Luận văn So sánh pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn So sánh pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_so_sanh_phap_luat_ve_chong_ban_pha_gia_hang_hoa_giu.pdf
Nội dung text: Luận văn So sánh pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ NHƯ HẰNG SO S¸NH PH¸P LUËT vÒ CHèNG B¸N PH¸ GI¸ HµNG HãA GI÷A VIÖT NAM Vµ HOA Kú Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TIẾN VINH HÀ NỘI - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Thị Như Hằng
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng Danh mục sơ đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ KHÁI NIỆM BÁN PHÁ GIÁ VÀ CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA 6 1.1. Khái niệm bán phá giá 6 1.1.1. Bán phá giá dưới góc độ kinh tế 6 1.1.2. Bán phá giá dưới góc độ pháp lý 9 1.1.3. Khái niệm bán phá giá trong thương mại quốc tế 15 1.2. Các biện pháp chống bán phá giá 19 1.2.1. Các biện pháp cam kết 21 1.2.2. Áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời 23 1.2.3. Áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức 24 Tiểu kết chương 1 30 Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ ĐIỀU TRA XỬ LÝ HÀNH VI BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA 31 2.1. Mô hình tổ chức điều tra và trình tự, thủ tục điều tra xử lý hành vi bán phá giá hàng hóa 31 2.1.1. Mô hình tổ chức điều tra hành vi bán phá giá hàng hóa 31 2.1.2. Trình tự, thủ tục điều tra và xử lý hành vi chống bán phá giá hàng hóa 36
- 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam và Hoa Kỳ 59 2.2.1. Vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn từ Việt nam 59 2.2.2. Vụ kiện tôm của Việt Nam tại Hoa Kỳ 61 2.2.3. Vụ kiện tháp điện gió do Hoa Kỳ khởi xướng 64 2.2.4. Vụ kiện thép không gỉ cán nguội do Việt Nam khởi xướng 66 Tiểu kết chương 2 70 Chương 3: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ VIỆC SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 71 3.1. Đánh giá chung 71 3.2. Hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 74 3.2.1. Hoàn thiện khái niệm bán phá giá trong pháp luật hiện hành 74 3.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá 75 3.2.3. Hoàn thiện bộ máy thực thi chống bán phá giá cho phù hợp với điều kiện hiện nay của Việt Nam 78 3.3. Những bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam để phòng tránh và xử lý các vụ việc chống bán phá giá 79 3.3.1. Chủ động phòng chống các vụ kiện bán phá giá của nước ngoài 79 3.3.2. Nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, các cơ quan hữu quan 82 3.3.3. Rõ ràng, minh bạch trong các chi phí, nguyên liệu và lao động để sản xuất hàng xuất khẩu 84 Tiểu kết chương 3 86 KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
- BẢNG CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Giải nghĩa AD : Chống bán phá giá ADA : Hiệp định chống bán phá giá của WTO CITT : Toà Thương mại quốc tế Canada DOC : Bộ Thương mại Hoa Kỳ EU : Liên minh Châu Âu GATT : Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại ITC : Ủy ban thương mại Quốc tế Hoa Kỳ USITC : Hội đồng Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ VCAD : Cục quản lý cạnh tranh VCCI : Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam WTO : Tổ chức thương mại thế giới
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Mức thuế chống bán phá giá tạm thời áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu vào Việt Nam 67 Bảng 2.2: Mức thuế chống bán phá giá tạm thời áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu vào Việt Nam 68 DANH MỤC SƠ ĐỒ Số hiệu sơ đồ Tên sơ đồ Trang Sơ đồ 2.1: Trình tự các sự kiện trong điều tra chống bán phá giá 39
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tự do thương mại và liên kết kinh tế thương mại đang là trào lưu nổi bật thì hội nhập kinh tế quốc tế không những ngày càng trở thành một xu thế khách quan mà còn đóng vai trò là một công cụ hữu hiệu để phát triển nhanh và bền vững nếu được nắm bắt và vận dụng một cách tích cực. Với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế, Việt Nam đã thực hiện và đạt được những thành tựu to lớn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, hiện nay, các quan hệ ngoại thương ngày càng đa dạng và mang tính cạnh tranh gay gắt, các chiến lược xuất khẩu của ta thường bị các rào cản thương mại đặc biệt là các vụ kiện bán phá giá ngày càng tăng đã gây ra không ít những thiệt hại vô cùng to lớn cho nền kinh tế đất nước. Các cơ chế giải quyết lại không hữu hiệu chủ yếu là bằng thủ tục tư pháp và phía thiệt hại luôn là chúng ta, các cơ chế song phương chưa phát triển trong khi đó việc đàm phán gia nhập các cơ chế đa phương thì lại chậm chạp. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào thị trường thế giới. Hoa Kỳ là một thị trường rộng lớn và khó tính, có tiềm năng lớn vào loại bậc nhất trên thế giới. Hơn thế nữa, hiện nay những thị trường truyền thống của Việt Nam như châu Á, châu Âu, Nga, đã có xu hướng bão hòa với các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nên đây là thị trường mới mẻ, tiềm năng mà và tương đối ổn định ở châu Mỹ mà các doanh nghiệp Việt Nam muốn hợp tác, đồng thời là đối tác quan trọng giúp Việt Nam đạt được mục tiêu hội nhập kinh tế thế giới. Thương trường Hoa Kỳ mở ra những cơ hội đầy triển vọng nhưng nó lại được điều chỉnh bằng một hệ thống pháp luật 1
- và các rào cản thương mại cực kỳ phức tạp và chặt chẽ. Luật thuế chống bán phá giá hiện nay đang là một công cụ hữu hiệu trên thị trường này nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Với mong muốn tìm hiểu một cách sâu sắc pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và Việt Nam để có cái nhìn tổng quan hơn và cũng để đưa ra giải pháp khắc phục cũng như hướng hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài: “So sánh pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận, các quy định pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam và Hoa Kỳ để làm rõ các vấn đề pháp lý liên quan. Từ sự so sánh với pháp luật của Hoa Kỳ rút ra bài học kinh nghiệm trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung và cho các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng trong việc phòng tránh, giải quyết các biện pháp chống bán phá giá tại Hoa Kỳ, giúp đẩy mạnh và thâm nhập vào thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Nghiên cứu lịch sử phát triển, các cơ sở kinh tế - pháp lý về chống bán phá giá hàng hóa của Việt nam và Hoa Kỳ. - Làm rõ các khái niệm bán phá giá và chống bán phá giá hàng hóa theo pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ. - Tìm hiểu, so sánh mô hình tổ chức điều tra và xử lý các hành vi bán phá giá theo pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ. - Đưa ra nhưng giải pháp, kiến nghị nhằm giải quyết những khó khăn mà doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi tham gia giao kết thương mại trong và ngoài nước. 2
- 3. Tình hình nghiên cứu Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa là đề tài không mới nhưng cũng chưa bao giờ là cũ đối với những nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, đã có rất nhiều các đề tài nghiên cứu và bài viết về vấn đề này như “ Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Sơn, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2005; “ Các vụ kiện chống bán phá giá và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO” của tác giả Bùi Anh Thủy trong Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2, năm 2007 Ngoài các bài viết và đề tài nghiên cứu còn có một số hội thảo về vấn đề này như: cuộc hội thảo về pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và EU vào cuối năm 2003; hội thảo về nâng cao năng lực chống bán phá giá cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới do Quỹ xây dựng năng lực quản lý quốc gia có hiệu quả Việt Nam – Australia năm 2005 . Bên cạnh đó pháp luật chống bán phá giá còn được đề cập đến trong nhiều sách chuyên khảo như “Bán phá giá và biện pháp bán phá giá hàng nhập khẩu” của tác giả Đoàn Văn Trường do Nhà xuất bản thống kê xuất bản năm 1998, Ngoài ra vấn đề này còn được tiếp cận qua những bản tin của các cơ quản có thẩm quyền của Nhà nước như: Bộ Công Thương, Cục Quản lý cạnh tranh, Vấn đề bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá còn được còn được nghiên cứu tương đối sâu và rộng trong các tác phẩm của các tác giả nước ngoài như: Inge Nore Neufeld (2001), “Anti-dumping and countervailing procedures- use or abuse? Implication for developing countries”, Policy issues in international trade and commodities, Study Series no.9, United Nation; Michael S.Knoll (2002), “Dump Our Anti-dumping law”, Cato Institutes, Washington D.C . 3
- Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá ở nhiều góc độ khác nhau và là những nguồn tài nguyên vô cùng quý báu và phong phú. Tuy nhiên trong đề tài nghiên cứu này tôi chỉ tập trung nghiên cứu qua việc so sánh pháp luật chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ để từ đó đưa ra một số bài học kinh nghiệm và giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trước những khó khăn kiện bán phá giá đang ngày càng tăng. 4.Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống các vấn đề liên quan đến pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam, thể hiện ở những nội dung sau: - Hoàn thiện khái niệm về bán phá giá và chống bán phá giá; - Làm rõ đặc điểm, ý nghĩa và vai trò của chống bán phá giá; - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật chống bán phá giá và thực tiễn thực hiện; - Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện những quy định của pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam. - Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá, đồng thời giúp doanh nghiệp Việt Nam phòng và xử lý các vụ kiện chống bán phá giá ở nước ngoài, đặc biệt là ở Hoa Kỳ. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 5.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá, là các quy định của pháp luật về biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam và Hoa Kỳ. 5.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài Do mức độ rộng lớn của vấn đề đòi hỏi phải có sự nghiên cứu của 4
- nhiều ngành, nhiều cấp nên trong đề tài này chỉ đề cập đến một số nét tiêu biểu về bán phá giá và chống bán phá giá, quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chống bán phá giá từ đó chỉ ra nguyên nhân, thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về khái niệm bán phá giá và các biện pháp chống bán phá giá Chương 2: Pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá hàng hóa Chương 3: Những bài học kinh nghiệm từ việc so sánh pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về chống bán phá giá hàng hóa 5
- Chương 1 PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ KHÁI NIỆM BÁN PHÁ GIÁ VÀ CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA 1.1. Khái niệm bán phá giá 1.1.1. Bán phá giá dưới góc độ kinh tế Bán phá giá luôn đi liền với cạnh tranh và là một trong những hình thức cạnh tranh bất chính. Việc cạnh tranh dựa trên cơ sở chất lượng và giá thành là hình thức cạnh tranh lành mạnh, trong đó yếu tố giá được chú trọng hơn cả. Tuy nhiên, thay vì nghiên cứu nhằm đưa ra được các chiến lược hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh lành mạnh thì có những doanh nghiệp lại dùng chiêu bài bán phá giá để hạ bệ đối thủ. Những năm gần đây, khi hoạt động kinh doanh toàn cầu lớn mạnh, mọi khía cạnh của vấn đề giao thương quốc tế phải được giải quyết trong khuôn phép của luật lệ, người ta mới bàn đến tính công bằng và trung thực trong cạnh tranh. Cạnh tranh cũng phải tuân thủ những nguyên tắc ấy, cụ thể là cạnh tranh phải trung thực và lành mạnh (fair competition) trong một nền thương mại đa phương, phải tạo ra sân chơi bình đẳng (level playing field) đối với mọi thành viên, trong đó, sự cố ý làm sai lệch mối tương quan cạnh tranh để giành lợi thế không công bằng (unfair advantage) đều đáng lên án và có thể bị trừng phạt. Dưới góc độ kinh tế, việc bán phá giá đem lại những lợi ích nhất định sau: Thứ nhất, dưới góc độ của nước xuất khẩu, bán phá giá tạo điều kiện cho nhà sản xuất có điều kiện phát huy tối đa năng lực sản xuất, khả năng tăng lợi nhuận và thâm nhập thị trường mới; Thứ hai, khi bán phá giá, các doanh nghiệp thực hiện bán phá giá có khả năng đánh bại đối thủ, loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. Và tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh và mức độ phá giá, 6
- có thể trở thành doanh nghiệp độc quyền, độc quyền nhóm, qua đó tận dụng lợi thế của doanh nghiệp độc quyền để tăng lợi nhuận. Bán phá giá nhằm mục tiêu chính trị thao túng các nước khác [31]. Chẳng hạn như, Chính phủ Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo bởi vì cạnh tranh giá gạo bây giờ ảnh hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan trọng khác. Hoa Kỳ sẵn sàng bỏ ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi bán phá giá. Điều này làm cho nhiều nước xuất khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu vòng phong toả của Hoa Kỳ. Chẳng hạn, giá xuất khẩu gạo của Hoa Kỳ khoảng 400USD/ tấn, nhưng các nhà xuất khẩu gạo Hoa Kỳ sẵn sàng mua với giá 500USD/ tấn, thậm chí cao hơn đến 800USD/tấn, và họ cũng sẵn sàng bán ra thị trường thế giới chỉ bằng 60 - 70%, thậm chí đến 40% giá mua. Mức giá này thấp hơn nhiều so với giá thành của chính nông dân Mỹ sản xuất ra. Như vậy, Hoa Kỳ có thể sẵn sàng bỏ ra 700 - 800 triệu USD/ năm để tài trợ giá xuất khẩu gạo nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Chính vì điều này mà mặc dù sản lượng gạo của Mỹ hàng năm thấp nhưng Hoa Kỳ lại thao túng giá gạo trên thị trường thế giới [12]. Thứ ba, trong một số trường hợp, doanh nghiệp có mức tồn kho lớn, để giải phóng hàng tồn kho, doanh nghiệp có thể bán phá giá để giải phóng hàng tồn kho hoặc trong trường hợp khan hiếm ngoại tệ hoặc tìm kiếm ngoại tệ trong trường hợp khẩn cấp, doanh nghiệp có thể thực hiện bán phá giá. Như vậy, việc bán phá giá hàng hóa mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đạt được những mục đích kinh tế nhất đinh. Những hành động bán phá giá không nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh thì không bị coi là bán phá giá (ví dụ: bán hàng tươi sống, bán hàng thanh lý, bán hàng hạ giá theo mùa, bán hàng tồn kho đã lỗi thời về kiểu dáng và công nghệ nhưng vẫn còn thời hạn sử dụng; bán hàng sắp hết hạn sử dụng ). Bán phá giá bị coi là hành vi thương mại quốc tế không lành mạnh của 7
- doanh nghiệp. Để tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa chống lại các hành vi cạnh tranh quốc tế không lành mạnh, các quốc gia có quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Do đó mục tiêu của các biện pháp chống bán phá giá là để bù đắp lại những thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu do hành vi bán phá giá gây ra. Mặc dù, bản chất của các biện pháp chống bán phá giá được cho là để đảm bảo sự công bằng trong thương mại quốc tế nhưng trên thực tế không đơn giản như vậy. Đối với các nước đang phát triển như Ấn Độ, Brazil, Achentina sử dụng các biện pháp chống bán phá giá để bảo vệ nền sản xuất còn non trẻ của chính mình. Đối với các quốc gia phát triển, các biện pháp chống bán phá giá vừa là công cụ để hạn chế mở cửa thị trường, hạn chế sự thâm nhập thị trường từ các quốc gia đang phát triển và vừa là cái van an toàn cần thiết cho chính họ. Như trên đã nêu, các quốc gia có quyền tự do trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình. Dẫn đến, nhiều quốc gia đã lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá một cách tùy tiện để hạn chế nhập khẩu, hơn là để đạt được các mục tiêu khắc phục có tính hạn chế mà Hiệp định chống bán phá giá của WTO cho phép. Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực này thì chống bán phá giá không phải là chính sách công mà là chính sách tư. Đó là một phương tiện mà một đối thủ cạnh tranh có thể sử dụng quyền lực của Nhà nước để giành lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ khác. Xét từ góc độ bảo hộ sản xuất trong nước, bên hưởng lợi là ngành công nghiệp nội địa và nạn nhân của biện pháp này là các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài. Chúng ta có thể nhận thấy rõ hơn bản chất và mục đích này thông qua một bản báo cáo của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ: 8
- mục đích của pháp luật chống bán phá giá và chống trợ cấp không phải là bảo vệ người tiêu dùng mà là bảo vệ các nhà sản xuất Thực chất, chức năng của pháp luật chống bán phá giá là để bảo vệ cho các công ty và những người lao động tham gia vào các hoạt động sản xuất ở Hoa Kỳ. Vì vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người hưởng lợi từ các lợi ích kinh tế này là các nhà sản xuất, ngược lại các chi phí kinh tế sẽ do người tiêu dùng gánh chịu [12]. Hơn nữa, các quy định chống bán phá giá là một biện pháp khắc phục thương mại mà các thành viên của WTO đã đồng ý rằng là cần thiết để duy trì hệ thống thương mại đa phương. Động cơ kinh tế để sử dụng biện pháp chống bán phá giá là nhằm để duy trì thương mại công bằng. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu gần đây cho thấy có tới 90% các biện pháp này không nhằm bảo vệ cạnh tranh lành mạnh hoặc thương mại công bằng. Nói cách khác, biện pháp được coi là hợp pháp của WTO, đến lượt nó, quay lại bóp méo dòng chảy thương mại quốc tế và hạn chế sự phát triển nội tại khách quan của hoạt động này, đi ngược lại mục đích của WTO. Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, với những ưu thế về lực lượng lao động trẻ, đông về số lượng, rẻ về giá thành, trong bối cảnh thực hiện chính sách tăng cường xuất khẩu. Việc hàng hóa Việt Nam là đối tượng chịu sự áp đặt các biện pháp chống bán phá giá của nhiều thị trường khác là điều không thể tránh khỏi. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hiểu đầy đủ các quy định về bán phá giá, chống bán phá giá của WTO, cũng của như các quốc gia nhập khẩu, để từ đó xây dựng các biện pháp đối phó một cách hữu hiệu và hiệu quả hơn. 1.1.2. Bán phá giá dưới góc độ pháp lý Khái niệm pháp lý về bán phá giá lần đầu tiên được ghi nhận trong đạo luật thuế hải quan Canađa được thông qua ngày 10 tháng 8 năm 1904. Sau khi 9
- được ban hành, pháp luật chống bán phá giá của Canada đã tỏ ra có tác dụng của nó trong việc bảo hộ các nhà sản xuất nội địa trước luồng hàng hóa rất rẻ từ nước ngoài tràn vào. Vì vậy, pháp luật chống bán phá giá của nước này đã nhanh chóng trở thành hình mẫu để các nước khác noi theo. Cho đến năm 1921, mô hình pháp luật chống bán phá giá của Canada đã được du nhập vào nhiều nước như Nam Phi (1914), Mỹ (1916), Astralia (1921), Vương quốc Anh (1921), New Zealand (1921). Tuy nhiên, các nước này cũng không hoàn toàn du nhập một cách nguyên vẹn mô hình của Canada mà có sự sửa đổi và phát triển cho phù hợp [31]. Khi chống bán phá giá đã trở thành một nội dung quan trọng trong pháp luật thương mại quốc tế thì khái niệm bán phá giá cũng được ghi nhận tại Điều VI Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1947 (gọi tắt là GATT) và trong Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994 của Tổ chức thương mại thế giới (ADA). Điều 2.1 của ADA quy định: Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác với giá thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường [47]. Hai khái niệm quan trọng này là giá trị thông thường và thiệt hại về vật chất. Một doanh nghiệp bị cho là đã bán sản phẩm của mình ở một quốc gia khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường nếu: 1) Giá đó thấp hơn mức giá tương đối trong điều kiện thương mại thông thường đối với sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu. 2) Nếu không thể xác định mức giá nội địa đó thì: - Mức giá đó thấp hơn mức giá tương đối cao nhất được xuất khẩu tới một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường. 10
- - Mức giá đó thấp hơn chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu cộng với một tỷ lệ hợp lý chi phí và lợi nhuận bán hàng. Ở Hoa Kỳ, theo quy định tại khoản 800-801, chương 463 bộ Luật Doanh thu năm 1916 (Revenue Act of 1916), hành vi bán phá giá là hành vi nhập khẩu, hỗ trợ việc nhập khẩu, bán hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tại mức giá thấp hơn đáng kể so với giá trị thực hoặc giá bán buôn của hàng hóa tính tại thời điểm xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ hoặc tại thị trường chính của nước sản xuất hoặc tại một nước thứ 3 cũng nhập hàng hóa đó (giá trị thực hoặc giá bán buôn nói trên là giá không bao gồm cước vận chuyển, thuế và các khoản phí khác cần thiết cho việc nhập khẩu và bán tại thị trường Hoa Kỳ) với điều kiện hành vi nói trên được thực hiện nhằm phá hủy hoặc phương hại một ngành sản xuất ở Hoa Kỳ hoặc ngăn cản việc thành lập một ngành sản xuất ở Hoa Kỳ, giành vị trí độc quyền buôn bán hàng hóa đó ở Hoa Kỳ [31]. Như vậy, theo khái niệm trên hành vi được coi là bán phá giá ở Hoa Kỳ nếu thỏa mãn 2 điều kiện sau: Thứ nhất, hàng hóa đó được bán tại mức giá thấp hơn giá trị thông thường; Thứ hai, hàng hóa đó tại mức giá đó gây thiệt hại tới ngành sản xuất của Hoa Kỳ. Tại Việt Nam, các nhà làm luật có những quan điểm khác nhau về bán phá giá. Sự khác nhau này được thể hiện qua hai văn bản pháp luật là Pháp lệnh giá năm 2002 (gọi tắt là Pháp lệnh giá) và Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 (gọi tắt là Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu). Trong Pháp lệnh giá năm 2002, bán phá giá được hiểu là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây 11
- thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và lợi ích của Nhà nước. Với khái niệm trên hành vi bán phá giá được xác định bởi hai dấu hiệu: - Doanh nghiệp đã bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường của nó trên thị trường Việt Nam. Phương thức để xác định bán phá giá theo Pháp lệnh giá là so sánh hai chỉ số: giá bán thực tế và giá thông thường của sản phẩm bị điều tra. Tuy nhiên, hai chỉ số này đều được xác định từ thị trường Việt Nam. Do đó, hành vi bán phá giá trong pháp lệnh giá không phải là hiện tượng phân biệt giá mà chỉ là việc bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá không theo đúng giá trị thông thường của sản phẩm. - Mục tiêu của hành vi là chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, lợi ích của Nhà nước. Do đó, nếu chưa xác định được mục đích của hành vi thì chưa kết luận được doanh nghiệp đã bán phá giá hàng hóa, dịch vụ. Khoản 1 và 2 Điều 1 Pháp lệnh giá năm 2002 quy định: 1. Pháp lệnh này quy định quản lý nhà nước về giá và hoạt động về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất,kinh doanh; 2. Pháp lệnh này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam [40, Điều 1, Khoản 2]. Văn bản này chỉ giới hạn đối tượng áp dụng là tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mà không phân biệt về nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ nên quy định về bán phá giá có thể áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh chung tại Việt Nam đã có hành vi bán hàng với mức giá quá thấp so với giá thông thường. Do đó, việc bán phá giá hàng hóa vào Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh giá năm 2002. Chỉ khi hàng hóa được lưu thông trên 12
- thị trường Việt Nam và người kinh doanh chúng có hành vi bán hàng hóa quá thấp so với giá thông thường thì các quy định về bán phá giá được áp dụng để xử lý người thực hiện hành vi. Theo Pháp lệnh giá, việc chống bán phá giá là một trong những nội dung của hoạt động quản lý nhà nước về giá, tuy nhiên, có thể thấy rằng các quy định về chống bán phá giá trong văn bản này chủ yếu nhằm thực hiện chức năn quản lý cạnh tranh bằng cách ngăn chặn và xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh giá trên thị trường. Hành vi bán phá giá được Pháp lệnh giá mô tả dưới góc nhìn của quan hệ cạnh tranh trên thị trường (hành vi có mục đích chiếm lĩnh thì trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác và lợi ích của Nhà nước) [31]. Mặc dù Pháp lệnh giá năm 2002 có giới hạn điều chỉnh như trên, song đây là văn bản pháp luật đầu tiên đưa ra khái niệm bán phá giá hàng hóa, dịch vụ. Mặt khác, do văn bản này áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu khi được lưu thông trên thị trường Việt Nam nên việc áp dụng các quy định về bán phá giá có những ảnh hưởng nhất định đến quan hệ thương mại quốc tế. Theo Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 thì bán phá giá được quy định là: 1. Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam (sau đây gọi là hàng hoá bán phá giá vào Việt Nam) nếu hàng hoá đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường 2. Giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là giá có thể so sánh được của hàng hoá tương tự đang được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường [41, Điều 3, Khoản 1, 2]. So với Pháp lệnh giá năm 2002 thì Pháp lệnh chống bán phá giá hàng 13
- hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 đã có những thay đổi cơ bản trong các quy định. Sự thay đổi đó được thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, giá chuẩn được sử dụng xác định việc bán phá giá là giá thông thường của sản phẩm tương tự trên thị trường xuất khẩu mà không là giá thông thường trên thị trường Việt Nam như trong Pháp lệnh giá 2002. Bán phá giá đơn giản chỉ là hiện tượng phân biệt giá quốc tế, có nghĩa là cùng một loại hàng hóa như nhau được tiêu thụ ở hai thị trường (bao gồm thị trường nước xuất khẩu và thị trường Việt Nam) với những mức giá khác nhau một cách bất thường. Sự bất thường của hành vi phân biệt gia là giá bán vào thị trường nhập khẩu thấp hơn giá bán trên thị trường xuất khẩu. Thứ hai, thiệt hại của các tổ chức, cá nhân kinh doanh Việt Nam (ngành sản xuất nội địa) do bán phá giá gây ra không là căn cứ xác định hiện tượng bán phá giá mà là một trong các điều kiện để áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Quy định này của Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 sẽ phù hợp hơn với quan niệm truyền thống về bán phá giá và tương thích với những quy định trong ADA. Như vậy, so sánh khái niệm bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có thể thấy việc bán phá giá của hai quốc gia đều được coi là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường. Tuy nhiên, điều kiện để coi là thỏa mãn hành vi bán phá giá ở Hoa Kỳ là hàng hóa đó tại mức giá đó gây thiệt hại tới ngành sản xuất của chính quốc còn ở Việt Nam đây không được coi là căn cứ hay là điều kiện để áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Theo pháp luật Việt Nam, dưới góc độ pháp lý không có những xung đột lớn về khái niệm và bản chất của hiện tượng bán phá giá hàng hóa. Tuy nhiên, các nhà làm luật Việt Nam lại có cái nhìn khác biệt về hiện tượng này trong các giai đoạn xây dựng pháp luật khác nhau, Bằng chứng cho nhận định này là sự tồn tại hai quy định bán phá giá có nội 14
- dung khác nhau trong pháp lệnh giá năm 2002 và Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004. 1.1.3. Khái niệm bán phá giá trong thương mại quốc tế Theo định nghĩa của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo điều kiện thương mại thông thường. Như vậy về bản chất, bán phá giá trong thương mại quốc tế là hành vi phân biệt giá cả: đối với cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự, nhưng giá xuất khẩu lại thấp hơn giá tiêu thụ nội địa. Theo định nghĩa này: Sản phẩm tương tự là sản phẩm giống hệt, tức sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm đang được xem xét [31]. Việc quyết định một sản phẩm là “sản phẩm tương tự” là một yếu tố rất quan trọng trong bất kỳ vụ việc điều tra nào liên quan đến bán phá giá, vì nó không chỉ xác định sản phẩm nào sẽ thuộc phạm vi để phân tích cho thiệt hại của ngành, mà còn liên quan đến xác định sản phẩm nào của thị trường nội địa nước xuất khẩu sẽ được sử dụng để xác định giá trị thông thường. Hiện tượng bán phá giá có nguồn gốc khá sớm trong thực tiễn thương mại quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp luật các nước đều coi đây là một trong những hành vi thương mại không lành mạnh. Do đó chính phủ nhiều nước cho rằng họ cần phải có hành động chống lại hành vi đó nhằm bảo vệ ngành công nghiệp trong nước. Vấn đề chống bán phá giá lần đầu tiên được Hiệp hội các quốc gia 15
- nghiên cứu ngay từ năm 1922. Đến năm 1947, với sự ra đời của tổ chức GATT, các biện pháp chống bán giá chính thức được đặt dưới sự chi phối của pháp luật quốc tế. Lúc ấy, vấn đề này chưa được chú ý nhiều mà chỉ về sau, khi thương mại phát triển ngày càng nhanh, sự cạnh tranh trở nên ráo riết hơn, và các nước thành viên của GATT cũng ngày càng đông đảo hơn, thì chống bán phá giá mới trở thành một mối quan tâm thật sự. Năm 1967, một số quy định về chống bán phá giá tại GATT được chuẩn hoá trong Hiệp định về thi hành điều VI của GATT (Agreement on the Implementation of Article VI), thường được gọi tắt là Hiệp định chống bán phá giá. Thời gian sau đó, Hiệp định về chống bán giá được bổ sung thêm nhiều nội dung quan trọng [31]. Sau vòng đàm phán Uruguay, cùng với sự ra đời của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) các bên đã ký kết Hiệp định về thực thi Điều VI GATT 1994, thường được gọi với tên “Hiệp định về chống bán phá giá của WTO”. Là một trong những hiệp định thương mại đa biên của WTO, Hiệp định chống bán phá giá có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên của WTO. Các quy định trong Hiệp định là cơ sở pháp lý giúp các nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của các ngành sản xuất trong nước khi xảy ra hiện tượng bán phá giá. Năm 1995, WTO đã thành lập Uỷ ban về chống bán phá giá để giám sát việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước thành viên. Sau khi phát hiện ra hàng hoá bị bán phá giá có khả năng ảnh hưởng đến sản xuất trong nước, các ngành đó đề nghị những cơ quan hữu trách thực hiện việc điều tra và đưa ra kết luận về việc có thực hiện hay không thuế chống bán phá giá để bảo vệ sản xuất trong nước. Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định các biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng được 4 điều kiện sau: - Sản phẩm đang bán phá giá: Sản phẩm của nước xuất khẩu đang 16