệt may, chế biến thực phẩm, cơ khí, dịch vụ thì CTLLĐ là một trong những giải pháp quan trọng cho việc chắp nối cung – cầu lao động nhằm thu hút, tận dụng cơ hội lao động, giải quyết việc làm cho NLĐ, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đa dạng và phức tạp như hiện nay. Có thể nói, CTLLĐ là sự tổng hòa các yếu tố kinh tế và xã hội. CTLLĐ không chỉ liên quan đến vấn đề việc làm, giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiêp, đảm bảo đời sống cho NLĐ mà còn liên quan trực tiếp đến việc đầu tư nguồn nhân lực, thu hút đầu tư, tăng trưởng và phát triển nền kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đặc điểm này, pháp luật đã có định hướng điều chỉnh cần thiết, phù hợp để giải quyết đồng bộ những vấn đề kinh tế, xã hội đặt ra đối với hoạt động CTLLĐ. 16