Luận văn So sánh pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của liên minh CChâu Âu và Việt Nam

pdf 76 trang vuhoa 25/08/2022 7921
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn So sánh pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của liên minh CChâu Âu và Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_so_sanh_phap_luat_ve_dieu_khoan_han_che_canh_tranh.pdf

Nội dung text: Luận văn So sánh pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của liên minh CChâu Âu và Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CÙ HỒNG ANH SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2013
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CÙ HỒNG ANH SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Bùi Nguyên Khánh HÀ NỘI – 2013
  3. MỤC LỤC ` MỞ ĐẦU 5 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ 11 1.1 Quyền sở hữu trí tuệ và hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ 11 1.1.1 Quyền sở hữu trí tuệ và đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ 11 1.1.2 Hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ 15 1.2 Bản chất pháp lý của điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT 17 1.2.1 Khái niệm điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT 17 1.2.2 Các đặc điểm pháp lý của điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT 18 1.2.3 Nội dung cơ bản của điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT 20 1.3 Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật quốc tế về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ 24 1.3.1 Quy định, quan điểm của WTO 24 1.3.2 Quan điểm của WIPO 26 1.3.3 Quy định, quan điểm của Nhật Bản 28 1.3.4 Quy định, quan điểm của Hoa Kỳ 30 CHƢƠNG 2: ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ VIỆT NAM TỪ CÁCH TIẾP CẬN LUẬT SO SÁNH 32 1
  4. 2.1 Một số vấn đề chung về pháp luật cạnh tranh có liên quan đến sở hữu trí tuệ của Liên minh Châu Âu và Việt Nam 32 2.1.1 Một số vấn đề chung về pháp luật cạnh tranh của Liên minh Châu Âu. 32 2.1.2 Giới thiệu khái quát các quy định của Luật cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 36 2.2 So sánh về phạm vi, đối tượng điều chỉnh 37 2.2.1 Phạm vi, đối tượng điều chỉnh theo pháp luật EU: 37 2.2.2 Theo pháp luật Việt Nam 38 2.3 So sánh các công cụ nhận dạng hành vi hạn chế cạnh tranh 40 2.3.1 Khái niệm đối thủ cạnh tranh (competitor), Không phải đối thủ cạnh tranh (non- competitor) 40 2.3.2 Về thị trường liên quan: 42 2.3.3 Về thị phần và cách tính thị phần: 44 2.4 So sánh về một số quy định cụ thể 45 2.4.1 Các trường hợp được miễn trừ 45 2.4.2 Cách tính thời gian miễn trừ theo pháp luật EU và Việt Nam. 48 2.4.3 Các hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng (“hard-core restriction”) và các loại trừ 49 CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG CÓ LIÊN QUAN ĐỀN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU SO SÁNH 55 3.1 Yêu cầu, định hướng của việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có liên quan đến sở hữu trí tuệ 55 3.1.1 Việc hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có liên quan đến sở hữu trí tuệ phải phù hợp với đặc thù của nền kinh tế và sự phát triển của khoa học công nghệ ở Việt Nam hiện nay 55 2
  5. 3.1.2 Việc hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có liên quan đến sở hữu trí tuệ phải đảm bảo khuyến khích phát triển tài sản trí tuệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam 56 3.1.3 Việc hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có liên quan đến sở hữu trí tuệ nhằm đảm bảo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 57 3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có liên quan đến sở hữu trí tuệ 58 3.2.1 Những hạn chế hiện tại trong pháp luật cạnh tranh có liên quan đến sở hữu trí tuệ của Việt Nam hiện nay 59 3.2.2 Kiến nghị, đề xuất 64 KẾT LUẬN 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72 3
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT EU Liên minh Châu Âu; HCCT Hạn chế cạnh tranh; Hiệp định EC Hiệp định thành lập Cộng đồng chung châu Âu Hiệp định TRIPs Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ; Luật Cạnh tranh Luật số 27/2004/QH11 ngày 03 tháng 12 năm 2004 về cạnh tranh của Việt Nam; Nghị định 772/2004 Nghị định của Ủy ban châu Âu số 772/2004 hướng dẫn việc áp dụng Điều 81(3) của Hiệp định với các loại hợp đồng chuyển giao công nghệ; SHTT Sở hữu trí tuệ; TFEU Hiệp định về hoạt động của Liên minh châu Âu (thay thế Hiệp định EC); WIPO Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới. WTO Tổ chức thương mại thế giới; 4
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy quá trình đàm phán gia nhập WTO giai đoạn 2005-2006, một loạt các luật mới liên quan đến kinh doanh, thương mại đã được ra đời, trong đó có Luật Cạnh tranh. Luật Cạnh tranh được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2005 đã có ảnh hưởng nhất định tới môi trường kinh doanh của nước ta. Đến nay, Luật Cạnh tranh đã đi vào thực tế đời sống được gần 7 năm, đã có 3 vụ việc HCCT và gần 40 vụ cạnh tranh không lành mạnh với hơn 50 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kinh doanh trên thị trường Việt Nam được giải quyết và xử lý theo các quy định của Luật này. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo điều kiện phát triển bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế và bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng. Cũng ra đời gần với thời gian ra đời của Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, đã được sửa đổi, bổ sung vào ngày 19 tháng 6 năm 2009. Luật Sở hữu trí tuệ được đánh giá là một công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay, đồng thời là biện pháp của Nhà nước để khuyến khích và bảo đảm giá trị của các tài sản trí tuệ. Mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và Luật Sở hữu trí tuệ thực sự chưa được đề cập và nghiên cứu nhiều ở Việt Nam nhưng đã được bàn luận sôi nổi ở nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới. Nhìn từ bên ngoài, mối quan hệ giữa hai luật này mang tính chất trái ngược, mâu thuẫn nhau. Nếu như Luật Cạnh tranh có chức năng kiểm soát các hành vi mang tính chất hạn chế, ảnh hưởng 5
  8. bất lợi đến môi trường kinh doanh thì Luật Sở hữu trí tuệ lại có chức năng bảo vệ các quyền, lợi ích mang tính độc quyền của người sở hữu các tài sản trí tuệ. Theo nhiều nghiên cứu về vấn đề này, thực chất, mối quan hệ giữa hai luật này là sự bổ sung cho nhau bởi cả hai đều có một mục đích là khuyến khích sự sáng tạo công nghệ và sản phẩm, phục vụ lợi ích của người tiêu dùng. Để góp phần tìm hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và Luật Sở hữu trí tuệ cũng như sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với các hoạt động thương mại có liên quan đến quyền SHTT thì việc nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này là rất cần thiết và có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong điều kiện chưa có nhiều nghiên cứu tại Việt Nam về vấn đề này. Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật học, luận văn không có tham vọng đi sâu tìm hiểu tất cả các nội dung của pháp luật về các thỏa thuận HCCT trong các hoạt động thương mại liên quan đến quyền SHTT mà chỉ tập trung nghiên cứu theo hướng “So sánh pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của Liên minh Châu Âu và Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu, học tập các kinh nghiệm của Liên minh Châu Âu và góp phần hoàn thiện pháp luật về các thỏa thuận HCCT trong các hoạt động thương mại có liên quan đến quyền SHTT. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Như đã đề cập ở trên, đề tài nghiên cứu của Luận văn chưa thực sự được nghiên cứu sâu rộng tại Việt Nam. Hiện nay, về vấn đề này, có Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thanh Tú năm 2009 với nội dung “Nghiên cứu pháp luật cạnh tranh trong chuyển giao công nghệ theo Hiệp định TRIPS và rút ra các kinh nghiệm áp dụng pháp luật cạnh tranh trong chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển”, Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về quyền sở 6
  9. hữu trí tuệ liên quan đến cạnh tranh - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Thị Thu năm 2009, Luận văn Thạc sĩ Luật học “Kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh - những vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2006 của Đồng Ngọc Dám. Ngoài ra, còn có những bài báo, bài nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí trong thời gian vừa qua. Các công trình trên là những nguồn tài liệu tham khảo quý báu đối với luận văn. Trong phạm vi luận văn này, tác giả luận văn có mong muốn nghiên cứu vấn đề trên theo hướng so sánh luật, một cách tiếp cận khác so với các công trình kể trên. Cụ thể, luận văn sẽ trình bày những nội dung cơ bản trong việc điều chỉnh của pháp luật EU với các điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT để rút ra kinh nghiệm cho việc xây dựng pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực SHTT tại Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Dựa trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố, Luận văn với đề tài “So sánh pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của Liên minh Châu Âu và Việt Nam” có đối tượng và phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau: (i) Đối tượng nghiên cứu Nhằm mục đích tập trung nghiên cứu theo hướng gần nhất với thực tế của pháp luật hiện tại, Luận văn hướng tới đi sâu nghiên cứu các đối tượng sau: - Hệ thống các quan điểm, quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận HCCT, các quy định của pháp luật điều chỉnh các thỏa thuận HCCT trong các hợp đồng có các đối tượng của quyền SHTT; - Các quan điểm, quy định của Liên minh Châu Âu điều chỉnh hành vi cạnh tranh trong các hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT, đặc biệt là các 7
  10. quy định về miễn trừ áp dụng các quy định về thỏa thuận HCCT của Liên minh Châu Âu; (ii) Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ có hạn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về hành vi HCCT, mà cụ thể là thỏa thuận HCCT trong các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng của quyền SHTT mà phổ biến nhất là hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng của quyền SHTT hay còn được biết đến với tên gọi hợp đồng li-xăng mà không đề cập đến nội dung về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh cũng như cơ quan quản lý cạnh tranh và thủ tục điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT; đánh giá so sánh pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của Liên minh Châu Âu và Việt Nam để từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT ở Việt Nam hiện nay. Với mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT; - Đánh giá so sánh pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của Liên minh Châu Âu và Việt Nam; 8
  11. - Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT ở Việt Nam hiện nay 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: - Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước và Pháp quyền trong điều kiện kinh tế thị trường; - Phương pháp bình luận, phương pháp lịch sử được sử dụng trong Chương 1 nghiên cứu những vấn đề chung về quyền SHTT, hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT và điều khoản HCCT trong các hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT; - Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá, phương pháp đối chiếu được sử dụng trong Chương 2 - Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải được sử dụng trong Chương 3 nghiên cứu xác lập định hướng và đưa ra những giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật về điều chỉnh các thỏa thuận HCCT trong các hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT. 6. Đóng góp khoa học của luận văn Luận văn được hoàn thành sẽ có những đóng góp về mặt khoa học chủ yếu sau đây: - Góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa cạnh tranh và sở hữu trí tuệ; 9
  12. - Cung cấp các thông tin có giá trị tham khảo bổ ích về một số quy định của các tổ chức quốc tế và các quốc gia trong việc xử lý các thỏa thuận HCCT trong các hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT. - Góp phần xác lập những luận cứ khoa học của việc đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các điều khoản HCCT trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT tại nước ta; 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài lời nói đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận; luận văn được kết cấu thành 3 Chương; cụ thể: - Chương 1 : Một số vấn đề lý luận chung về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; - Chương 2: Điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của Liên minh Châu Âu và Việt Nam từ cách tiếp cận Luật so sánh. - Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về điều khoản thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ từ kết quả nghiên cứu so sánh. 10
  13. CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ 1.1 Quyền sở hữu trí tuệ và hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ 1.1.1 Quyền sở hữu trí tuệ và đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ Theo giải thích của WIPO trong một tài liệu có tên “Quyền sở hữu trí tuệ là gì”, quyền SHTT cũng giống như các quyền với tài sản khác. Nó cho phép người sáng tạo ra, hay người sở hữu sáng chế, nhãn hiệu hay tác phẩm được bảo hộ hưởng lợi ích trên công trình của mình hay việc đầu tư vào quá trình sáng tạo. Các quyền này đã được nêu ra và ghi nhận tại Điều 27 của Tuyên bố Toàn cầu về Nhân quyền, quy định về quyền hưởng lợi từ việc bảo hộ các quyền nhân thân và quyền tài sản của các tác giả các tác phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật. Tầm quan trọng của SHTT cũng như một số đối tượng của quyền SHTT được ghi nhận lần đầu tiên tại các văn bản có tính toàn cầu là Công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 và Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật năm 1886. Tương tự như vậy, WTO định nghĩa quyền SHTT là các quyền trao cho cá nhân hay tổ chức đối với kết quả của việc sáng tạo trí óc của họ. Quyền SHTT cho phép người sáng tạo quyền độc quyền trong việc sử dụng sản phẩm sáng tạo của mình trong một thời gian nhất định.[26] Điều 1226, Phần IV, Bộ luật dân sự của Cộng hòa Liên bang Nga lại quy định: Quyền SHTT được công nhận trên cơ sở kết quả của hoạt động trí tuệ và sự cá biệt hóa các kết quả của hoạt động đó, bao gồm quyền độc quyền tức 11
  14. là quyền sở hữu; và trong các trường hợp được quy định bởi Bộ luật này, cũng là các quyền sử dụng cá nhân và các quyền khác (quyền cho tác giả tác phẩm, quyền tiếp cận và các quyền khác) Pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 1, Điều 4 Luật SHTT về Quyền sở hữu trí tuệ như sau: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng” Như vậy, mặc dù không hoàn toàn đồng nhất song các quốc gia và các tổ chức trên thế giới đều có quan niệm chung rằng, quyền SHTT (cũng giống như các quyền đối với tài sản khác) là các quyền dành cho người (bao gồm cả tổ chức, cá nhân) đối với các tác phẩm, sự sáng tạo hay sự cá biệt hóa, đặc biệt là quyền độc quyền sử dụng, và thường là trong một thời gian nhất định. Theo quy định của luật Việt Nam, quyền SHTT là một loại quyền tài sản, điều đó có nghĩa là quyền SHTT cũng là một loại tài sản, có thể định giá được và có thể tham gia vào các giao dịch dân sự. Tương tự với các loại tài sản khác, pháp luật dành cho chủ thể của quyền SHTT quyền sở hữu tối cao và quyền ngăn cấm người khác sử dụng quyền SHTT của mình. Đây cũng là chế độ pháp lý dành cho quyền SHTT mà đa số các nước áp dụng. Chế độ pháp lý này được xây dựng dựa trên nền tảng kinh tế hay bản chất kinh tế của quyền SHTT. Đó là quyền SHTT có tính công cộng cao. Tính công cộng cao của quyền SHTT được thể hiện ở chỗ, quyền SHTT sau khi được công bố có thể được sử dụng với chi phí rất thấp và dễ dàng, ví dụ như việc sao chép một kiểu dáng công nghiệp, một phần mềm máy tính Vì lý do đó, chỉ có việc bảo vệ và trao quyền độc quyền sử dụng cho chủ thể của quyền SHTT mới có thể thúc đẩy được sự phát triển của sáng tạo và khoa học – công nghệ. 12
  15. Về mặt phân loại, quyền SHTT thường được phân chia thành quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Như đã đề cập, quyền SHTT thường bao gồm 3 loại đối tượng lớn, đó là quyền tác giả và quyền liên quan; quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Cùng với sự phát triển của kinh tế và kỹ thuật, sự phát triển và mở rộng của các đối tượng của quyền SHTT được thể hiện qua thời gian khá dài và được ghi nhận trong các công ước, hiệp ước quốc tế. Công ước Paris là công ước đầu tiên liên quan đến quyền SHTT và đối tượng của quyền SHTT. Công ước Paris ra đời năm 1883 quy định về các quyền sở hữu công nghiệp và đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được Công ước Paris nêu ra bao gồm: sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Sau này, một đối tượng nữa của quyền sở hữu công nghiệp được bổ sung đó là thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được quy định và ghi nhận trong Hiệp ước Washington năm 1989 về Sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp Liên quan đến quyền tác giả, năm 1886, Công ước Bern ra đời với mục đích bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Đây chính là cơ sở quan trọng để bảo vệ một loại đối tượng quan trọng nữa của quyền SHTT đó chính là quyền tác giả. Cùng với sự phát triển của xã hội, một loại đối tượng nữa của quyền SHTT được ghi nhận đó là quyền liên quan đến quyền tác giả. Công ước Rome năm 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà xuất bản, ghi âm và tổ chức phát sóng là một cơ sở quan trọng để bảo hộ quyền liên quan đến quyền tác giả hiện nay. Bên cạnh đó cũng phải kể đến Công ước Brussel năm 1974 về bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa, sau này, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và khoa học máy tính, quyền 13
  16. đối với phần mềm máy tính, chương trình sưu tập dữ liệu cũng được bổ sung trở thành một đối tượng mới của quyền tác giả; Quyền đối với giống cây trồng được ghi nhận và quy định trong Công ước UPOV năm 1961 về bảo hộ giống cây trồng mới. Trong quá trình hình thành WTO, Hiệp định TRIPs đã ra đời thể hiện sự phát triển của các đối tượng của quyền SHTT dưới góc độ thương mại hóa trong nền kinh tế toàn cầu. Theo ghi nhận của Hiệp định TRIPs, quyền SHTT gồm có: quyền tác giả và quyền liên quan, cũng tại đây, các chương trình máy tính và sưu tập dự liệu được liệt kê vào danh sách những đối tượng thuộc quyền tác giả. Nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, bằng sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bí mật kinh doanh. Bên cạnh đó, Hiệp định TRIPs cũng quy định về các phương pháp và biện pháp để thực thi và bảo hộ quyền SHTT. Trên cơ sở các công ước, hiệp ước quốc tế này, các quốc gia đã nội luật hóa các quy định về đối tượng của quyền SHTT tại nước mình. Điều 3, Luật SHTT của Việt Nam quy định các đối tượng của quyền SHTT bao gồm: 1. Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá. 2. Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. 3. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận và bảo hộ đầy đủ các đối tượng của quyền SHTT như đa số các nước trên thế giới. Đây là cơ sở quan 14
  17. trọng để bảo hộ quyền của các chủ thể đối với sản phẩm trí tuệ của mình, từ đó góp phần khuyến khích phát triển sáng tạo và khoa học - công nghệ 1.1.2 Hợp đồng có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các đối tượng của quyền SHTT đã trở thành những đối tượng thương mại mang lại lợi nhuận cho những người sở hữu nó bằng cách chuyển giao quyền sử dụng cho người khác. Từ đó, các loại hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu chuyển giao và nhận chuyển giao này. Luật SHTT của Việt Nam hiện nay quy định hai loại hợp đồng cơ bản có liên quan đến quyền SHTT là Hợp đồng chuyển nhượng quyền SHTT và Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ. Luật chuyển giao công nghệ của Việt Nam lại quy định về hình thức chuyển giao công nghệ như sau: Việc chuyển giao công nghệ được thực hiện thông qua các hình thức sau đây: 1. Hợp đồng chuyển giao công nghệ độc lập; 2. Phần chuyển giao công nghệ trong dự án hoặc hợp đồng sau đây: a) Dự án đầu tư; b) Hợp đồng nhượng quyền thương mại; c) Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; d) Hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo chuyển giao công nghệ; 3. Hình thức chuyển giao công nghệ khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Luật thương mại hiện hành của Việt Nam còn quy định về hợp đồng nhượng quyền thương mại. Theo đó, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây: - Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn 15
  18. hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; - Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh. Nhìn ra thế giới, hiện nay có thể thấy có một số hình thức hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT mà chưa có hoặc ít xuất hiện ở Việt Nam như: Hợp đồng nhóm về quyền SHTT (cross licensing hay patent pool) theo đó hai hoặc nhiều bên cùng nhau thỏa thuận sẽ hợp tác với nhau trong việc phát triển, sử dụng các đối tượng của quyền SHTT do một trong các bên đó tạo ra. Bên cạnh đó, thực tiễn phong phú trên thế giới còn ghi nhận hợp đồng nghiên cứu và phát triển (research and development agreement). Nghiên cứu và phát triển là việc nắm bắt các bí quyết kỹ thuật liên quan đến sản phẩm hoặc quy trình và việc thực hiện các phân tích lý thuyết, nghiên cứu hệ thống hay kinh nghiệm, bao gồm kinh nghiệm sản xuất, thử nghiệm kỹ thuật sản phẩm hoặc quy trình, việc hình thành các cơ sở kỹ thuật cần thiết và kết quả là đạt được các quyền SHTT. Theo quy đinh của pháp luật châu Âu, hợp đồng nghiên cứu và phát triển là thỏa thuận của các bên để cùng nhau nghiên cứu và phát triển sản phẩm hoặc quy trình và cùng nhau khai thác kết quả của việc nghiên cứu và phát triển đó; hoặc cùng nhau khai thác kết quả của việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm hoặc quy trình đã cùng nhau tiến hành theo thỏa thuận trước đó; hoặc cùng nhau nghiên cứu và phát triển sản phẩm hoặc quy trình, bao gồm cả cùng nhau khai thác các kết quả. [17] Như vậy, mặc dù thực tế diễn ra khá phong phú xong các hợp đồng nêu trên đều có một đặc điểm chung đó là đối tượng của các hợp đồng này đều chứa đựng một hoặc nhiều đối tượng của quyền SHTT với mục đích đạt được quyền sử dụng các đối tượng của quyền SHTT đó. 16
  19. Vì quyền SHTT được coi là một dạng tài sản đặc biệt nên các hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT cũng được coi là một trong những dạng hợp đồng đặc biệt. Các hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT là một hình thức phổ biến và quan trọng trong việc thực thi các quyền SHTT của các chủ thể của quyền SHTT. Vì vậy, việc áp dụng pháp luật cạnh tranh với những hợp đồng này cũng có những nguyên tắc, đặc điểm riêng. Trong khi pháp luật SHTT tiếp cận theo hướng trao quyền và đồng thuận thì luật cạnh tranh lại tiếp cận theo hướng cấm và ngăn cản các hành vi nhất định. Chính cách tiếp cận khác nhau đó khiến cho pháp luật SHTT và pháp luật cạnh tranh có những mâu thuẫn nhất định nếu nhìn từ bên ngoài. Đa số các nghiên cứu chỉ ra rằng, pháp luật về SHTT và pháp luật cạnh tranh về thực chất là cùng một mục đích, tuy nhiên lại có cách tiếp cận khác nhau nên nhìn bề ngoài, hai ngành luật này có sự mâu thuẫn với nhau. Cụ thể, pháp luật SHTT và pháp luật cạnh tranh đều cùng hướng đến mục đích là bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, khuyến khích phát triển kinh tế và sáng tạo. Tuy nhiên, cách tiếp cận của hai luật này lại hoàn toàn khác nhau, thậm chí là trái ngược. Do đó, việc áp dụng pháp luật cạnh tranh để điều chỉnh các hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT vừa cần tuân theo những nguyên tắc cơ bản của luật cạnh tranh, vừa cần có những điều chỉnh, ngoại lệ áp dụng một cách linh hoạt để cân bằng lợi ích cá nhân của chủ thể quyền SHTT được pháp luật SHTT trao cho và lợi ích công cộng, lợi ích của người tiêu dùng. 1.2 Bản chất pháp lý của điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT 1.2.1 Khái niệm điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT Trong kinh tế học, hành vi thoả thuận HCCT (Cartel) được nhìn nhận là sự thống nhất hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ 17
  20. sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh. Từ điển Chính sách thương mại quốc tế định nghĩa Cartel là một thỏa thuận chính thức hoặc không chính thức để đạt được kết quả có lợi cho các hàng có liên quan, nhưng có thể có hại cho các bên khác [12, tr74] Một định nghĩa khác: “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí của từ 2 chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kì hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường” [13, tr 125] Thoả thuận hạn chế cạnh tranh là một hình thức cụ thể của hành vi hạn chế cạnh tranh. Mục đích của thoả thuận hạn chế cạnh tranh là để tăng giá bằng cách loại bỏ hay giảm thiểu cạnh tranh và do đó, nó ảnh hưởng trực tiếp tới người mua hàng hoá, dịch vụ. [23] Với các quan điểm và định nghĩa như trên về hạn chế cạnh tranh cùng các đặc điểm riêng của hợp đồng trong lĩnh vực SHTT, có thể thấy về cơ bản điều khoản HCCT trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT là thỏa thuận giữa các bên nhằm làm giảm và hạn chế cạnh tranh trên cơ sở sử dụng các quyền đối với các đối tượng của quyền SHTT theo pháp luật về SHTT. 1.2.2 Các đặc điểm pháp lý của điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT Trong thực tiễn kinh doanh, nội dung của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh rất đa dạng và luôn có sự thay đổi tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, xét trên phương diện kinh tế học và luật học, có thể thấy các thỏa thuận HCCT có các đặc điểm pháp lý sau - Thứ nhất, thỏa thuận HCCT cũng như các dạng thỏa thuận khác là sự thống nhất giữa hai hay nhiều chủ thể độc lập. Một thỏa thuận HCCT phải được hình thành từ sự thống nhất ý chí của các doanh nghiệp tham gia về việc 18
  21. thực hiện một hành vi HCCT. Hình thức pháp lý của sự thống nhất ý chí không ảnh hưởng đến việc định danh thỏa thuận HCCT. Do đó, chỉ cần hội đủ hai điều kiện là có sự thống nhất ý chí và các doanh nghiệp đã cùng thống nhất thực hiện một hành vi HCCT là có thể kết luận đã có thỏa thuận HCCT cho dù thỏa thuận đó bằng văn bản hay lời nói, thỏa thuận công khai hay thỏa thuận ngầm. Bên cạnh yếu tố có sự thống nhất ý chí và hành động thì việc thống nhất ý chí và hành động đó phải được các chủ thể độc lập với nhau thực hiện, thậm chí các chủ thể đó có thể là các đối thủ cạnh tranh với nhau. Tính độc lập giữa các chủ thể trong thỏa thuận HCCT thể hiện ở việc các doanh nghiệp phải hoạt động độc lập với nhau, không phải là những người liên quan của nhau theo pháp luật, không cùng trong một tập đoàn kinh doanh, không cùng là thành viên của tổng công ty. - Thứ hai, các thỏa thuận HCCT, đúng như tên gọi của nó, có khả năng gây ra hậu quả HCCT trên thị trường, không thúc đẩy sự phát triển và gây tổn hại tới người tiêu dùng. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp độc lập với nhau nhằm tạo nên sức mạnh chung trong quan hệ với khách hàng hoặc trong quan hệ cạnh tranh với những đối thủ khác không tham gia thỏa thuận đã xóa bỏ cạnh tranh giữa những doanh nghiệp tham gia thỏa thuận và làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận cũng như ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Đối với các hợp đồng có liên quan đến quyền SHTT, các thỏa thuận HCCT thường có hậu quả là làm giảm, hạn chế khả năng và mong muốn nghiên cứu, sáng tạo và phát triển các công nghệ mới của các bên tham gia thỏa thuận. Do đó, gây ra sự hạn chế đối với sự phát triển công nghệ, sự phát triển của sản phẩm nói chung, đồng thời, không hạ được giá thành sản phẩm, gây bất lợi cho người tiêu dùng. - Thứ ba, các thỏa thuận HCCT trong các hợp đồng liên quan đến quyền SHTT được hình thành dựa trên các quyền độc quyền mà pháp luật 19