Luận văn Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_quyen_cua_nguoi_bi_buoc_toi_trong_giai_doan_khoi_to.pdf
Nội dung text: Luận văn Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÂM NGHĨA HÒA QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÂM NGHĨA HÒA QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. VÕ THỊ KIM OANH Hà Nội, năm 2021
- LỜI CẢM ƠN Đề tài luận văn thạc sỹ “Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiển tỉnh Bình Dương” là kết quả của một quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng những tri thức được học trong suốt quá trình học tại trường Học viện Khoa học Xã Hội Kết quả này không chỉ là sự phấn đấu của bản thân mà còn có sự trợ giúp của quý Thầy, Cô đã hết lòng tận tụy, truyền đạt những kiến thức quý báu trong thời gian qua. Học viên xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Quý Thầy, Cô tại Học viện Khoa Học Xã Hội đặc biệt là TS. Võ Thị Kim Oanh đã tận tình hướng dẫn phương pháp nghiên cứu khoa học và nội dung đề tài. Sở Tư pháp, Tòa án, các cán bộ quản lý trong ngành tư pháp, tòa án tại tỉnh Bình Dương vì những lời đánh giá quý báu và sự giúp đỡ trong việc thu thập dữ liệu cho luận văn này. Nghiên cứu này không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ, ủng hộ từ tất cả các ban ngành tỉnh Bình Dương Đồng cám ơn gia đình và những người bạn thân vì những sự giúp đỡ to lớn và ủng hộ nhiệt tình, động viên tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. TP. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 03 năm 2020 Học viên cao học Lâm Nghĩa Hòa
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 7 1.1Một số vấn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 7 1.2Quy định pháp luật tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 24 Kết luận chương 1 35 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNGVÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO 37 2.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra từ thực tiễn tỉnh Bình Dương 38 2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra 56 KẾT LUẬN 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO xi PHỤ LỤC xiv
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nội dung BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT CQĐT VKS VKS
- DANH MỤC HÌNH Hình 2 1: Bản đồ hành chánh tỉnh Bình Dương 37 DANH MỤC BẢNG Bảng 2 1: Số lượng người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014 đến năm 2018 39 DANH MỤC ẢNH Ảnh 1: Trung tâm hành chính tại thành phố mới tỉnh Bình Dương xiv Ảnh 2: Trụ sở viện Kiểm soát Nhân dân tỉnh Bình Dương xv Ảnh 3: Trụ sở Công an tỉnh Bình Dương xvi Ảnh 4: Trụ sở tòa án Nhân dân tỉnh Bình Dương xvii Ảnh 5: Bệnh viên y học cổ truyền tỉnh Bình Dương xviii Ảnh 6: Nhà thờ Chánh tòa tỉnh Bình Dương xix Ảnh 7: Công viên Phú Cường tỉnh Bình Dương xx Ảnh 8: Chợ Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương xxi
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người nói chung và quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự nói riêng là giá trị cốt lõi được ghi nhận, bảo đảm trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên như: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Bảo quyền con người của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và trong giai đoạn khởi tố, điều tra nói riêng là một vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Điều đó được thể hiện trong các văn kiện của Đảng như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận, bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của người bị buộc tội nói riêng. Với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó quyền con người được tôn trọng và bảo vệ ở mức độ cao nhất. Quyền con người là một giá trị cốt lõi, trong tố tụng hình sự quyền con người của người bị buộc tội lại là quyền dễ bị xâm phạm và tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi khi ở thế yếu trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự đã được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định và bảo đảm thực hiện các quyền này ở nhiều mức độ khác nhau. Khi tham gia vụ án trong giai đoạn khởi tố, điều tra, người bị buộc tội được bảo đảm các quyền con người cơ bản chung giống như những công dân bình thường khác, bên cạnh đó người bị buộc tội cũng được đảm bảo các quyền tố tụng phù hợp với địa vị pháp lý của họ để họ có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi pháp luật còn quy định những quyền tố tụng riêng, phù hợp với đặc điểm nhân thân nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nhìn chung các 1
- quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra đã tương đối đầy đủ, hoàn thiện. Điều này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm quyền này trên thực tế. Tuy nhiên, qua nghiên cứu tác giả nhận thấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội như: chưa quy định một số quyền cho người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố điều tra, một số quyền quy định nhưng chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện có hiệu quả trên thực tế, chưa có quy định cụ thể để đảm bảo các quyền đặc thù của người bị buộc tội dưới 18 tuổi Thực tiễn khởi tố, điều tra trong những năm gần đâycho thấy, mặc dù pháp luật đã quy định khá chặt chẽ và tương đối đầy đủ, nhưng quyền của người bị buộc tội vẫn chưa thực sự được tôn trọng và thực hiện một cách triệt để làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây bất bình trong dư luận. Tỉnh Bình Dương những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân cũng được phát triển. Trong bối cảnh đó, tình hình trấn áp, xử lý tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị xã hội được đề cao, nhiều loại tội phạm phức tạp cũng xuất hiện. Từ bắt, tạm giữ, điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự là một quá trình dài để buộc tội, kết án đối với những chủ thể bị buộc tội khác nhau. Việc đảm bảo quyền của những chủ thể bị buộc tội này là rất cần thiết để hoạt động tố tụng tiến hành đúng pháp luật, khởi tố, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và đảm bảo việc không để làm trái, làm sai pháp luật, xâm phạm đến quyền của những người bị buộc tội. Bởi các lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài "Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương" làm luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đến nay, trong khoa học pháp lý của nước ta, qua hoạt động nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan ở những góc độ và mức độ khác nhau đối với vấn đề quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra. Vì người bị buộc tội là những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ rất dễ bị xâm phạm trong giai đoạn này. Thực tiễn hiện nay, đa phần các công trình nghiên cứu khoa học cũng như các bài viết của các tác giả chủ yếu viết về 2
- quyền cơ bản của người bị tạm giam, tạm giữ, hay quyền cơ bản của bị can, bị cáo, chưa tập trung nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể về quyền của người bị buộc tội nói chung trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng các quyền đó Mặc dù luật Tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) đã quy định: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” nhưng trên thực tế, mỗi địa phương lại có cách hiểu, cách giải thích khác nhau dẫn đến việc áp dụng các quy định về quyền của người bị buộc tội nhiều khi không đúng, gây ra tình trạng oan sai trong tố tụng hình sự. Liên quan đến vấn đề này, rất nhiều công trình có nội dung đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự nói riêng. Cụ thể có nhiều công trình, bài tham luận như: “Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam” Nxb ĐHQG TP.HCM, 2010, của TS Võ Thị Kim Oanh (Chủ biên): “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, của PGS.TS. Trần Ngọc Đường; cuốn sách “Bảo đảm quyền, lợi ích hợp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, của TS. Trần Quang Tiệp; Luận án tiến sỹ “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam” của Nguyễn Huy Hoàng, Hà Nội, bảo vệ năm 2005; Luận án tiến sỹ “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Lại Văn Trình, TP Hồ Chí Minh, bảo vệ năm 2011; LS, PGS.TS Phạm Hồng Hải với cuốn sách “Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội” “Bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Đạt; Bài nghiên cứu “Bảo đảm quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong TTHS Việt Nam”. Tạp chí Luật học số 3/2011 của PGS. TS Hoàng Thị Minh Sơn Nhìn chung đã có nhiều công trình nghiên cứu cơ bản về bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của người bị buộc tội nói riêng. Các tác giả cũng đã phân tích làm rõ quyền con người của ngươì bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam, một số tác gia ̉đi sâu nghiên cứu và các nguyên tăć của Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến quyền con người của người bị buộc tội. Tuy vậy, tác giả nhận thấy chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra từ thực tiễn địa bàn tỉnh Bình Dương, vì vậy đây là định 3
- hướng nghiên cứu mới của luận văn này. Để thực hiện luận văn tác giả đã lựa chọn, kế thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích của nghiên cứu Nghiên cứu lý luận, trên cơ sở khảo sát thực tiễn, kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu trước về bảo vệ quyền con người trong TTHS đặc biệt là bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng hình sự theo quy định của bộ luật TTHS. Qua đó làm sáng tỏ quy định của pháp luật cũng như những hạn chế, bất cập, và đưa ra những biện pháp nhằm tăng cường đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trong pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tại tỉnh Bình Dương. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả thực hiện những nhiệm vụ cụ thể như sau: Làm rõ khái niệm về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; Làm sáng tỏ các quy định của BLTTHS Việt Nam hiện hành về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; Đánh gia thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014-2018 Đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; số liệu báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền về việc áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. 4
- 4.2 Phạm vi nghiên cứu + Về nội dung, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; phân tích, làm sáng tỏ các quy của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2015 về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Dương; đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác nhằm nâng cao. + Không gian: tác giả nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Dương + Thời gian: Luận văn có đối tượng nghiên cứu là quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương trong 5 năm (2014-2018). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1 Cơ sở lý luận Để hoàn thành Luận án và để giải quyết các yêu cầu của Luận án tác giả sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 26/05/2005 của Bộ chính trị.về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 5.2 Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu đề tài dựa trên các số liệu thực tiễn có liên quan của các cơ quan trong quá trình điều tra, khởi tố, truy tố vụ án hình sự tại tỉnh Bình Dương. Mặc khác tác giả cũng sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, thống kê trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra tác giả đề tài cũng tham khảo một số công trình nghiên cứu của các tác giả nghiên cứu trước đây và các văn bản pháp luật về TTHH của nước ta để làm rõ các vấn đề nghiên cứu. 5
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Cung cấp cho khoa học pháp lý một số các vấn đề lý luận chung về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; Làm rõ những quyền cơ bản của người bị buột tội trong giai đoạn điều tra khởi tố vụ án hình sự. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng đưa ra những giải pháp, kiến nghị để bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trong luật TTHS Việt Nam Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra được ghi nhận trong Luật TTHS Việt Nam, để hạn chế, khắc phục oan, sai, động thời không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Trong nội dung nghiên cứu, đề tài sẽ làm rõ những vấn đề lý luận, vướng mắc, hạn chế còn tồn tại trong quy định của pháp luật về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra và thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy định này trên thực tế. Vì vậy, đề tài có thể được tham khảo trong hoạt động lập pháp nhằm góp phần vào việc hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra, cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật trong thực tiễn. Bên cạnh đó, sau khi hoàn thành đề tài cũng sẽ cung cấp cho khoa học pháp lý các nội dung lý luận về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra. Đề tài sẽ cung cấp thông tin để làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, học viên, sinh viên và những người khác có quan tâm đến nội dung này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 02 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp lý về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương và giải pháp nâng cao. 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1 Một số vấn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm về quyền của người bị buôc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự Quyền con người là một thuật ngữ xuất hiện từ lâu đời trong các văn kiện quốc gia hay quốc tế. Tuy nhiên, thực chất thì chưa có một khái niệm thống nhất nào về quyền con người. Ở góc độ quốc tế, khái niệm về quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu như sau: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản của con người. Ở Việt Nam, quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan của con người, được ghi nhận, bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.Như vậy mặc dù không có khái niệm chung, nhưng cách hiểu về quyền con người vẫn có nét tương đồng đó là quyền con người là quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Quyền con người là khái niệm ra đời gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và khi xã hội có sự phân chia giai cấp, khi có sự vi phạm đến quyền con người thì lúc này quyền con người mới được đặt ra. Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học-kỹ thuật, vấn đề nhân quyền ngày càng được quan tâm và hoàn thiện hơn hết. Đó không còn chỉ là vấn đề của riêng một quốc gia nào mà là vấn đề cấp thiết của toàn nhân loại. Việt Nam cũng là một quốc gia đã tham gia vào nhiều văn kiện, điều ước quốc tế về bảo vệ quyền con người. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước hiện nay, bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế thì các quyền của con người càng cần được tôn trọng và bảo vệ. Yêu cầu này không chỉ được đảm bảo về mặt xã hội mà còn cả về mặt pháp lý, quyền con người phải được bảo vệ bằng luật pháp. 7
- Việt Nam luôn tích cực tham gia các Điều ước và hoạt động về quyền con người của Liên Hợp Quốc. Chỉ thị 12/TW của Ban Bí Thư, ngày 12/7/1992 khẳng định: Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại. Do đó chúng ta cần phải bảo vệ thành quả này trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung, quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì trong lĩnh vực này, quyền con người dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng về vật chất, thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng và ghi nhận các quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền con người của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Mục tiêu của quá trình tố tụng hình sự là đảm bảo cho việc phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để thực hiện nhiệm vụ trên, BLTTHS đã quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án; quy định quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Quá trình giải quyết vụ án hình sự bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi vụ án được giải quyết xong. Quá trình này bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau trong đó khởi tố, điều tra vụ án hình sự là những giai đoạn đầu của quá trình tố tụng hình sự. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm xác định tội phạm, 8
- người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như làm sáng tỏ các vấn đề có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa cơ quan có thẩm quyền với người tham gia tố tụng, trong đó có người bị buộc tội. Ở Việt Nam, thuật ngữ người bị buộc tội là thuật ngữ mới được quy định trong BLTTHS 2015, tại điểm đ khoản 1 Điều 4 liệt kê người bị buộc tội gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để rõ hơn về khái niệm người bị buộc tội chúng ta sẽ làm rõ các khái niệm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong đó, pháp luật hiện hành không định nghĩa thế nào là người bị bắt, tuy nhiên có thể hiểu người bị bắt là người bị cơ quan có thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắtngười theo quy định pháp luật. Theo quy định tại Điều 58 BLTTHS năm 2015 người bị bắt bao gồm người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và bắt trong trường hợp truy nã. Về khái niệm người bị tạm giữ, tại khoản 1 Điều 59 BLTTHS 2015 quy định:“Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”, pháp luật đã đưa ra định nghĩa đối với người bị tạm giữ. Về khái niệm bị can được quy định tại khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015 như sau:“bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”, còn bị cáo được luật quy định như sau “bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”. Từ những quy định trên, ta nhận thấy người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can (không bao gồm tư cách bị cáo vì tư cách bị cáo xuất hiện trong giai đoạn xét xử khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa). Đồng thời, theo quy định của BLTTHS năm 2015 người bị buộc tội trong quá trình tố 9
- tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án nói riêng chưa phải là người có tội vì không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là người bị tình nghi phạm tội, trong quá trình giải quyết vụ án đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cưỡng chế nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Quyền con người của người bị buộc tội nói chung và quyền con người của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng là một vấn đề luôn được các quốc gia trên thế giới quan tâm, trong đó có Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 quyền con người được sắp xếp tại Chương 2. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đứng sau Chương 1 về Chế độ chính trị. Điều này chứng tỏ việc bảo đảm các quyền con người ngày càng được Đảng, Nhà nước đề cao và đặc biệt quan tâm. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, Nhà nước luôn có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quyền cơ bản được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản của công dân được Nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ trước cơ quan pháp luật.Hiện nay, trong BLTTHS không xây dựng khái niệm chính thức về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự, vì vậy cần làm sáng tỏ từ góc độ lý luận để làm tiền đề cho việc đảm bảo quyền, lợi ích cho người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng này. Theo từ điển tiếng Việt khái niệm quyền như sau: quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi, đây là khái niệm chung về quyền. Quyền là những điều không chỉ pháp luật mà còn cả cộng đồng xã hội công nhận cho được hưởng, được làm và người có quyền được đòi hỏi các chủ thể khác có trách nhiệm đáp ứng, đảm bảo cho họ được hưởng, được làm các quyền đó. Trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, tùy thuộc vào địa vị tố tụng và giai đoạn tố tụng khác nhau mà người bị buộc tội được pháp luật quy định cho họ được hưởng, được làm những điều nhất định. Cơ quan có thẩm quyền có trách 10
- nhiệm phải bảo đảm cho người bị buộc tội được hưởng, được làm những điều đó. Nếu cơ quan có thẩm quyền không đảm bảo hoặc đảm bảo không đầy đủ thì người bị buộc tội được đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo cho họ. Theo từ điển Luật học khái niệm quyền được hiểu như sau: quyền là những việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế. Theo khái niệm này thì quyền cũng được hiểu là những việc mà một chủ thể nào đó được làm mà không bị ai ngăn chặn và hạn chế. Khái niệm này cũng được xây dựng dựa trên một số thuộc tính cơ bản, đặc trưng nhất của quyền. Tuy vậy, đây là khái niệm chung về quyền nên những đặc điểm riêng về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự chưa được sử dụng trong khái niệm này. Như vậy, khái niệm về quyền theo các quan điểm trên được tiếp cận ở góc độ chung. Theo logic học, để xây dựng khái niệm về một đối tượng cụ thể cần phải dựa trên những đặc điểm đặc trưng về đối tượng đó. Vì vậy, dựa trên những đặc điểm về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự(chủ thể của quyền, giai đoạn tố tụng, cơ sở pháp lý, nội dung, chủ thể có trách nhiệm đảm bảo) có thể rút ra khái niệm về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự như sau: “Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là những việc pháp luật tố tụng hình sự quy định cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can được hưởng, được làm, được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đảm bảo thực hiện trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự”. 1.1.2. Đặc điểm về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự Trên cơ sở khái niệm về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự đã trình bày ở trên, có thể rút ra các đặc điểm đặc trưng về quyền của người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng này như sau: - Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là một bộ phận cấu thành địa vị pháp lý bên cạnh nghĩa vụ của họ Theo lý luận chung về pháp luật, bất kỳ một quan hệ pháp luật nào cũng được tạo thành bởi ba yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ pháp luật. Quan 11
- hệ pháp luật tố tụng hình sự cũng không phải ngoại lệ. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự người bị buộc tội là một bên chủ thể tham gia vào việc giải quyết vụ án. Khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án họ mong muốn đặt được những lợi ích nhất định và để họ đạt được những lợi ích hợp pháp đó thì pháp luật tố tụng hình sự phải quy định cho họ các quyền và nghĩa vụ pháp lý, đó là nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Trong một quan hệ pháp luật tố tụng hình sự các chủ thể của quan hệ sẽ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quyền của chủ thể này sẽ là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được pháp luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm còn người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can) được pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý. Khi tham gia tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra người bị buộc tội phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và các chủ thể có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng buộc họ phải chấp hành nếu không tự giác thực hiện. Bên cạnh nghĩa vụ pháp lý, pháp luật tố tụng hình sự phải quy định cho người bị buộc tội các quyền phù hợp với địa vị tố tụng của họ. Việc quy định các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án để họ có thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời góp phần xác định sự thật của vụ án. Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự những quyền, nghĩa vụ nhất định và các quyền, nghĩa vụ này phù hợp với địa vị tố tụng của mỗi loại chủ thể. - Nội dung của quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Nội dung của quyền là những việc, những điều, những hành vi tố tụng mà người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can được hưởng, được bảo đảm thực hiện khi tham gia tố tụng với các tư cách của người bị buộc tội. Đồng thời người bị buộc tội được đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền phảo thỏa mãn, đáp ứng và đảm bảo đầy đủ các quyền này cho họ. 12