Luận văn Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam

pdf 104 trang vuhoa 25/08/2022 6580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quyen_duoc_xet_xu_cong_bang_trong_to_tung_hinh_su_v.pdf

Nội dung text: Luận văn Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LIÊN HƢƠNG QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LIÊN HƢƠNG QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã ngành : 60 38 01 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí Hà Nội - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Liên Hƣơng
  4. Mở ĐầU 1 CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG 5 1.1. KHÁI NIệM QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG Tố TụNG HÌNH Sự. 5 1.1.1. Quyền được xét xử công bằng là quyền con người cơ bản. 5 1.1.2. Đối tượng của quyền được xét xử công bằng 6 1.1.3. Các quan điểm và định nghĩa quyền được xét xử công bằng trong TTHS 8 1.2 QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG PHÁP LUậT QUốC Tế 11 1.2.1. Quyền được xét xử công bằng theo các tiêu chí quốc tế về quyền con người 11 1.2.2. Các nội dung căn bản của quyền được xét xử công bằng 16 1.3. CƠ CHế BảO ĐảM QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG Tố TụNG HÌNH Sự 20 1.3.1. Các tiêu chí quyền pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng được nội luật hóa trong TTHS Việt Nam 21 1.3.2. Kiểm soát việc thực thi quyền được xét xử công bằng 23 1.3.3. Thực thi việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng 27 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 31 2.1. THựC TRạNG PHÁP LUậT Tố TụNG HÌNH Sự VIệT NAM Từ 1945 – TRƢớC NĂM 2003 31 2.1.1. Giai đoạn từ 1945 – 1988 31 2.1.2. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 33 2.2. PHÁP LUậT Tố TụNG HÌNH Sự 2003 Về QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG 37 2.2.1. Quy định về các nguyên tắc tố tụng 38 2.2.2. Quy định về địa vị của người tiến hành tố tụng 45 2.2.3. Các quy định về thủ tục các hoạt động tố tụng 51 2.2.4. Các quy định về khiếu nại, tố cáo, trong tố tụng hình sự 54 2.3. THựC TRạNG HOạT ĐộNG Tố TụNG HÌNH Sự VIệT NAM 55
  5. 2.3.1. Bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự 55 2.3.2. Bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong giải quyết khiếu nại tố cáo 64 CHƢƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG TTHS VIỆT NAM 68 3.1. CƠ Sở, YÊU CầU CủA VIệC NÂNG CAO HIệU QUả QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG TTHS VIệT NAM 68 3.2. CÁC GIảI PHÁP NÂNG CAO HIệU QUả BảO Vệ QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG Tố TụNG HÌNH Sự 79 3.2.1 Nâng cao hiệu quả bảo vệ được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự trên cơ sở tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa 79 3.2.2. Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Pháp luật TTHS 80 3.2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự 82 3.2.4. Bảo đảm cho Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật 88 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
  6. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền được xét xử công bằng ngày nay không chỉ là xu hướng chung trong thế giới đương đại mà còn là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, là tiêu chí, thước đo đánh giá mức độ phát triển bền vững của một xã hội, là biểu tượng cho việc theo đuổi biểu tượng văn minh và tiến bộ xã hội. Chủ đề quyền được xét xử công bằng từ lâu đã được các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam đặc biệt coi trọng, nhưng chưa bao giờ thu hút được sự quan tâm như ngày nay. Nó đang là một trong những vấn đề được cả cộng đồng nhân loại nói chung và mỗi quốc gia nói riêng nghiên cứu. Trong luật nhân quyền quốc tế, quyền được xét xử công bằng đầu tiên được đề cập trong các Điều 10 và 11 UDHR. Theo Điều 10, mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập và khách quan, để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ, Điều 11 bổ sung thêm một số khía cạnh cụ thể. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam về quyền được xét xử công bằng gồm Hiến pháp quy định những quyền cơ bản trong đó cũng có đề cập đến xét xử công bằng như: Nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Trên cơ sở những quyền cơ bản này, Luật tố tụng hình sự quy định các quyền công bằng ở từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động Tố tụng hình sự. Vấn đề quyền được xét xử công bằng mặc dù đã được Nhà nước ta rất quan tâm, cụ thể là nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản pháp luật nhằm bảo vệ có hiệu quả các quyền được xét xử công bằng. Tuy nhiên, việc nhận thức về bản chất vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền được xét xử công bằng còn những biểu hiện đơn giản, còn thiếu, chưa hình thành đậm nét các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo quá trình xây dựng bảo đảm pháp lý thực hiện quyền được xét xử công bằng trong hệ thống pháp luật. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 tuy đã quy định điều 1
  7. luật nâng cao quyền được xét xử công bằng, nhưng vẫn còn những hạn chế trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm cũng như bảo vệ quyền con người trong vấn đề này. Bảo vệ quyền được xét xử công bằng như thế nào một cách có hiệu quả trong xã hội hiện nay ở nước ta là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài “ Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự Việt Nam” với mong muốn tìm ra được những tiêu chí có cơ sở khoa học, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Cùng với các công trình nghiên cứu khác, luận văn sẽ góp phần đưa pháp luật tố tụng hình sự vào cuộc sống, phát huy tác dụng vào công cuộc bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự Việt Nam 2. Tình hình nghiên cứu. Vấn đề Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam là vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn ngành Tư pháp và toàn xã hội. Đặc biệt kể từ khi có nghị quyết 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị, xác định đảm bảo quyền được xét xử công bằng, dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, cũng như trong nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị nhấn mạnh nâng cao chất lượng tranh tụng của các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp, thì nội dung về quyền được xét xử công bằng lại càng được quan tâm nghiên cứu. Các tác giả làm luận văn tiến sĩ, luận văn thạc sĩ liên quan đến quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự như tác giả Hoàng Thị Sơn với đề tài: Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 2000; tác giả Nguyễn Duy Phương với đề tài: Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền con người, Khoa Luật – Đại học Huế, 2005; tác giả Nguyễn Thị Vân Hằng với đề tài: Vai trò của luật sư góp phần bảo đảm dân chủ trong hoạt động tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay, luận án thạc sỹ trường Đại học cảnh sát nhân dân 2006 ; Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng với đề tài: Chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện khoa học xã hội, 2012 ; Lại Văn Trình, đề tài: Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam, luận án tiến sỹ luật học, trường Đại học Luật TP Hồ Chí 2
  8. Minh, 2011; tác giả Trần Văn Bảy với đề tài: Người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, thạc sỹ khoa luật hành chính – Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, 2013; Tác giả Đỗ Đình Nghĩa với đề tài: Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học luật Hà Nội, 2004; Tác giả Nguyễn Ngọc Khánh với đề tài: Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình sự, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009. Tuy nhiên, với những công trình nghiên cứu ở trên thì quyền được xét xử công bằng vẫn chưa được đề cập một cách hệ thống. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này vẫn còn rất cần thiết để tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự, đảm bảo góp phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Trong khuôn khổ luận văn cao học, học viên giới hạn nghiên cứu của mình về các vấn đề sau: - Khái niệm về quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự. - Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của chế định Bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự từ sau 1945 đến nay. -Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về quyền được xét xử công bằng ở Việt Nam trong những năm gần đây. -Những hạn chế bất cập; nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự. -Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự . - Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài. Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về Nhà 3
  9. nước và pháp luật, về mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân với tư cách là những căn cứ lý luận để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra. Luận văn đặc biệt coi trọng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự. Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, để đánh giá thực trạng vấn đề; kết hợp phương pháp hệ thống với phương pháp logic – lịch sử, phương pháp so sánh, nhằm phân tích luận chứng một cách khoa học khi xác định các giải pháp bảo đảm thực hiện Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận: Đề tài nghiên cứu lý luận đánh giá thực trạng về bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự, từ đó đề ra phương hướng, các giải pháp đề xuất sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn chi tiết các quy định của pháp luật về quyền con người, quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu như vậy, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền được xét xử công bằng, dân chủ; qua đó khắc phục những thiếu sót, bất cập trong hoạt động này. Các đề xuất, kiến nghị trong đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, hướng dẫn, sửa đổi, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến vấn đề này 6. Kết cấu của luận văn. Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương và kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo. Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về quyền được xét xử công bằng Chƣơng II: Thực trạng quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam 4
  10. Chƣơng III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả quyền được xét xử công bằng trong TTHS Việt Nam Chƣơng I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG 1.1. Khái niệm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự. 1.1.1. Quyền được xét xử công bằng là quyền con người cơ bản. Quyền được xét xử công bằng là nhân quyền cơ bản và có tính phổ quát cao, tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền quan trọng của mọi quốc gia pháp trị. Ở bình diện khái quát nhất, quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, việc trừng trị người phạm tội gây ra những thiệt hại cho các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của các cơ quan tố tụng, góp phần bảo vệ quyền con người của cơ quan tiến hành tố tụng đã góp phần bảo vệ quyền con người. Khi tội phạm xảy ra, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý, đồng thời phải áp dụng chế tài thích đáng, phù hợp với quy định của pháp luật trừng trị người phạm tội. Đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm phạm của hành vi phạm tội là một trong những chức năng của nhà nước và trách nhiệm quan trọng của cơ quan tiến hành tố tụng. Thứ hai, khi tiến hành tố tụng giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền được xét xử công bằng của con người. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không được lợi dụng quyền tiến hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền của con người [2]. Pháp luật tố tụng hình sự có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo và những người tham gia vụ án thông qua biện pháp trấn áp kịp thời, xử lý công minh theo đúng pháp luật đối với mọi hành vi 5
  11. phạm tội xâm phạm tới các quyền của công dân, đảm bảo tất cả mọi tội phạm đều bị phát hiện và xử lý. Đồng thời pháp luật tố tụng hình sự còn quy định chặt chẽ các trình tự, thủ tục trong quá trình giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm tôn trọng quyền được xét xử công bằng, tránh sự lợi dụng của người và cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành tố tụng. Đây là hai định hướng, hai lĩnh vực của pháp luật tố tụng hình sự trong việc bảo vệ quyền được xét xử công bằng bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ chế độ bảo vệ lợi ích của nhà nước và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà Điều 1 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “ trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố xét xử và thi hành án hình sự, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng của cơ quan, tổ chức và công dân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. 1.1.2. Đối tượng của quyền được xét xử công bằng Đối tượng quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là quyền của nhóm những người dễ bị tổn thương trong xã hội, đó là: người bị bắt, người bị giam giữ, bị can, bị cáo người phải chấp hành hình phạt. Những người này khi tham gia vào các hoạt động tố tụng hình sự, dù với tư cách là người bị buộc tội hay là người bị hại, người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự thì họ vẫn được pháp luật bảo vệ và tôn trọng những quyền cơ bản thiết thân của con người. Mặc dù họ là những đối tượng bị hoặc có khả năng bị áp dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất là trách nhiệm hình sự nhưng vẫn có những quyền cơ bản, thiết thân như những quyền 6
  12. tư pháp để được xét xử công bằng, để được điều tra khách quan trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên so với người khác quyền của nhóm người này bị hạn chế do họ bị tình nghi phạm tội, bị kết án hoặc buộc phải tham gia tố tụng do có quyền, lợi ích liên quan đến sự việc phạm tội. Đây là điểm khác biệt của xã hội văn minh so với những xã hội khác, mà ở đó việc tra tấn người bị tình nghi tội phạm là phương pháp cơ bản của việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm hoặc đối xử với người phạm tội như những súc vật, không có bất cứ điều gì kể cả những quyền thân thiết nhất của con người. Như vậy, đối tượng của quyền được xét xử công bằng bao gồm những loại người sau: Người bị tình nghi phạm tội đang trong quá trình giải quyết vụ án, đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nhằm xác nhận sự thật khách quan của vụ án. Những người này có thể là người bị bắt, người bị giam giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật, họ chưa bị coi là người phạm tội mà mới chỉ là người bị tình nghi phạm tội. Người phạm tội bị kết án và phải chấp hành hình phạt do Tòa án tuyên. Khác với người tình nghi phạm tội, đây là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh và phán quyết là có tội, bị tuyên áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của họ phù hợp với quy định của pháp luật và được phán quyết bởi thủ tục tố tụng hình sự công bằng khách quan Nhóm người tham gia tố tụng do có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án: nguyên đơn dân sư, người bị hại, bị đơn dân sự người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người bào chữa Những người này ngoài việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình, còn góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và góp phần bảo đảm sự công bằng trong quá trình giải quyết vụ án. Như vậy, đối tượng quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là người bị buộc tội, bị áp dụng hình phạt phải được chứng minh khách quan và được xét xử công bằng, đồng thời trong quá trình đó nhân phẩm danh dự, sức khỏe của họ phải được tôn trọng. Đối tượng quyền con người trong tố tụng hình sự chỉ là những 7
  13. con người dễ bị tổn thương do các hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng mà đại diện là những người tiến hành tố tụng. 1.1.3. Các quan điểm và định nghĩa quyền được xét xử công bằng trong TTHS “Xét xử” là hoạt động của Tòa án, một hoạt động đặc trưng của việc thực hiện chức năng Tư pháp của Nhà nước. Hoạt động này được tiến hành theo cách thức (thủ tục) nhất định dựa trên nguyên tắc tố tụng hết sức nghiêm ngặt. Bởi lẽ kết quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan Theo từ điển tiếng Việt “ công bằng” được hiểu là “đúng lẽ phải, không thiên vị”. Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành quy định xét xử công bằng có thể được hiểu là việc tuân thủ quá trình tố tụng tôn trọng những giá trị đúng đắn, những quy tắc chuẩn mực chung hoặc cách thức hành động phù hợp được luật pháp thừa nhận Theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí xây dựng khái niệm “ Quyền được xét xử công bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên trong các vụ án phi hình sự trước cơ quan tư pháp ( công an, công tố và tòa án) được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền cụ thể như ( được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi tòa án độc lập không thiên vị ) nhằm bảo đảm việc xét xử được công bằng cũng như các quyền và lợi ích của mọi cá nhân [1, tr 42] Theo THS Lã Khánh Tùng “Quyền được xét xử công bằng” là một nhân quyền cơ bản có tính phổ quát cao, tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền thiết yếu trong mọi quốc gia pháp trị. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh rõ nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy, quyền được xét xử công bằng đã được coi là một hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên toà công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn luận Ngược lại, trong một xã hội không dân chủ, 8
  14. các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người đều được xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi. [33, tr 2010] Phạm vi của quyền được xét xử công bằng được hiểu tương đối khác nhau trong lập pháp và trong nhiều tài liệu nghiên cứu, hướng dẫn áp dụng. Nếu dịch sát nghĩa “right to a fair trial” được hiểu là quyền đối với (quyền có một) phiên xử công bằng. Tức là không phải bị xét xử bởi một phiên toà không công bằng (unfair trial), dù là hình sự hay phi hình sự. Về mặt lập pháp, ngoài hệ thông pháp luật của các quốc gia, quyền được xét xử công bằng được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế và khu vực. Trước hết phải kể đến Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), đã được đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966. Tuy nhiên, theo nhiều quan điểm thì quyền được xét xử công bằng không chỉ gồm các quy định liên quan đến giai đoạn xét xử, được quy định tại Điều 14 mà cả ở nhiều điều luật khác (Điều 7, 9, 15 ) của ICCPR. Về thời điểm phát sinh, nhiều luật gia cho rằng ngay từ khi một cá nhân bị bắt họ đã có quyền này. Bởi lẽ các quyền trước, trong và sau khi xét xử đều có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh rõ nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy quyền được xét xử công bằng được coi là một hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên tòa công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn luận Ngượi lại, trong một xã hội không dân chủ các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người đều được xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại Châu Phi. 9
  15. Trong tuyên ngôn Dakar “ Quyền được xét xử công bằng là một quyền tổng hợp gồm những quyền cụ thể sau: Quyền bình đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên; Quyền kháng cáo; Quyền được bồi thương khi bị kết án oan; Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh; Không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng; Không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi; Không áp dụng hồi tố cũng như nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng” Từ những phân tích ở trên, khái niệm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự có thể được định nghĩa như sau: Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là tổng thể những nhóm quyền cụ thể như ( được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi tòa án độc lập không thiên vị ) được chủ yếu là luật tố tụng hình sự thừa nhận hay quy định cho các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự với những địa vị pháp lý khác nhau. Là những giá trị gắn liền với một nhà nước nhất định và được nhà nước đó bảo vệ, thể hiện mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa các chủ thể trong mối quan hệ pháp luật tố tụng hình sự với một nhà nước nhất định. Như vậy, Bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là các biện pháp, công cụ chống lại sự xâm phạm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự đã được pháp luật, pháp luật tố tụng hình sự của các quốc gia ghi nhận hay quy định cho các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật Tố tụng hình sự không bị xâm phạm, có tính khả thi trong thực tế và phải được tôn trọng trong suốt quá trình Tố tụng hình sự Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm không làm oan người vô tội 10
  16. 1.2 Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế 1.2.1. Quyền được xét xử công bằng theo các tiêu chí quốc tế về quyền con người Quyền được xét xử công bằng đầu tiên được đề cập trong các Điều 10 và Điều 11 UDHR. Theo Điều 10, mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ. Điều 11 bổ sung thêm một số khía cạnh cụ thể, tại một phiên toà đó mọi người bị cáo buộc về hình sự đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tòa được xét xử công khai nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ hành vi hoặc sự tắc trách nào mà không cấu thành một tội phạm hình sự theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện hành vi hay có sự tắc trách đó. Cũng không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt được quy định vào thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện Các quy định kể trên sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong các điều 14, 15 và 11 ICCPR [17, tr 174 – 175] Liên quan đến Điều 14, bên cạnh những khía cạnh đã được nêu cụ thể như trên, trong Bình luận chung số 13 thông qua tại Phiên họp lần thứ 21 năm 1984, HRC đã làm rõ thêm một số khía cạnh khác mà có thể tóm tắt như sau: Thứ nhất, Điều 14 có nội dung đa dạng nhưng tất cả đều hướng vào mục đích nhằm bảo đảm sự chính xác và công bằng trong hoạt động tư pháp. Nội dung của Điều này cần được sử dụng như là cơ sở không chỉ trong hoạt động truy tố và xét xử tội phạm, mà còn trong việc xác định các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, cụ thể như các quyền bình đẳng trước tòa án và trước thẩm phán, quyền được bào chữa, được xét xử công khai bởi một tòa án có đủ thẩm quyền, độc lập và vô tư, được thành lập theo pháp luật Thứ hai, Điều 14 áp dụng cho tất cả các dạng tòa án và thẩm phán, bất kể tòa án thông thường, tòa án quân sự hay tòa án đặc biệt. Và mặc dù ICCPR không cấm 11
  17. việc thành lập các tòa án quân sự hay tòa án đặc biệt nhưng việc sử dụng các tòa án đó để xét xử các vụ việc dân sự là sự đe dọa nghiêm trọng đến tính công bằng, độc lập và vô tư của các tòa án và thẩm phán. Thứ ba, những quy định trong Khoản 3 Điều 14 chỉ là những bảo đảm tối thiểu để thực hiện yêu cầu về xét xử công bằng. Thứ tư, yêu cầu về việc được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình là bảo đảm tối thiểu đầu tiên mà bị can, bị cáo được hưởng trong tiến trình tố tụng. Quy định này áp dụng cho tất cả mọi trường hợp bị cáo buộc phạm tội, kể cả những người không bị tạm giữ, tạm giam. Yêu cầu về việc thông báo không chậm trễ đòi hỏi việc này phải được thực hiện ngay sau khi có sự buộc tội bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới dạng thông báo nói hay văn bản, nhưng phải chỉ ra những chứng cứ và quy định pháp luật được viện dẫn để buộc tội. Thứ năm, việc xác định thời gian thích hợp để người bị buộc tội có thể chuẩn bị bào chữa và liên hệ với luật sư phụ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi vụ án, còn việc dành cho họ điều kiện thuận lợi trong vấn đề này thì liên quan đến các yếu tố như: hoạt động thu thập tài liệu và bằng chứng cần cho việc bào chữa, cơ hội thuê và tiếp xúc với luật sư. Thứ sáu, yêu cầu được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý không chỉ liên quan đến khoảng thời gian từ khi bị cáo buộc đến khi mở phiên tòa, mà còn đến thời gian xét xử tại tòa và thời gian giữa hai phiên xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, tất cả đều không được trì hoãn quá lâu. Thứ bảy, yêu cầu được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà phải được đáp ứng mà không phụ thuộc vào kết quả của hoạt động tố tụng, và phải được áp dụng cả với người nước ngoài cũng như với công dân của nước mình nếu cần thiết. Thứ tám, để thực hiện được bảo đảm không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội cần phải thực hiện các quyền quy định trong các Điều 7 và Khoản 1 Điều 10 ICCPR. Thêm vào đó, luật 12
  18. pháp quốc gia cần có quy định chứng cứ thu được từ việc sử dụng các biện pháp tra tấn, đối xử tàn bạo,vô nhân đạo hay từ bất cứ hình thức ép buộc nào khác trong hoạt động tố tụng là vô giá trị. Thứ chín, để thực hiện các bảo đảm nêu ở các Khoản 1 và 3 Điều 14 ICCPR, các thẩm phán cần được trao quyền giải quyết những khiếu nại, tố cáo về việc vi phạm các quyền của bị can, bị cáo trong bất kỳ giai đoạn tố tụng nào. Thứ mười, người chưa thành niên làm trái pháp luật phải được hưởng những bảo đảm tố tụng ít nhất cũng ngang bằng với những bảo đảm áp dụng với những người đã thành niên. Việc thi hành tố tụng với những người chưa thành niên làm trái pháp luật cần tính đến độ tuổi của các em và mục đích khuyến khích các em hoàn lương, mà thể hiện qua các khía cạnh như: xác định độ tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình sự và độ tuổi tối đa một người có thể được coi là chưa thành niên; xây dựng các tòa án, luật và thủ tục tố tụng đặc biệt áp dụng với người chưa thành niên và bảo đảm rằng những luật và thủ tục đặc biệt đó đã tính đến mục đích khuyến khích các em hoàn lương. Thứ mười một, quy định bất kỳ người nào bị kết án đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật cần được áp dụng với mọi trường hợp phạm tội chứ không chỉ với những trường hợp phạm tội nghiêm trọng. [ 12, tr 169 - 172] Quyền được xét xử công bằng như đã đề cập, được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế và khu vực. Trước hết phải kể đến Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), mà Việt Nam đã gia nhập từ năm 1982, là văn kiện quốc tế có giá trị cao trong hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người. Trong Công ước này, quyền được xét xử công bằng được ghi nhận một cách trang trọng tại Điều 14 và một số điều luật khác. Mặc dù Điều 14 không gọi trực tiếp bằng tên “quyền được xét xử công bằng” nhưng quyền này đã được Uỷ ban Nhân quyền (Human rights Committee), cơ quan được thiết lập nhằm giám sát việc thi hành ICCPR, sử dụng khi phân tích các nội dung của điều luật. Đồng thời, nội hàm của Điều 14 cũng trùng với các quy định về “quyền được xét xử công bằng” trong nhiều điều ước 13