Luận văn Quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_quyen_va_nghia_vu_cua_co_quan_bao_hiem_tien_gui_the.pdf
Nội dung text: Luận văn Quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ NGUYỆT QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CƠ QUAN BẢO HIỂM TIỀN GỬI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – Năm 2014 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ NGUYỆT QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CƠ QUAN BẢO HIỂM TIỀN GỬI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS .TS LÊ THỊ THU THỦY Hà Nội – Năm 2014 2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo qui định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Trần Thị Nguyệt 3
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN 1 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 6 MỞ ĐẦU 7 CHƢƠNG 1: Những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi 12 1.1. Tổng quan về cơ quan bảo hiểm tiền gửi 12 1.1.1. Vị trí pháp lý của cơ quan bảo hiểm tiền gửi 12 1.1.2.Vai trò của cơ quan bảo hiểm tiền gửi 17 1.1.3. Mô hình cơ quan bảo hiểm tiền gửi 24 1.2. Quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi 28 1.2.1. Khái niệm quyền, nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi. 28 1.2.2. Mục đích quy định quyền, nghĩa vụ của cơ quan BHTG 31 1.2.3. Các loại quyền, nghĩa vụ của cơ quan BHTG 34 1.2.4. Các yếu tố tác động đến quyền, nghĩa vụ của cơ quan BHTG 36 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 37 Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam 38 2.1. Về việc thực hiện chính sách BHTG 40 2.2.Về cấp và thu hồi giấy chứng nhận BHTG 46 2.3. Về cung cấp thông tin 52 2.4. Về kiểm tra, giám sát tổ chức tham gia BHTG 57 2.5. Về thu phí BHTG 65 2.6. Về chi trả BHTG 72 4
- 2.7. Về kiểm soát đặc biệt và quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG. 78 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 82 Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm hoàn thiện các qui định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam 84 3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện 84 3.2. Một số giải pháp cụ thể 86 3.2.1. Về việc thực hiện chính sách BHTG 86 3.2.2.Về cấp và thu hồi giấy CNBHTG 88 3.2.3. Về cung cấp thông tin 90 3.2.4. Về kiểm tra, giám sát tổ chức tham gia BHTG 91 3.2.5. Về thu phí BHTG 94 3.2.6. Về chi trả BHTG 95 3.2.7. Về quá trình kiểm soát đặc biệt và quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG 98 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 100 KẾT LUẬN 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 104 5
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BHTG : Bảo hiểm tiền gửi DIV : Cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam FDIC : Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Liên bang của Hoa Kỳ KDIC : Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Liên bang của Hàn Quốc IDIC : Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Liên bang của Indonesia MDIC : Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Liên bang của Malaysia NHNN : Ngân hàng nhà nước PGS.TS : Phó Giáo sư - Tiến sĩ 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 13 năm hoạt động, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào hệ thống tài chính quốc gia và trở thành một thiết chế không thể thiếu tại bất kỳ nền kinh tế nào. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng thì sự gia tăng rủi ro trong hoạt động ngân hàng ngày càng cao, ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng. Chính sách bảo hiểm tiền gửi được xem là một công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, củng cố niềm tin cho công chúng và duy trì an toàn mạng tài chính quốc gia. Cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - Tên tiếng Anh là Deposit Inusurance of Vietnam (DIV) là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Hoạt động của cơ quan bảo hiểm tiền gửi không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo an toàn vốn, tự bù đắp chi phí, được miễn các loại thuế theo quy định của pháp luật. Được thừa nhận trong Luật bảo hiểm tiền gửi là “Tổ chức tài chính Nhà nước có tư cách pháp nhân”, cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam vừa là công cụ của Chính phủ trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, vừa là một pháp nhân hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm phi thương mại, được tổ chức và hoạt động như một doanh nghiệp nhà nước. Để cơ quan bảo hiểm tiền gửi thực hiện tốt vai trò trên, 7
- pháp luật quy định các quyền, nghĩa vụ, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức này thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Luật bảo hiểm tiền gửi ra đời có ý nghĩa quan trọng đối với cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, nâng cao địa vị pháp lý và là cơ sở để đảm bảo thực hiện chức năng nhiệm vụ phù hợp với tình hình phát triển của hệ thống ngân hàng và điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật Việt Nam là cần thiết nhằm đánh giá được tính hiệu quả, độc lập và khả năng chủ động trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của tổ chức này. Với ý nghĩa trên, tôi xin chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam” để làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay đã có một số nghiên cứu về Bảo hiểm tiền gửi như “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” của PGS, TS Lê Thị Thu Thủy, nhà xuất bản đại học quốc gia năm 2008. Đây là một cuốn sách chuyên khảo có nội dung tổng quan về bảo hiểm tiền gửi, cung cấp cho bạn đọc những thông tin cơ bản nhất về bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và thế giới, tuy nhiên lại chưa đi sâu vào từng khía cạnh cụ thể của bảo hiểm tiền gửi. Một số công trình khác chủ yếu tập trung vào mô hình tổ chức, quy chế pháp lý và các hoạt động nghiệp vụ giám sát, kiểm tra, xử lý, lợi ích của bảo hiểm tiền gửi như “Bảo hiểm tiền gửi, nguyên lý và định hướng”, TS Nguyễn Thị Kim Oanh, Nhà xuất bản Lao động xã hội năm 2004; Quy chế pháp lý về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam, ThS Lê Thị Thúy Sen, Viện Nhà nước Pháp luật năm 2008. Ngoài ra một số bài viết về vai trò của tổ chức bảo 8
- hiểm tiền gửi, chức năng giám sát của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, địa vị pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi được đăng trên các tạp chí Luật học, tạp chí Tài chính ngân hàng, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Bên cạnh đó, cũng có một số luận án, luận văn chuyên ngành luật kinh tế nghiên cứu về vấn đề này như Luận án TS của Hoàng Thu Hằng năm 2012 về “Pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam”, theo đó luận án tập trung đi vào nghiên cứu về địa vị pháp lí của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, mô hình hoạt động, nội dung hoạt động, công cụ thực hiện hoạt động bảo hiểm tiền gửi; Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Duy Hoàn năm 2011 về, “Pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” lại tập trung nghiên cứu về nguyên lý tổ chức và hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam. Cho đến nay, có thể thấy các công trình chưa đi sâu phân tích khía cạnh quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi. Đặc biệt, Luật bảo hiểm tiền gửi ra đời có hiệu lực thi hành từ 01/01/2013 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cơ quan bảo hiểm tiền gửi, nâng cao địa vị pháp lý và xác định rõ nhiệm vụ quyền hạn của tổ chức này. Do vậy, việc nghiên cứu sâu khía cạnh khía cạnh quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi là cần thiết nhằm đánh giá được tính hiệu quả, độc lập và khả năng chủ động trong hoạt động của cơ quan này. 3. Mục đích, nhiệm vụ Luận văn tập trung nghiên cứu và làm rõ quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở phân tích các quy định hiện hành có sự so sánh với các quy định trước đây cũng như các thông lệ quốc tế và pháp luật của một số nước trên thế giới về một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơ quan bảo hiểm tiền gửi, từ đó luận văn đưa ra một số nhận xét đánh giá và kiến nghị hoàn thiện pháp luật 9
- Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Luật bảo hiểm tiền gửi mới có hiệu lực trong thời gian gần đây (từ 01/01/2013) và việc nghiên cứu các quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi góp phần xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, đánh giá được tính hiệu quả, độc lập và khả năng chủ động trong hoạt động của cơ quan này. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi, nhằm đảm bảo cho cơ quan này thực hiện tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của mình. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được viết trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận, thực tiễn được các nhà nghiên cứu trước đã đưa ra, những tài liệu được công bố trên tạp chí, bài viết, bài báo, các báo cáo tổng kết, từ thực tiễn ở Việt Nam và các nguồn tài liệu nước ngoài. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Thống kê, so sánh, đối chiếu, phân tích, chứng minh tổng hợp, quy nạp để phân tích các nội dung của đề tài và rút ra những kết luận khoa học của mình. 10
- 6. Ý nghĩa khoa học của đề tài Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tôi mong muốn góp phần làm rõ hơn quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành, từ đó đánh giá được việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của cơ quan này có phù hợp với các mục tiêu chính sách phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế hay không, có bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền hay không, từ đó đưa ra được một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cơ quan BHTG Việt Nam, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan này. 7. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam. Chương 3. Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. 11
- CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CƠ QUAN BẢO HIỂM TIỀN GỬI 1.1. Tổng quan về cơ quan bảo hiểm tiền gửi 1.1.1. Vị trí pháp lý của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Khi đề cập đến vị trí pháp lý của một tổ chức nào đó chính là xác định vị trí mà pháp luật quy định cho tổ chức đó trong mối quan hệ với các chủ thể liên quan như tổ chức cá nhân khác hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, vị trí pháp lý của cơ quan BHTG chính là vị trí mà pháp luật quy định trong mối quan hệ với người gửi tiền, các tổ chức tham gia BHTG cũng như các cơ quan nhà nước khác. Cơ quan BHTG ở Việt Nam hiện nay có tên gọi là "Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam", tên giao dịch quốc tế là Deposit Insurance of Vietnam, viết tắt là DIV, được thành lập theo Quyết định số 1394/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 08 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ (trước đây là Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ) và Quyết định 1395/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2013 Phê duyệt Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Ở các quốc gia khác nhau trên thế giới, việc xác định vị trí pháp lý của tổ chức BHTG phụ thuộc vào mô hình BHTG mà quốc gia đó lựa chọn. Đó có thể là các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm được thực hiện hoạt động BHTG, hoặc được tổ chức dưới dạng một quỹ BHTG hoặc là một tổ chức BHTG độc lập của nhà nước. Hầu hết các quốc gia theo mô 12
- hình là một tổ chức độc lập thuộc nhà nước, theo đó tổ chức BHTG có thể thuộc Chính phủ hoặc Quốc hội, với mô hình này đòi hỏi nguồn vốn hoạt động lớn, tính độc lập khá cao phù hợp với các nước phát triển. Ví dụ như Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Liên bang của Hoa Kỳ (FDIC) là tổ chức bảo hiểm tiền gửi đầu tiên trên thế giới, FDIC là tổ chức hoạt động độc lập với Chính phủ và chịu sự kiểm soát của Quốc hội; Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc (KDIC) được thành lập năm 1996 do Chính phủ quản lý; Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Indonesia (IDIC) được thành lập năm 2005, là tổ chức độc lập trực thuộc Chính phủ, chịu trách nhiệm về việc triển khai chức năng nhiệm vụ của mình và báo cáo trực tiếp cho Tổng thống, có thẩm quyền ban hành văn bản điều chỉnh hoạt động BHTG. Tại Việt Nam, trước khi có Luật bảo hiểm tiền gửi những quy định về địa vị pháp lý của tổ chức BHTG được quy định tại Nghị định 89/1999/NĐ-CP và Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 89/1999 của Chính phủ về BHTG, theo đó tổ chức BHTG là một tổ chức tài chính nhà nước độc lập, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, góp phần duy trì sự phát triển an toàn và lành mạnh hoạt động ngân hàng. Trong điều kiện hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờ việc quy định như vậy là phù hợp bởi lẽ với hệ thống ngân hàng phát triển chưa đủ mạnh, mà đặc thù của hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro và rủi ro thường mang tính dây chuyền nên sẽ ảnh hưởng lớn đến an toàn của hệ thống tài chính quốc gia khi có rủi ro xảy ra. Do đó khi tổ chức BHTG là một tổ chức tài chính của nhà nước sẽ tạo ra cơ chế đủ mạnh để đối phó với những rủi ro và giúp đỡ các tổ chức tham gia BHTG khi gặp khó khăn về tài chính trong quá trình hoạt động. Mặt khác lúc này việc tham gia BHTG sẽ là bắt buộc đối đối với tất cả các tổ chức có hoạt động nhận tiền gửi cho dù tổ chức đó 13
- hoạt động yếu kém hay đủ mạnh về tài chính, uy tín về năng lực. Tuy nhiên, việc quy định như trên rõ ràng chưa khẳng định được cụ thể hình thức pháp lý của BHTG Việt Nam và dù BHTG Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ- TTg từ năm 1999 nhưng chưa giao cụ thể cho cơ quan nào thay mặt Chính phủ quản lý nhà nước về BHTG. Kế thừa các quy định về pháp luật bảo hiểm tiền gửi trước đây cũng như kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, theo quy định tại Khoản 4, Điều 4 Luật bảo hiểm tiền gửi thì“ Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng”. Và tại Điều 29 Luật bảo hiểm tiền gửi có quy định “Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ. Tổ chức BHTG là pháp nhân, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo an toàn vốn và tự bù đắp chi phí” Như vậy, được quy định là một tổ chức tài chính nhà nước thực hiện chính sách BHTG, một pháp nhân hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, tổ chức BHTG vừa là công cụ của Chính phủ trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ vừa là một pháp nhân hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm phi thương mại và được tổ chức, hoạt động như một doanh nghiệp nhà nước. Cho dù ở vị trí nào đi nữa thì tổ chức BHTG hoạt động vì mục tiêu chính sách công nhằm bảo vệ người gửi tiền, củng cố niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng góp phần ổn định hệ thống tài chính, phát triển bền vững nền kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội. 14
- Khi mới thành lập theo quyết định số 218/1999/QĐ- TTg, số vốn điều lệ của BHTG Việt Nam là 1.000 tỷ đồng do Nhà nước cấp và được bổ sung từ nguồn thu phí BHTG. Qua thời gian hoạt động, số vốn của DIV được tăng dần lên và tính đến tháng 1/2008 là 5.000 tỷ đồng. Có thể thấy, việc bổ sung vốn hoạt động cho DIV là hết sức cần thiết bởi lẽ với nguồn vốn hạn hẹp, DIV chỉ mới dừng lại ở khả năng trợ giúp các tổ chức tín dụng nhỏ, chưa đủ tầm để tham gia hỗ trợ các tổ chức tín dụng lớn cũng như khả năng đối phó với việc rút tiền hàng loạt khi xảy ra khủng hoảng trong hoạt động ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế thì quỹ BHTG/Tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm thường là 2.5% đến 3%. Hiện nay ở nước ta tỷ lệ này mới ở khoảng 1% là khá thấp [44]. Sau khi Luật Bảo hiểm tiền gửi được ban hành, ngày 13/8/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1394/QĐ-NHNN về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và quy định chức năng, nhiệm vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có vốn điều lệ 5.000 tỷ đồng do Ngân sách Nhà nước cấp; có trụ sở chính ở thành phố Hà Nội, văn phòng đại diện và các chi nhánh ở một số khu vực. Như vậy có thể thấy rằng, kể cả trước và sau khi có Luật Bảo hiểm tiền gửi thì tên gọi của cơ quan BHTG Việt Nam vẫn không có gì thay đổi. Mặc dù Cơ quan BHTG Việt Nam được tổ chức, quản trị và điều hành theo mô hình công ty, có Hội đồng quản trị, có Ban điều hành là Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc, các Giám đốc chi nhánh, Trưởng văn phòng đại diện. Theo thông lệ quốc tế, hầu hết cơ quan BHTG đều có tên gọi là Tổng công ty như Tổng công ty BHTG Hoa Kỳ, Tổng công ty BHTG Indonesia Trong quá trình soạn thảo và ban hành Luật BHTG, có nhiều quan điểm khác nhau về tên gọi của cơ quan BHTG. Phần lớn đều cho rằng nên lấy tên là Tổng công ty BHTG Việt Nam vì nó phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với cơ cấu tổ chức, quản trị và 15
- điều hành như quy định hiện nay. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng cơ quan BHTG không nên tổ chức theo đuổi mục tiêu lợi nhuận mà đơn giản chỉ là một tổ chức tài chính đặc biệt của nhà nước, một công cụ của chính phủ để theo đuổi mục tiêu chính sách công nên không nên gọi là Tổng công ty. Cho dù Luật BHTG ra đời vẫn để nguyên tên gọi của tổ chức này thì địa vị pháp lý của BHTG Việt Nam vẫn là một tổ chức tài chính của nhà nước, do nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các quyền, nghĩa vụ của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với cơ quan BHTG Việt Nam; cơ quan BHTG Việt Nam có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, có con dấu và được mở tài khoản tại Ngân hàng, được miễn các loại thuế theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật BHTG trước khi ban hành Luật BHTG, cơ quan BHTG Việt Nam là một tổ chức do chính phủ thành lập và chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước như Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khác mà pháp luật quy định [13].Tuy nhiên các quy định này chưa xác định được cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động BHTG và thực hiện thanh tra, giám sát và kiểm tra hoạt động BHTG. Tại Khoản 14, Điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 chỉ quy định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quản lý nhà nước về BHTG theo quy định của pháp luật về BHTG. Trong quá trình xây dựng Luật BHTG, theo dự thảo luật BHTG thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước thành lập và quản lý nhà nước với mục đích đảm bảo sự an toàn và đảm bảo quyền lợi của người dân. Tuy nhiên, đa số các ý kiến cho rằng quy định này dễ dẫn đến tình trạng "vừa đá bóng vừa thổi còi”, khiến Ngân hàng Nhà nước "ôm đồm” quá nhiều việc. Trên thực tế, Ngân hàng Nhà nước xưa nay vẫn là cơ quan thực thi các chính sách về tiền tệ, cấp giấy phép 16
- cũng như trực tiếp quản lý các hệ thống tín dụng và hoạt động của hệ thống ngân hàng trong toàn quốc. Trong khi đó, chức năng của bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ về quyền lợi của người gửi tiền, bảo đảm an toàn và lành mạnh hệ thống của ngân hàng nhằm nâng cao niềm tin của người dân, bảo đảm việc giám sát hệ thống tài chính quốc gia. Nếu theo như đề xuất trong dự thảo luật Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thành lập và quản lý tổ chức bảo hiểm tiền gửi thì vai trò quản lý, ý nghĩa của tổ chức bảo hiểm tiền gửi cũng như tính độc lập của tổ chức này sẽ giảm đi. Luật BHTG được ban hành đã xác định rõ ràng trách nhiệm quản lý nhà nước đối với BHTG. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về BHTG; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về BHTG, đồng thời bổ sung một điều riêng về trách nhiệm quản lý nhà nước về BHTG của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, Luật còn quy định Bộ, Cơ quan ngang bộ khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc quản lý nhà nước về BHTG; và Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về BHTG tại địa phương [33]. Việc xác định vị trí pháp lý của cơ quan BHTG có ý nghĩa quan trọng không chỉ đánh giá được tính độc lập, hiệu quả trong quá trình tổ chức và hoạt động của cơ quan này mà còn xác định được trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan BHTG đối với người gửi tiền, các tổ chức tham gia BHTG cũng như vị trí trong hệ thống các cơ quan nhà nước. 1.1.2. Vai trò của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Trong quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế, sự ổn định của hệ thống tài chính luôn được các quốc gia đặt lên hàng đầu. Phòng 17
- chống rủi ro trong hoạt động tài chính tiền tệ hơn lúc nào hết phải luôn được đẩy mạnh thường xuyên. Là một định chế tài chính đặc biệt trong hệ thống tài chính quốc gia, BHTG Việt Nam có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Theo đó BHTG Việt Nam góp phần bảo vệ người gửi tiền, đảm bảo sự an toàn lành mạnh của hệ thống ngân hàng, thúc đẩy huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế và xử lý khủng hoảng tài chính. 1.1.2.1. Đối với người gửi tiền Người gửi tiền tìm đến với các ngân hàng với mong muốn khoản tiền nhàn rỗi của mình được cất giữ an toàn và có một khoản tài chính phát sinh thêm từ khoản tiền đó sau một thời gian. Họ chính là những người tiêu dùng sản phẩm - dịch vụ nhận tiền gửi của các ngân hàng, do vậy như những người tiêu dùng khác, họ cần được nhà nước bảo vệ. Với mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, BHTG Việt Nam là công cụ của Chính phủ để bảo vệ người gửi tiền trong quan hệ với tổ chức nhận tiền gửi. Nếu như trước đây, yếu tố thu hút người dân gửi tiền vào ngân hàng chính là lãi suất tiền gửi, họ ít quan tâm đến sự an toàn của lượng tiền mà mình gửi vào ngân hàng, bởi lẽ họ chắc chắn rằng ngân hàng là nơi cất giữ tiền an toàn nhất. Họ chỉ quan tâm đến vấn đề bảo hiểm đối với sức khỏe, tính mạng hay tài sản hiện hữu khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh trên thị trường tài chính tiềm ẩn nhiều rủi ro, khi chứng kiến sự sụp đổ của hàng loạt các tổ chức tài chính lớn mạnh trên thế giới, thì vẫn đề chất lượng, uy tín của các tổ chức tín dụng được người gửi tiền quan tâm nhiều hơn. Theo đó họ quan tâm đến số tiền gửi của mình được bảo đảm như thế nào, nếu như khi tổ chức nhận tiền gửi bị đổ vỡ thì cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm đối với khoản tiền gửi của mình. Cơ quan BHTG Việt Nam cũng như BHTG các nước trên thế giới chính là tổ chức giải quyết những băn khoăn, lo lắng trên của người gửi tiền. Theo đó cơ quan BHTG 18
- sẽ phát huy vay trò bảo vệ người gửi tiền, tăng niềm tin và khuyến khích người dân gửi tiền để huy động vốn cho nền kinh tế bằng các chính sách BHTG. Về bản chất, BHTG cũng là một loại hình bảo hiểm, theo đó BHTG cũng hoạt động trên nguyên tắc “Lấy số đông bù số ít". Với mục đích bảo vệ người gửi tiền nhỏ vì họ là những người bất lợi trong việc tiếp cận thông tin, khi người dân đến gửi tiền tại các tổ chức tín dụng được phép nhận tiền gửi, trên giấy chứng nhận tiền gửi sẽ ghi rõ “tiền gửi được bảo hiểm” sẽ tạo ra tâm lý an tâm, tin tưởng cho người gửi tiền về số tiền gửi của mình. Cơ quan BHTG thực hiện vai trò bảo vệ người gửi tiền một cách trực tiếp thông qua công tác chi trả kịp thời tiền bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG chấm dứt hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngoài ra cơ quan BHTG có trách nhiệm cung cấp cho người gửi tiền đầy đủ hơn thông tin về hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG cũng như đưa ra những cảnh báo sớm nhằm giảm thiểu rủi ro giúp các tổ chức tham gia BHTG hoạt động ổn định góp phần bảo vệ người gửi tiền một cách gián tiếp. 1.1.2.2 Đối với hệ thống ngân hàng Lịch sử ra đời của cơ quan BHTG trên thế giới cũng như ở Việt Nam xuất phát từ sau những vụ đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng. Cơ quan BHTG xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1933 khi mà cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) đã làm hàng loạt các ngân hàng ở Mỹ hoạt động khó khăn và có đến 4000 ngân hàng bị rút giấy phép hoạt động, niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng bị sụp đổ. Trước tình hình đó Chính phủ Mỹ đã quyết định thành lập Công ty BHTG liên bang 19
- (FDIC), tổ chức có vai trò củng cố niềm tin nhân dân Mỹ vào hệ thống ngân hàng. Còn tại Việt Nam vào những năm 1988-1990 sau khi hàng loạt các hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân bị đổ vỡ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của các ngân hàng. Để lấy lại niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng cũng như góp phần kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng và phù hợp với những thông lệ quốc tế trong tiến trình hội nhập việc thành lập một tổ chức chuyên nghiệp thực hiện các nghiệp vụ BHTG không vì mục tiêu lợi nhuận là hoàn toàn cần thiết. Cơ quan BHTG Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh trên. Như vậy, từ lịch sử ra đời của cơ quan BHTG có thể thấy rằng vai trò của DIV đối với hệ thống ngân hàng là vô cùng to lớn. Cơ quan BHTG đảm bảo sự phát triển an toàn, bền vững của của hệ thống ngân hàng. Vai trò của cơ quan BHTG đối với hệ thống ngân hàng được thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất, hoạt động BHTG tạo niềm tin, củng cố niềm tin của người gửi tiền đối các ngân hàng. Có thể khẳng định, hoạt động của một ngân hàng phụ thuộc nhiều vào niềm tin của người gửi tiền. Bởi lẽ, với đối tượng kinh doanh là tiền tệ, hoạt động ngân hàng có nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán [32], hay nói cách khác đó là “đi vay để cho vay” do đó hoạt động ngân hàng có tính nhạy cảm cao, dễ bị ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý. Không chỉ vậy, đây là hoạt động gắn liền với yếu tố rủi ro ở mức độ cao và rủi ro thường mang tính dây chuyền. Do đó khi có rủi ro xảy ra thì việc rút tiền ồ ạt tại các ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, lúc này, ngân hàng sẽ mất khả năng chi trả và phá sản ngân hàng là điều có thể xảy ra. Phá sản ngân hàng không chỉ dừng lại lại ở một ngân hàng yếu kém mà có thể lan truyền sang các ngân hàng khác nếu người dân mất lòng tin ở toàn bộ hệ thống ngân hàng. Với chức năng của mình, cơ quan BHTG đã 20
- xây dựng và củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng. Khi một ngân hàng gặp khó khăn lâm vào tình trạng phá sản, việc chi trả tiền bảo hiểm của cơ quan BHTG cho người gửi tiền sẽ đảm bảo cho người gửi tiền ở ngân hàng khác không lâm vào tình trạng hoảng sợ, việc rút tiền hàng loạt không thể xảy ra. Thứ hai, hoạt động bảo hiểm tiền gửi có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng mới ra đời hoặc ngân hàng với quy mô nhỏ có điều kiện phát triển tốt hơn. Với các ngân hàng nhỏ hay ngân hàng mới đi vào hoạt động, người dân có tâm lý lo ngại về hiệu quả hoạt động của ngân hàng, không dám gửi tiền vào các ngân hàng này vì lo sợ sẽ bị mất sô tiền gửi khi ngân hàng mất khả năng chi trả. Tuy nhiên, khi các tổ chức này tham gia BHTG thì tâm lý này sẽ được giải toả, giúp ngân hàng phát triển tốt hơn. Thứ ba, hoạt động BHTG đóng vai trò quan trọng trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là việc củng cố, chấn chỉnh, cơ cấu lại hệ thống các TCTD cùng với việc nâng cao năng lực thể chế đảm bảo phát triển hệ thống ngân hàng đa năng, hiện đại, hoạt động an toàn, lành mạnh, hiệu quả. Thông qua hoạt động của nghiệp vụ kiểm tra và giám sát của mình, tổ chức BHTG có khả năng đánh giá kịp thời thực trạng hoạt động của các ngân hàng tham gia BHTG. Trong trường hợp phát hiện ngân hàng nào đó hoạt động yếu kém, không hiệu quả một mặt tổ chức BHTG đưa ra những cảnh báo sớm về những nguy cơ, tình trạng khó khăn mà các ngân hàng gặp phải kịp thời mặt khác sẽ triển khai một số biện pháp hỗ trợ như đưa ra phương án sáp nhập với ngân hàng khác, tham gia vào quá trình thanh lý tài sản của ngân hàng. Từ đó nhằm giải quyết các ngân hàng yếu kém một cách êm thấm, không gây xáo trộn lớn trên thị trường trách hiện tượng người dân đổ xô đi rút tiền hàng loạt góp phần duy 21
- trì sự ổn định và an toàn hoạt động của hệ thống tài chính, ngân hàng quốc gia. Thứ tư, hoạt động BHTG tạo động lực để các ngân hàng giám sát lẫn nhau, thúc đẩy nhau nâng cao chất lượng hoạt động, từ đó đảm bảo sự phát triển bền vững của cả hệ thống tài chính ngân hàng quốc gia. Như các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động ngân hàng cũng hướng đến mục tiêu lợi nhuận do đó luôn có sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập thì không chỉ có các ngân hàng trong nước mà cả các ngân hàng nước ngoài tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ ngân hàng. Mặt khác với chính sách BHTG bắt buộc, tiền gửi của nhân dân sẽ được bảo hiểm như nhau tại các tổ chức tham gia BHTG do vậy các ngân hàng trong nước phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ để có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có chi nhánh tại Việt Nam. Thứ năm, hoạt động BHTG giúp hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG khắc phục khó khăn tạm thời về tài chính nhằm duy trì hoạt động kinh doanh thoát khỏi nguy cơ mất khả năng chi trả dẫn đến phá sản ngân hàng. Theo đó cơ quan BHTG sẽ áp dụng các biện pháp như: cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp cho tổ chức tham gia BHTG để tổ chức đó có điều kiện chấn chỉnh lại hoạt động hoặc rút khỏi thị trường tiền tệ một cách an toàn, hiệu quả không gây xáo trộn gây ảnh hưởng đến tâm lý của người gửi tiền cũng như hoạt động tài chính ngân hàng. 1.1.2.3. Đối với thị trường tài chính và nền kinh tế Sự phát triển của thị trường tài chính và xu thế tự do hóa tài chính trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho thị trường tài chính thế 22