Luận văn So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_so_sanh_phap_luat_ve_trung_tam_trong_tai_viet_nam_v.pdf
Nội dung text: Luận văn So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH THỊ THU HIỀN SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI VIỆT NAM VÀ SINGAPORE Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Lê Mai Thanh Hà Nội – 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Trịnh Thị Thu Hiền
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT KÝ HIỆU NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT 1. FTAC : Hội đồng Trọng tài Ngoại thương 2. HĐTT : Hội đồng trọng tài 3. IAA : Đạo luật trọng tài quốc tế 4. LTM : Luật thương mại 5. MAC : Hội đồng Trọng tài Hàng hải 6. SIAC : Singapore International Arbitral Centre (Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore) 7. TTTM : Trọng tài thương mại 8. TTTT : Trung tâm trọng tài 9. TTV : Trọng tài viên 10. VIAC : Vietnam International Arbitral Centre (Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam)
- DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ HIỆU TÊN BẢNG TRANG BẢNG 2.1. Tranh chấp VIAC đã giải quyết từ năm 2006 đến năm 2013 40 2.2. Tranh chấp SIAC đã giải quyết từ năm 2006 đến năm 2013 45
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG LỜI MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu 3 3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu 4 4. Phạm vi nghiên cứu 4 5. Phương pháp nghiên cứu 5 6. Những điểm mới của luận văn 5 7. Kết cấu của luận văn 5 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI 7 1.1. Khái quát về trọng tài thương mại 7 1.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng tài thương mại 7 1.1.3. Trung tâm trọng tài thương mại theo Phá p luâṭ Viêṭ Nam và Singapore 17 1.2. Tổ chức và hoạt động của các Trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore 24 1.2.1. Khái lược về Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) 24 1.2.2. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài 27 1.2.3. Mục tiêu nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm trọng tài 28 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 30 CHƢƠNG 2: SO SÁNH THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIAC) VÀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ SINGAPORE (SIAC) 32 2.1. So sánh căn cứ thành lập và hoạt động của hai trung tâm trọng tài thương mại 32 2.1.1. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) 32
- 2.1.2. Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) 36 2.1.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam 38 2.2. So sánh thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại hai Trung tâm trọng tài 39 2.2.1. Thực trạng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam 39 2.2.2. Thực trạng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore 44 2.2.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam 46 2.3. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore 47 2.3.1. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) 48 2.3.2. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) 55 2.3.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam 68 2.4. Đánh giá hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) 70 2.4.1. Hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam 70 2.4.2. Hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore 74 2.4.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam 76 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 77 CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ KIỆN TOÀN CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI TẠI VIAC 78 3.1. Hoàn thiện Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam 78 3.1.1. Luật trọng tài 78 3.1.2. Giải pháp đối với pháp luật liên quan 82 3.2. Kiện toàn cơ chế nhằm nâng cao vai trò của trung tâm trọng tài Việt Nam 83
- 3.2.1. Kiện toàn cơ chế Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) 83 3.2.2. Tăng cường phối hợp giữa trọng tài và các cơ quan liên quan nhằm phát huy vai trò trọng tài tại Việt Nam 84 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 89 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra ngày càng sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ kinh tế quốc tế trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự phát triển của các quốc gia trên thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các quan hệ thương mại phát triển, đồng thời các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này tăng nhanh chóng với tính chất ngày càng phức tạp. Mặc dù tranh chấp không phải là điều mong muốn của các thương nhân và họ đã rất cẩn trọng trong việc áp dụng các biện pháp nhằm loại bỏ tranh chấp, song các bên không thể khẳng định rằng sẽ không có bất kỳ tranh chấp nào xảy ra trong các thương vụ mà họ tham gia. Vì vậy, điều quan trọng mà các thương nhân cần nhìn nhận trước đó là phương pháp nào cần thực hiện nếu có tranh chấp phát sinh. Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến đang được sử dụng bao gồm: thương lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài. Thực tế đã đặt ra nhu cầu hoàn thiện các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. Trên thế giới, phương thức trọng tài giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại đã trở nên thông dụng. Tại Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng được chú trọng. Từ những năm 1960, Hội đồng Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã đi vào hoạt động. Để kiện toàn căn cứ giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài nói riêng, và hoàn thiện hệ thống giải quyết tranh chấp nói chung, ngày 25/02/2003, Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2003. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 đáp ứng điều kiện kinh tế - xã hội thời điểm đó, cũng như tương thích với pháp luật quốc tế, các điều ước mà Việt Nam tham gia. Nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về trọng tài thương mại, ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội đã ban hành Luật Trọng tài thương mại 2010, bắt đầu có hiệu lực từ 1
- ngày 1 tháng 1 năm 2011. Luật Trọng tài thương mại 2010 tiếp tục giải quyết những vấn đề chưa được ghi nhận thấu đáo trong Pháp lệnh: phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, vấn đề lựa chọn quy tắc tố tụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài, vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài, Luật Trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003; là căn cứ đảm bảo áp dụng hiệu quả các quy tắc tố tụng trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài thương mại Việt Nam vẫn chưa được các cá nhân, tổ chức áp dụng nhiều trên thực tế. Nguyên nhân xuất phát từ khung pháp luật và cơ chế hoạt động của các trung tâm trọng tài tại Việt Nam gây sự thiếu tin tưởng cho các cá nhân, doanh nghiệp. So với các hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thông dụng trên thế giới, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài chuyên nghiệp hơn, do đó, các cá nhân và doanh nghiệp tin tưởng sử dụng hình thức giải quyết tranh chấp này hơn. Để phát huy hiệu quả hình thức giải quyết tranh chấp tại trọng tài trong điều kiện gia tăng xung đột quyền lợi của các chủ thể khi tham gia kinh tế thị trường cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; cần có những nghiên cứu tương quan so sánh với pháp luật trọng tài các nước để từ đó rút ra các bài h ọc kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức trọng tài tại Việt Nam. Hiện nay, Singapore là môṭ quốc gia có nền kinh tế phát triển tương đối nhanh (là một trong bốn con rồng của C hâu Á ). Với môṭ nước có nền kinh tế phát triển như vâỵ , các tranh chấp liên quan đến hoaṭ đôṇ g thương maị là môṭ điều không tránh khỏi . Singapore là nước đầu tiên trong khu vưc̣ áp duṇ g troṇ g tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp thương maị và đaṭ đươc̣ nhiều hiêụ quả từ viêc̣ áp duṇ g này . Từ những kết quả mà Singapore đã đạt được chúng ta có thể tìm ra được những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện cơ chế về trung tâm trọng tài tại Việt Nam. Từ những phân tích trên, tác giả đã chọn đề tài: “So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề trọng tài có thể nói không phải là vấn đề hoàn toàn mới ở Việt Nam. Xung quanh vấn đề này đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học do các nhà khoa học pháp lý của Việt Nam thực hiện. Nhất là trong những năm trở lại đây, khi xây dựng pháp luật trọng tài thương mại đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết thì vấn đề này càng được quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn. Các công trình nghiên cứu đề tài này được thực hiện dưới nhiều hình thức và những góc độ khác nhau. Một số luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu liên quan đến vấn đề trọng tài như: luận văn thạc sỹ “Tác động của những quy định mới trong Luật trọng tài thương mại tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Thanh Huyền năm 2012; luận văn thạc sỹ “Pháp luật về thi hành phán quyết của trọng tài thương mại ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Mạnh Cường năm 2012; luận văn thạc sỹ “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đặng Thị Minh Ngọc năm 2013; luận văn thạc sỹ “Những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại” của Nguyễn Thị Hiển năm 2013. Ngoài ra, còn có những bài viết đăng trên tạp chí nghiên cứu về trọng tài dưới nhiều khía cạnh khác nhau như PGS.TS Phạm Hữu Nghị có bài “Về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” đăng trên báo đời sống pháp luật số ra ngày 23/8/2010; LS Trần Hữu Huỳnh có bài “Pháp luật trọng tài thương mại những thử thách phía trước” đăng trên báo Tiền Phong số ra ngày 20/7/2011. Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề trọng tài thương mại, nhưng chủ yếu là những công trình nghiên cứu xem xét một vài khía cạnh liên quan đến trọng tài hoặc pháp luật về trọng tài Việt Nam nói chung mà chưa có công trình nghiên cứu so sánh pháp luật về trung tâm trọng tài như một thiết chế giải quyết tranh chấp từ kinh nghiệm của các nước có trung tâm trọng tài hoạt động hiệu quả như Singapore. Vì vậy, có thể nói đây là công trình nghiên cứu so sánh một cách đầy đủ và toàn diện các vấn đề về pháp luật trung tâm trọng tài. 3
- 3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và Singapore cũng như tổ chức và hoạt động của thiết chế trọng tài, từ đó tìm ra những bài học và khả năng ứng dụng tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài. Để đạt được mục đích này, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Nhận diện cách tiếp cận, mục tiêu, nguyên tắc và các tiêu chí xây dựng pháp luật trọng tài Việt Nam và Singapore; trên cơ sở đó phân tích, so sánh nhằm rút ra những kinh nghiệm hữu ích hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng chú ý phân tích tính tương thích với Luật mẫu về trọng tài thương mại làm căn cứ cho quá trình hoàn thiện thiết chế trọng tài tại Việt Nam. - Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Trung tâm trọng tài Singapore; so sánh với Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VIAC) cũng như thực tế giải quyết tranh chấp của các trung tâm trọng tài, từ đó rút ra kinh nghiệm kiện toàn cơ cấu hoạt động Trung tâm trọng tài của Việt Nam. - Đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và kiện toàn cơ chế trung tâm trọng tài giải quyết tranh chấp như Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). 4. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc so sánh Luật trọng tài thương mại Singapore hiện hành với thiết chế trọng tài trung tâm là Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) và pháp luật Trọng tài thương mại hiện hành của Việt Nam với thiết chế trọng tài trung tâm là Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). 4
- 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để giải quyết những vấn đề nêu trên, tác giả đã vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin; quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về đảm bảo quyền tự do kinh doanh, về việc hoàn thiện hệ thống các cơ quan tài phán kinh tế. Với mục đích của đề tài là So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài của Việt Nam với pháp luật về trung tâm trọng tài thương mại Singapore trên cơ sở các tiêu chí cụ thể theo pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam và Singapore. Đối với yêu cầu của đề tài như trên, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp trong quá trình nghiên cứu như sau: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khái quát hóa để làm rõ nội dung đề tài. 6. Những điểm mới của luận văn Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy những đóng góp mới của luận văn tập trung vào một số vấn đề sau đây: Về mặt lý luận, luận văn đã nghiên cứu cách tiếp cận và thể chế hóa các quy định pháp luật về trọng tài thương mại Singapore – một trong quốc gia có tổ chức trọng tài được đánh giá hoạt động hiệu quả nhất hiện nay để từ đó xác định những điểm tương đồng, khác biệt và rút ra kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Về mặt thực tiễn, luận văn cũng nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại hai trung tâm trọng tài lớn ở Việt Nam và Singapore. Từ việc so sánh thực trạng này, đưa ra những đánh giá “đời sống xã hội” của các quy định pháp luật về trọng tài và đề xuất kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài tại Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được thiết kế bố cục gồm 3 chương như sau: 5
- Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về trọng tài thương mại và trung tâm trọng tài Chƣơng 2. So sánh thực trạng pháp luật về Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (SIAC) Chƣơng 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và kiện toàn cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại VIAC. 6
- CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI 1.1. Khái quát về trọng tài thƣơng mại 1.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng tài thương mại 1.1.1.1. Khái niệm Trọng tài thương mại Trọng tài, xét về mặt ngữ nghĩa, được hiểu là tài phán trung lập, ở đây chỉ người thứ ba được cử ra làm trung gian để phân xử sự bất đồng giữa hai bên. Với ý nghĩa này, trọng tài đã xuất hiện từ lâu, có vai trò giải quyết tranh chấp phát sinh theo yêu cầu của các bên. Khi thương mại phát triển thì tranh chấp xảy ra là điều không thể tránh khỏi và các thương gia thường cố gắng tìm ra mọi phương pháp thích hợp để giải quyết những tranh chấp đó. Trường hợp các bên không thể tự giải quyết được với nhau, vụ việc sẽ được đưa đến một bên thứ ba trung lập, người thứ ba này thường là người có kinh nghiệm để giải quyết. Trong thời kì đầu, việc giải quyết của người thứ ba chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu nội dung vụ việc, giải thích các vấn đề mà các bên đang quan tâm và đưa ra ý kiến để họ tham khảo. Về sau này, xuất phát từ nhu cầu giải quyết tranh chấp phải dứt điểm, nhanh chóng nên các bên thỏa thuận rằng quyết định của bên thứ ba giải quyết tranh chấp là quyết định cuối cùng. Đó là tiền thân của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngày nay [14]. Hiện nay, TTTM đã trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến và được các nhà kinh doanh ưa chuộng, nhất là ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. TTTM ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại nhờ các ưu thế xuất phát từ bản chất của trọng tài. Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau nhưng chủ yếu dưới hai phương diện sau đây: Thứ nhất, trọng tài là một phương thức để giải quyết tranh chấp: 7
- Theo hiệp hội trọng tài tại Hoa Kỳ: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan xem xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành” [25]. Theo giáo sư Philipe Fouchard:“Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận giao cho một cá nhân (Trọng tài viên) thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau” [6, tr17]. Cùng quan điểm coi trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp, cuốn “Đạo đức và kĩ năng hành nghề của Luật sư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã định nghĩa về trọng tài như sau:“Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó, hai hoặc nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến hành giải quyết tranh chấp theo những thủ tục đặc trưng của quá trình đó” [8, tr10]. Giáo trình Luật kinh tế trường đại học Luật Hà Nội đưa ra định nghĩa:“Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập, nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với mỗi bên” [36, tr55]. Luật Mẫu UNCITRAL quy định: “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức thường trực”. Pháp lệnh TTTM năm 2003 quy định tại Điều 2:“Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh quy định”. Thứ hai, trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp: Xuất phát từ quan điểm coi trọng tài là một thiết chế tài phán, “Giáo trình Tư pháp quốc tế của Liên Xô (cũ) có viết: Trọng tài bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ” [34, tr384]. 8
- Theo giáo trình “Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” của Trường Đại học Ngoại thương: “Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh chấp cho để xét xử” [37, tr79]. Ngoài ra, từ điển luật học Anh – Mỹ của Black đã đưa ra khái niệm về trọng tài dưới góc độ tố tụng, theo đó, trọng tài được nhìn nhận như một quá trình: “Trọng tài là một quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày, sẽ ra quyết định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh chấp ấy” [38, tr105]. Qua các định nghĩa về trọng tài nêu trên, có thể thấy rằng: Quan điểm coi trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp gần như thiên về mặt hình thức nhiều hơn, nhìn nhận sự tồn tại thực tế của tổ chức trọng tài dưới dạng các Trung tâm Trọng tài - cơ quan tài phán độc lập, tồn tại song song với Tòa án. Quan điểm coi trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thiên về mặt bản chất nhiều hơn, khái quát các đặc trưng của trọng tài khác với các hình thức giải quyết tranh chấp khác. Các định nghĩa về trọng tài nêu trên đều có cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ khác nhau ở mức độ khái quát và góc độ xem xét. Tất cả đều có điểm chung là Trọng tài chính là công cụ để giải quyết tranh chấp theo thủ tục đặc trưng của nó: do các bên thỏa thuận, vai trò trung lập, đưa ra quyết định bắt buộc các bên phải thực hiện Những đặc trưng này thể hiện bản chất của trọng tài là một phương thức tài phán tư, kết hợp được hai mặt thỏa thuận và tài phán. Theo tác giả, để có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về trọng tài, cần có một cái nhìn tổng quát với sự đánh giá mang tính lịch sử: - Về mặt thời gian, quan điểm định nghĩa trọng tài thiên về hình thức chủ yếu tồn tại ở giai đoạn khi trọng tài chưa thực sự phát triển. Cụ thể, ý kiến coi “Trọng tài bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ” được nêu ra từ năm 1984; ý kiến cho rằng “Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh 9
- chấp cho để xét xử” nêu trong giáo trình “Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” của trường đại học Ngoại thương xuất bản từ những năm 1994. Từ điển luật học Black định nghĩa trọng tài cũng có sự thay đổi theo hướng trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp. + Edition 6 (1990): “Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày, sẽ ra quyết định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh chấp ấy” [40, tr 105]. + Edition 2 (2001): “Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của một hay nhiều bên thứ ba trung lập được chọn bởi các bên tranh chấp và quyết định của họ có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên” [41, tr41]. Thời gian sau này, các định nghĩa trọng tài đều thiên về mặt bản chất, khẳng định trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp. + Xét về nội hàm của khái niệm thì quan điểm coi trọng tài là một thiết chế chưa bao quát được đặc trưng riêng của trọng tài khác với các hình thức giải quyết tranh chấp khác như thương lượng, hòa giải, tố tụng tư pháp Mặt khác, việc coi trọng tài là một thiết chế chỉ đúng nghĩa về mặt pháp lý; nếu xét về mặt tổ chức - coi trọng tài là một cơ quan tồn tại hiện hữu có phần thiếu chính xác. Bởi lẽ, Ban thường trực của các TTTT gồm Chính phủ, Phó chủ tịch, các nhân viên giúp việc không thực hiện chức năng của trọng tài. Khi các bên trong tranh chấp giao quyền lực cho trọng tài là giao quyền giải quyết tranh chấp cho TTV/HĐTT chứ không phải giao quyền lực cho TTTT. Các TTV/HĐTT không phải là nhân viên của TTTT, mà họ chỉ thực hiện những công việc giải quyết tranh chấp khi được các bên yêu cầu và khi giải quyết xong thì họ hết nhiệm vụ với các bên. Khác với Tòa án là cơ quan được Nhà nước thành lập để thực hiện quyền lực tư pháp của nhà nước; khi các bên tranh chấp khởi kiện ra Tòa án, họ không có quyền lựa chọn để giao quyền lực cho Thẩm phán, việc phân công Thẩm phán thuộc thẩm quyền của Chánh án. Với lập luận trên, có thể thấy rằng coi trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp với những đặc trưng riêng của nó là phù hợp nhất. 10
- Trong lịch sử, khi kinh tế thị trường với những quy luật cơ bản như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế nói chung và thương mại nói riêng, thì trọng tài chủ yếu được sử dụng trong giải quyết các tranh chấp thương mại. Trong lĩnh vực này, nó tỏ ra phù hợp và ưu thế hơn so với những cách giải quyết khác. Phạm vi các vụ tranh chấp được giải quyết bằng phương thức TTTM rộng hay hẹp phụ thuộc vào các quy định trong pháp luật của mỗi quốc gia, trong đó quan điểm về thương mại có ảnh hưởng rất quan trọng. Trên thế giới pháp luật của hầu hết các nước đều quan niệm “thương mại” theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động của thương nhân liên quan đến các mối quan hệ có bản chất thương mại. Bộ luật thương mại Thái Lan cũng có phạm vi điều chỉnh khá rộng, bao gồm mua bán hàng hóa, thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín dụng, thế chấp, đại diện, môi giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh [7]. Trong phần chú thích của Điều 1 Luật Mẫu về TTTM Quốc tế năm 1985 của UNCITRAL có ghi rõ: Khái niệm thương nhân cần phải được giải thích theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Quan hệ có bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới hạn với các giao dịch sau đây: Bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp, trao đổi hàng hóa hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại diện thương mại hay đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li – xăng, đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hoặc đường bộ. Trong khi đó, Luật thương mại năm 1997 của Việt Nam quy định khái niệm thương mại với nội hàm rất hẹp, chỉ gồm những hành vi do thương nhân tiến hành liên quan đến hàng hóa và dịch vụ mua bán hàng hóa. Khoản 2 Điều 5 Luật thương 11
- mại 1997 quy định: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội”. Khái niệm “thương mại” rất bất cập này dẫn đến nhiều hành vi có bản chất thương mại đã không được coi là hành vi thương mại, xét riêng về sự liên quan đến TTTM thì rõ ràng đã thu hẹp thẩm quyền của TTTM ở Việt Nam. Khắc phục hạn chế nêu trên, Pháp lệnh TTTM được ban hành năm 2003 đã đưa ra một khái niệm mới là khái niệm “hoạt động thương mại” và quy định TTTM có quyền giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Khái niệm hoạt động thương mại trong pháp lệnh TTTM được hiểu theo một nghĩa rất rộng, bao gồm hầu như các lĩnh vực hoạt động của thương nhân, từ sản xuất đến lưu thông, phân phối, từ sản xuất hàng hóa đến cung ứng dịch vụ, từ hoạt động kinh doanh thông thường đến hoạt động kinh doanh có tính chất đặc thù. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 pháp lệnh này thì “ Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li- xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Về cơ bản, có thể nói, thuật ngữ “hoạt động thương mại” trong Pháp lệnh TTTM năm 2003 của Nhà nước ta có nội hàm tương tự như khái niệm thương mại trong luật Mẫu UNCITRAL về TTTM và khái niệm “kinh doanh” trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Khoản 2 Điều 4). Được ban hành trong điều kiện nhà nước ta đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Thương mại năm 2005 đã định nghĩa “hoạt động thương mại” với nội hàm như khái niệm nêu trên trong pháp lệnh TTTM, nhưng nội dung gọn hơn và thể hiện rõ hơn bản chất của thương mại: “Hoạt động thương mại là 12
- hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy, có thể nói khái niệm hoạt động thương mại được quy định trong Pháp lệnh TTTM và Luật Thương mại năm 2005 đã tiếp cận được với pháp luật quốc tế và pháp luật của các nước trên thế giới, cho phép mở rộng phạm vi các hoạt động thương mại. Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có quy định: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”. Có thể nhận thấy, quy định của Luật Trọng tài thương mại còn khá chung chung. Để có được cách hiểu đầy đủ nhất về trọng tài thương mại ta có thể đưa ra định nghĩa trọng tài thương mại như sau: Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận đưa vụ việc ra trước một bên thứ ba trung lập để xem xét và ra phán quyết, bên thứ ba này có thể là một trọng tài viên hoặc một hội đồng trọng tài; phán quyết của bên thứ ba có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. 1.1.1.2. Vai trò của troṇ g t ài thương mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương maị Cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của nước ta từ hình thức kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các hoạt động thương mại giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như sự giao thương với các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng phát triển. Đặc biệt là khi Nhà nước ta đang dần dần hoàn thiện một hành lang pháp lý vững chắc, giúp bảo vệ quyền lợi và lợi ích của các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động kinh doanh, thương mại. Đi kèm với những bước tiến đó là những nảy sinh trong tranh chấp thương mại giữa các bên ngày càng nhiều về số lượng và rắc rối trong cách giải quyết tranh chấp. Điều này đã đặt lên vai những người làm luật một trọng trách nặng nề, đặc biệt là những người cầm cân nảy mực, đảm bảo sự công bằng cho các bên trước pháp luật. Bên cạnh hệ thống Tòa án thì Trọng tài là một biện pháp giải quyết tranh chấp tồn tại từ rất lâu, và ở Việt Nam thì Trọng tài đã từng được thừa nhận vào cuối thế kỷ 13
- thứ XIX [7]. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì trọng tài đã chuyển từ một tổ chức cơ quan hành chính nhà nước có chức năng giải quyết sang một tổ chức có chức năng tài phán. Đặc biệt là sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, và mới đây nhất là Luật Trọng tài thương mại 2010 đã đánh một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật Trọng tài Việt Nam. Thực tế khi các tranh chấp phát sinh trong các hoạt động thương mại, các bên có thể thương lượng, hòa giải với nhau để giải quyết vụ việc. Trong trường hợp các bên không thể tự hòa giải được thì có thể đưa đến cơ quan Trọng tài hoặc Tòa án. Trong khi đó, trên thực tế có nhiều tranh chấp xảy ra mang yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, thường các bên e ngại Thẩm phán sẽ ưu ái cho đương sự nước họ hơn. Còn nếu tiến hành tố tụng ở một nước thứ ba thì thủ tục không hề đơn giản, mặt khác các bên có thể bỡ ngỡ trước những quy tắc, thủ tục và trình tự tố tụng của quốc gia thứ ba đó. Ngoài ra, thủ tục tố tụng dù thực hiện ở cơ quan Tòa án nào cũng đòi hỏi những thủ tục phức tạp, mất nhiều thời gian và tiền bạc. Do đó, trên thực tế, Trọng tài đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp thương mại, đặc biệt là các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. Cụ thể là: Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất tôn trọng ý chí của các bên đương sự. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, chọn thủ tục trọng tài nhằm giải quyết có hiệu quả nhất tranh chấp mà có thể hạn chế được tổn thất về mặt thời gian cũng như tài chính. Việc giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành bởi một trọng tài viên hay HĐTT tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tuy tuân theo ý chí của các bên nhưng vẫn có sự ràng buộc về mặt pháp lý. Điều đó giúp cho cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hữu hiệu hơn biện pháp hòa giải hay thương lượng. Nếu như hòa giải hay thương lượng chỉ mang tính khuyến nghị chứ không mang tính ràng buộc về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp thì quyết định của Trọng tài mang hiệu lực pháp luật nên các bên có nghĩa vụ thi hành. Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt hơn Tòa án. Trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên được các bên 14