Luận văn Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng trong điều kiện Việt Nam

pdf 100 trang vuhoa 25/08/2022 6220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng trong điều kiện Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quyen_cong_to_trong_to_tung_hinh_su_tranh_tung_va_v.pdf

Nội dung text: Luận văn Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng trong điều kiện Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÝ VĂN CHÍNH Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng trong điều kiện Việt Nam LUẬN VĂN THẠC SỸ Người hướng dẫn: PGS.TSKH. Lê Cảm Hà nội - 2004
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 2 Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ 7 QUYỀN CÔNG TỐ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRANH TỤNG 7 1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố. 7 1.1.1. Khái niệm quyền công tố 7 1.1.2. Thực hành quyền công tố. 15 1.2 Một số vấn đề lý luận cơ bản về tố tụng hình sự tranh tụng. 17 Chương 2. NỘI DUNG QUYỀN CÔNG TỐ 27 TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRANH TỤNG 27 2.1. Sự hình thành việc tổ chức và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng. 27 2.2. Nội dung cơ bản của việc thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng. 36 2.3. Tổng luận về những nét đặc trưng cơ bản của quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng. 42 Chương 3. 48 VẬN DỤNG MỘT SỐ YẾU TỐ HỢP LÝ CỦA VIỆC TỔ CHỨC VÀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG TRANH TỤNG VÀO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM 3.1. Tổng quan về lịch sử khuôn khổ pháp lý của quyền công tố trong tố tụng hình sự ở Việt Nam. 48 3.2. Thực trạng quyền công tố trong tố tụng hình sự Việt Nam và những đề xuất vận dụng một số yếu tố hợp lý của việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố tụng hình sự tranh tụng. 3.2.1 Tổ chức quyền công tố. 51 3.2.2. Thực hành quyền công tố. 55 3.3. Những khó khăn và lộ trình vận dụng một số yếu tố hợp lý của việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố tụng hình sự tranh tụng vào Việt Nam. 75 KẾT LUẬN 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO 85 PHỤ LỤC 91 1
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Là một bộ phận của cấu trúc quyền lực công trong một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân nhân, quyền công tố ở Việt Nam được nhà nuớc uỷ quyền cho Việt kiểm sát nhân dân thực hiện đã có những hiệu quả nhất định trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm nhằm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Tuy nhiên, việc thực hành quyền công tố ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng kịp thời đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Việc thực hành quyền công tố nằm trong bối cảnh chung của ngành tư pháp mà theo nhận xét của Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị- Ban chấp hành Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam thì : “Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội; vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp.” Cụ thể về công tố, Nghị quyết 08 đã có ý kiến chỉ đạo: “Viện Kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng với Luật sư, người bào chữa, và những người tham gia tố tụng khác ” Chínhvì vậy việc nghiên cứu về mặt lý luận để đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện việc tổ chức và thực hành quyền công tố là đặc biệt cần thiết 1
  4. trong công cuộc cải cách tư pháp hướng tới nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ tinh thần Nghị quyết 08 đã đặt ra vấn đề tăng cường tranh tụng giữa bên công tố và bên gỡ tội. Từ đó cho thấy về măt khoa học chúng ta cần phải nghiên cứu để đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Vấn đề tranh tụng mà Nghị quyết 08 đã đặt ra có thể là một bước đầu cho việc tiến tới áp dụng những hạt nhân hợp lý của tố tụng tranh tụng ở Việt Nam. Như vậy về mặt khoa học, vấn đề này đòi hỏi phải nghiên cứu quyền công tố trong khung cảnh của tố tụng hình sự tranh tụng và gợi mở một số định hướng cho việc hoàn thiện tổ chức và thực hành quyền công tố ở Việt Nam. Xuất phát từ sự phân tích trên đây học viên chọn đề tài :"Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng trong điều kiện Việt Nam " làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu. Trong khung cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về quyền công tố nói chung và việc tổ chức thực hành quyền công tố ở Việt Nam. Cụ thể có thể kể đến như : Đề tài khoa học cấp bộ “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam hiện nay” do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì năm 1999 ; Luận án tiến sĩ luận học của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa với đề tài „’Quyền công tố ở Việt Nam „‟. Ngoài ra trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành cũng đã đăng tải một số bài viết về khái niệm quyền công tố của các nhà khoa học như T.S Lê Hữu Thể : Bàn về khái niệm quyền công tố, Tạp chí Kiểm Sát các số 8, 9 năm 2000 , TSKH Lê Cảm : "Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố", Báo cáo tại Hội nghị khoa học: ”Tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát trong tình hình mới” do Uỷ ban pháp luật Quốc hội tổ chức ngày 02/04/2001 tại Thành phố Hồ Chí Minh 2
  5. Có thể tìm thấy ở những nghiên cứu nói trên những kiến giải khoa học bổ ích cho tiến trình hoàn thiện việc tổ chức và thực hành quyền công tố ở nước ta. Nhưng nhìn chung các nghiên cứu về quyền công tố ở nước ta hiện nay chưa đặt quyền công tố trong mối tương quan với loại hình tố tụng. Đây là luận văn đầu tiên tiếp cận quyền công tố dưới góc độ loại hình tố tụng. Cụ thể là học viên muốn đặt quyền công tố trong loại hình tố tụng tranh tụng- một loại hình tố tụng hình sự được đánh giá là có tính dân chủ cao, và trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng cho việc hoàn thiện tổ chức và thực hành quyền công tố ở Việt Nam. 3. Mục đích của đề tài Đề tài nhằm mục đích phân tích và lý giải để làm sáng tỏ về mặt lý luận những điểm tích cực của việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố tụng hình sự tranh tụng và đưa ra một số định hướng cho việc hoàn thiện tổ chức và thực hành quyền công tố ở Việt Nam 4. Nhiệm vụ của đề tài Để đạt được mục đích nói trên, tác giả luận văn đặt ra cho mình nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau: Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong tố tụng hình sự Nghiên cứu việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố tụng hình sự tranh tụng Tổng kết tình hình thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay chỉ ra những vấn đề bất hợp lý và đi sâu phân tích nguyên nhân của thực trạng đó. Trên cơ sở những luận điểm được nghiên cứu trên đây gợi mở việc vận dụng một số yếu tố hợp lý của việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố tụng hình sự tranh tụng vào Việt Nam. 3
  6. 5.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận : Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Những quan điểm, đường lối của Đảng ta về Nhà nước và pháp luật, về tư pháp và cải cách tư pháp. Những thành tựu của khoa học tư pháp và khoa học luật tố tụng hình sự trong và ngoài nước 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phân tích, tổng hợp , thống kê, so sánh. 6. Cái mới về mặt khoa học và ý nghĩa của đề tài Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập đến đề tài đã được lựa chọn Bằng việc phân tích khoa học, trong luận văn này lần đầu tiên tác giả đã cố gắng giải quyết những vấn đề sau đây : 1) Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong tố tụng hình sự 2) Nghiên cứu việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố tụng hình sự tranh tụng 3) Tổng kết tình hình thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay chỉ ra những vấn đề bất hợp lý và đi sâu phân tích nguyên nhân của thực trạng đó. 4) Trên cơ sở những luận điểm được nghiên cứu trên đây gợi mở việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố tụng hình sự tranh tụng ở Việt Nam. 4
  7. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học, cũng như làm tài liệu tham khảo cho những nhà xây dựng pháp luật. 7. Bố cục của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1. Nhận thức chung về quyền công tố và tố tụng hình sự tranh tụng Chương 2. Nội dung quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng. Chương 3. Vận dụng một số yếu tố hợp lý của việc tổ chức và thực hành quyền công tố trong tố tụng tranh tụng vào điều kiện Việt Nam 5
  8. Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN CÔNG TỐ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRANH TỤNG 1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố. 1.1.1. Khái niệm quyền công tố Trong tiếng Anh “ Prosecute” (công tố) được hiểu là việc tiến hành cáo buộc một người trước toà trong một quy trình tố tụng hình sự.[22, tr. 1080]. Trong tiếng Nga, khái niệm công tố cũng bao gồm hai từ hợp thành: “ợ ỏ õ ố ở ồ ớ ố ồ “ ( tố ) và “ ó ợ ủ ú ọ à ð ủ ũ õ ồ ớ ớ ợ ồ“ ( công ) . Trong đó “ợ ỏ õ ố ở ồ ớ ố ồ “ ( tố ) được hiểu là “ nội dung buộc tội nêu trong quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra, cáo trạng và bản án buộc tội.”[12, tr.82]. Khi ghép từ “ợ ỏ õ ố ở ồ ớ ố ồ„ (tố) với từ “ó ợ ủ ú ọ à ð ủ ũ õ ồ ớ ớ ợ ồ“ (công), thì công tố (ó ợ ủ ú ọ à ð ủ ũ õ ồ ớ ớ ợ ồ ợ ỏ õ ố ở ồ ớ ố ồ ) được hiểu là sự buộc tội của nhà nước đối với người bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thuật ngữ “ công tố “ là một thuật ngữ Hán- Việt, theo Đào Duy Anh, có nghĩa là “ thay mặt quốc gia để buộc tội trước toà.” [1, tr.122]. Trong một cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học Việt Nam, công tố cũng được định nghĩa là “ sự truy tố của nhà nước đối với một kẻ có tội.” Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ tiếng Việt, công tố cũng được hiểu là việc nhân danh nhà nước để buộc tội một người bị tình nghi là phạm tội. Đa số các nước trên thế giới hiện nay hiểu công tố là việc cáo buộc một người bị tình nghi là tội phạm ra trước toà. Đây là ý nghĩa cốt lõi nhất của công tố. Với một khái niệm công tố được hiểu như vậy thì có thể hiểu quyền 6
  9. công tố là quyền nhân danh nhà nước để cáo buộc một người bị tình nghi là tội phạm ra trước toà. Tuy nhiên, do đặc thù của việc tổ chức thực hành quyền công tố ở Việt Nam, khái niệm quyền công tố trong khung cảnh của nước ta có những khó khăn trong việc giải thích. Xung quanh khái niệm quyền công tố ở Việt Nam đã có rất nhiều quan niệm khác nhau. Chúng tôi dựa trên nền tảng của Hiến pháp đã được sửa đổi và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự hiện hành để chỉ ra bản chất của quyền công tố ở Việt Nam. Theo chúng tôi, quyền công tố ở Việt Nam có những dấu hiệu đặc trưng sau đây: Thứ nhất, quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực công và lợi ích công. Quyền cống tố được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của công quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Với tính chất là một quyền nhân danh quyền lực công, quyền công tố đồng thời cũng là quyền nhân danh lợi ích công. Nhưng không phải mọi hoạt động nhân danh lợi ích công đều là quyền công tố. Thứ hai, quyền công tố là một quyền hiến định được trao cho một cơ quan độc lập trong hệ thống bộ máy nhà nước thực hiện. Theo hiến pháp Việt Nam, hệ thống quyền lực được phân bố thành bốn hình thái cơ bản là: lập pháp, hành pháp, xét xử, và kiểm sát. Quyền công tố ở Việt Nam không giống như ở các nước khác thuộc cấu trúc của ngành hành pháp mà thuộc một hệ thống cơ quan độc lập là Viện kiểm sát. Có quan điểm cho rằng quyền công tố là “quyền của một cơ quan nhà nước được nhà nước uỷ quyền.”[11, tr.52]. Chúng tôi không đồng ý với quan điểm nay. Quyền công tố ở Việt Nam không phải là quyền được được nhà nước uỷ quyền mà cũng như quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền xét xử, quyền công tố được thiết lập từ quyền lập hiến mà chủ quyền lập hiến thuộc về nhân dân. Do đó quyền công tố là quyền hiến định chứ không phải là quyền được nhà nước uỷ quyền. 7
  10. Thứ ba, theo Hiến pháp và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, quyền công tố là một loại quyền độc lập. Do đặc thù của việc tổ chức quyền công tố ở Việt Nam, trước đây khái niệm công tố đã được đồng nhất với quyền kiểm sát chung của Viện kiểm sát. Có thể thấy rõ là quan điểm này đã xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân để xem xét quyền Công tố. Quan điểm này cho rằng, tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều làthực hành quyền Công tố. Điều đó có nghĩa là, ngay cả khi Viện kiểm sát kiến nghị yêu cầu các cơ quan Nhà nước sửa chữa những phạm vi pháp luật của mình trên lĩnh vực hành chính kinh tế, xã hội (một thời chúng ta gọi là kiểm sát chung) cũng là thực hành quyền Công tố. Và bởi vậy, có nhiều nước gọi Viện kiểm sát là Viện Công tố. Theo quan điểm này, Công tố không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Có thể nói đây là quan điểm khá phổ biến, đặc biệt là trong ngành Kiểm sát từ trước tới nay. Đi sâu nghiên cứu những lập luận của những người theo quan điểm này cho thấy rõ là cơ sở cho những lập luận của họ chủ yếu là nội dung các điều luật được quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và 1992, đặc biệt là Điều 3 (đúng ra thì phải tính cả các Điều 137 và 138 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 của Nhà nước ta và nhiều điều trong Bộ luật tố tụng hình sự). Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền Công tố bằng 6 công tác. Đó là Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội; Công tác kiểm sát điều tra xét xử; Công tác kiểm sát giam giữ và cải tạo; Công tác kiểm sát thi hành án và Công tác điều tra tội phạm. (Tuy nhiên, việc quy định quyền Công tố và phạm vi quyền công tố như pháp luật hiện hành của nước ta có phần chưa rõ ràng nên dẫn đến nhận thức không đầy đủ). Mặt 8
  11. khác, theo quan điểm này cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhà tố tụng hình sự học Liên Xô trước đây.[ 25, tr.25]. Việc Hiến pháp 1992 đã bỏ đi chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhưng chức năng công tố vẫn còn cho thấy rằng quan điểm đồng nhất quyền công tố với quyền kiểm sát chung là không có cơ sở. Chức năng trọng yếu của Viện kiểm sát là công tố nên không thể quan niệm quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Hiện nay Viện kiểm sát chỉ có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Việc Hiến pháp đặt quyền công tố trước kiểm sát hoạt động tư pháp, mặc dù về mặt văn phong pháp lý, cũng nói lên tính chất chủ yếu của quyền công tố, và công tố không thể là một bộ phận của kiểm sát hoạt động tư pháp. Với khung cảnh hiến định và pháp định hiện nay, công tố không phải là một bộ phận của kiểm sát việc tuân theo pháp luật, mà ngược lại hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật chỉ là một hoạt động bổ trợ của quyền công tố. Xét về mặt thực chất, mọi hoạt động kiểm sát tư pháp đều có ý nghĩa phục vụ cho việc thực hành quyền công tố. Thứ tư, quyền công tố chỉ phát sinh trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Có quan điểm cho rằng công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, vi phạm Luật dân sự, Luật kinh tế và Luật hình sự. Và, quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó. Theo quan điểm này, quyền công tố chỉ thuộc Nhà nước. Nhà nước không thể không thực hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp luật, người có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đồng thời Nhà nước là chủ thể tham gia vào nhiều loại quan hệ pháp luật khác nhau. Với tính cách là một quyền năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật, bao gồm tố tụng hình sự, tố tụng dân 9
  12. sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Sự tồn tại quyền công tố trong các hoạt động tố tụng nêu trên là do nhu cầu khách quan bởi thứ nhất, Nhà nước không thể không thể hiện quyền lực của mình trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật; và thứ hai, sự hiện diện công tố như một điều kiện bảo đảm tính hiệu quả của việc giải quyết các vi phạm pháp luật của cơ quan tài phán. Theo quan điểm trên, quyền công tố được biểu hiện cụ thể ở các quyền của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (dân sự, hành chính, hình sự, lao động), quyền tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn tố tụng nào khi xét thấy cần thiết (dân sự, kinh tế ), quyền yêu cầu Toà án hoặc tự mình điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án Quyền công tố trong các hoạt động tố tụng khác nhau thì không giống nhau về nội dung cũng như hình thức thực hiện. Trong tố tụng hình sự, thực hiện quyền công tố có nghĩa là Nhà nước thực hiện sự buộc tội đối với một người phạm tội cụ thể, còn trong các hoạt động tố tụng khác, thực hành quyền công tố được hiểu là việc Nhà nước trực tiếp hay gián tiếp (bằng văn bản) quy lỗi cho một người hay một pháp nhân nào đó trong việc thực hiện một hay nhiều hành vi vi phạm pháp luật tương ứng. Như vậy, sự buộc tội chỉ là một trong những nội dung của công tố bởi công tố ngoài buộc tội (quy lỗi hình sự) còn là việc quy lỗi cho người khác.[ 25, tr.26]. Thực ra một số quan niệm trước đây coi quyền công tố mở rộng đến lĩnh vực này là khi Viện kiểm sát còn có chức năng kiểm sát chung. Việc đồng nhất chức năng công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đã dẫn đến việc mở rộng phạm vi của quyền công tố đến những vụ án không phải là vụ án hình sự. Việc Hiến pháp hiện hành đã bỏ đi chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát cũng đồng nghĩa với việc trở lại bản chất của quyền công tố là nhân danh nhà nước để cáo buộc một người bị tình nghi là tội phạm trước toà mà không mở rộng đến việc khởi kiện ra toà trong các vụ án ngoài 10
  13. vụ án hình sự. Với hai chức năng hiện hành là công tố và kiểm sát tư pháp thì việc khởi kiện ra toà các vụ án như dân sự, kinh tế không thể có một cơ sở hiến định. Việc Viện kiểm sát có quyền tham gia với tư cách một bên khởi kiện trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động không phải là thuộc lĩnh vực của quyền công tố. Trong việc tham gia vào các vụ án dân sự, kinh tế, lao động Viện kiểm sát chỉ nhân danh lợi ích công chứ không phải nhân danh quyền lực công. Khi đó tư cách của Viện kiểm sát cũng chỉ như một bên đương sự, chứ không phải là tư cách của một cơ quan công quyền. Tư cách của Việm kiểm sát trong phiên toà dân sự chỉ là tư cách của một cơ quan kiểm sát tư pháp. Với tư cách kiểm sát tư pháp, Viện kiểm sát được làm gì ? Khác với hoạt động công tố, hoạt động kiểm sát tư pháp không phải là một hoạt động tố tụng. Kiểm sát tư pháp về thực chất là sự tự kiểm tra của bản thân hệ thống quyền lực tư pháp. Nếu như kiểm sát tư pháp không phải là một hoạt động tố tụng thì Viện kiểm sát tham gia phiên toà dân sự không thể với tư cách một cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó nếu như Kiểm sát viên ngồi phiên toà trực tiếp phát biểu quan điểm, tham gia đánh giá chứng cư thì có nghĩa Kiểm sát viên là một người tiến hành tố tụng. Như như vậy thì có nghĩa là Kiểm sát viên đã làm những việc mà mình không có tư cách pháp lý. Hơn nữa, xét về mặt thực tiễn, nếu như Viện kiểm sát tham gia vào phiên toà dân sự, phát biểu quan điểm thì chắc chắn Hội đồng xét xử xẽ chịu ảnh hưởng từ phía Viện kiểm sát mà không thể độc lập trong xét xử, tính công bằng khách quan trong việc giải quyết tranh chấp dân sự sẽ không được bảo đảm, nhất là khi các bên đương sự lại lợi dụng sự tham gia của Viện kiểm sát trong phiên toà để gây áp lực ngầm đối với Viện kiểm sát từ trước khi phiên toà diễn ra. Chỉ khi nào với tư cách đại diện của cơ quan công tố, Kiểm sát viên mới là một người tiến hành tố tụng- uỷ viên công tố. Nếu như không có quyền 11
  14. công tố trong vụ án dân sự thì Kiểm sát viên không thể tham gia phiên toà dân sự với tư cách là một người tiến hành tố tụng. Đối với một vụ án dân sự, Viện kiểm sát chỉ có thể tham gia với tư cách một cơ quan kiểm sát. Với tư cách một cơ quan kiểm sát, trong quy trình giải quyết một vụ án dân sự, Viện kiểm sát có quyền kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ, kiểm sát quá trình tham gia tố tụng của những người tham gia tố tụng. Với tư cách là một cơ quan kiểm sát tư pháp, Viện kiểm sát chỉ tham gia vào việc giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn thụ lý, lập hồ sơ vụ án. Còn trong giai đoạn xét xử, Việm kiểm sát không được tham gia mà chỉ có thể tham dự. Viện kiểm sát có thể thực hiện được quyền kiểm sát tư pháp của mình với tư cách một người tham dự trong phiên toà dân sự. Thông qua việc ngồi tham dự phiên toà, ngồi đâu thì tùy, không nhất thiết phải bố trí một chỗ ngồi riêng, Kiểm sát viên có thể theo dõi được quá trình mở phiên toà, tranh luận của các bên đượng sự có đúng thủ tục không, và nến có những vi phạm pháp luật thì kháng nghị. Căn cứ theo pháp luật hiện hành thì quyền công tố cũng chỉ phát sinh trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Theo Điều 3 cuả Luật tổ chức Viện kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những công tác sau đây: Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nhân dân; Kiểm sát 12
  15. việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù[14, tr.8]. Quy phạm trên cho thấy quyền công tố chỉ áp dụng đối với việc giải quyết các vụ án hình sự. Đối với các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động, chức năng của Viện kiểm sát không phải là công tố mà là kiểm sát hoạt động tư pháp. Thứ năm, quyền công tố là một quyền cáo buộc một người bị tình nghi là tội phạm trước toà. Sự cáo buộc ở đây được hiểu là tất cả những hoạt động nhằm đưa một nghi phạm ra trước toà, chứ không đơn thuần chỉ là việc truy tố và buộc tội trước toà. Quyền công tố được thực thi bởi cả một quá trình. Quá trình này bao gồm từ việc khởi tố đến việc buộc tội trước toà. Việc truy tố là nội dung trọng tâm và mang ý nghĩa quyết định của việc thực hành quyền công tố chứ không phải là nội dung duy nhất của quyền công tố. Công tố bao gồm cả các hoạt động tiền truy tố. Để buộc tội một người trước toà, đòi hỏi phải có rất nhiều hoạt đông tố tụng từ khởi tố bị can đến việc tiến hành các hoạt động điều tra : khám xét, hỏi cung, trưng cầu giám định, thực nghiệm điều tra Tất cả các hoạt động này đều có ý nghĩa làm cơ sở cho việc buộc tội. Do đó chúng thuộc phạm vi của quyền công tố. Thứ sáu, Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất của quyền công tố. Việc khẳng định quyền công tố bắt đầu từ giai đoạn có quyết định khởi tố bị can đồng thời lại khẳng định chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền công tố hoàn toàn không mâu thuẫn với nhau. Có ý kiến băn khoăn : Trong suốt gian đoạn điều tra, phải chăng chỉ có Viện kiểm sát mới thực hiện chức năng buộc tội ? Cơ quan điều tra thực hiện chức năng gì ?[6, tr.12]. Thực ra, các hoạt động khởi tố, điều tra của cơ quan điều tra chỉ có mục đích là chứng minh tội phạm mà không phải là buộc tội. Các hoạt động khởi tố, điều tra trong quá trình thực hành quyền công tố không đơn thuần chỉ là chứng minh mà còn có mục đích 13
  16. buộc tội: đề nghị Toà án ra phán quyết về tội danh, áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Tóm lại, trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, quyền công tố là một quyền độc lập do Viện kiểm sát nhân danh lợi ích công và quyền lực công cáo buộc một người bị tình nghi là phạm tội ra trước toà. 1.1.2. Thực hành quyền công tố. Từ khái niệm quyền công tố nói trên có thể hiểu thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát nhân danh lợi ích công và quyền lực công thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để cáo buộc một người ra trước toà. Như vậy nêu như quyền công tố là quyền năng duy nhất chỉ có Viện kiểm sát mới có thì chức năng thực hành quyền công tố là chức năng duy nhất của Viện kiểm sát mà không thể có một cơ quan nào làm thay. Trước đây, về mặt lý luận cũng như thực tiễn chưa phân biệt được rành mạch hành vi tố tụng nào là thực hành quyền công tố và hành vi tố tụng nào là thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, Luật tổ chức Viện kiểm sát hiện hành đã quy định cụ thể nội dung việc thực hành quyền công tố và nội dung kiểm sát hoạt động tư pháp. Căn cứ theo Điều 13 của Luật tổ chức Viện kiểm sát hiện hành thì, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: - Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; - Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật; 14
  17. - Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; - Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật; - Huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; - Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. [ 14, tr14] Theo Điều 17 của Luật tổ chức Viện kiểm sát, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: - Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên toà; - Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm; - Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm [ 14, tr.17 ]. Như vậy, Luật đã chỉ rõ nội dung cụ thể của thực hành quyền công tố. Vấn đề đặt ra ở đây là mối tương quan giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là như thế nào ? Có quan điểm cho rằng chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoàn toàn độc lập với nhau và cùng song song tồn tại. Có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng công tố và có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật mặc dù chúng đều do Kiểm sát viên thực hiện trong cùng một thời gian 15
  18. [26, tr.157]. Chúng tôi cho rằng có những hoạt động thuần tuý là thực hành quyền công tố và có những hoàt động kiểm sát tư pháp nhưng nhìn chung thì hai chức năng này có quan hệ đan xen với nhau. Chức năng công tố là chức năng cơ bản của Viện kiểm sát còn đa số các hoạt động kiểm sát tư pháp đều nằm phục vụ cho việc thực hành quyền công tố. Có thể lấy tiêu trí về mục đích của 2 hoạt động : thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát tư pháp để phân biệt đó là : thực hành quyền công tố nhằm đi đến kết luận truy tố hay không truy tố. Còn hoạt động kiểm sát tư pháp nhằm mục đích và đảm bảo cho các hoạt động: khởi tố, điều tra: khám xét, hỏi cung, trưng cầu giám định, thực nghiệm điều tra, lấy lời khai người làm chứng có đúng quy định của luật tố tụng hình sự không. 1.2 Một số vấn đề lý luận cơ bản về tố tụng hình sự tranh tụng. Về cơ bản trên thế giới có hai loại hình tố tụng hình sự điển hình là tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng. Quyền công tố trong những loại hình này có những đặc điểm khác nhau. Dưới đây chúng tôi sẽ trình bầy về đặc điểm của loại hình tố tụng hình sự tranh tụng trong sự đối chiếu với tố tụng hình sự thẩm vấn để làm cơ sở cho việc khảo sát quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng ở chương tiếp theo. Tố tụng hình sự tranh tụng là loại hình tố tụng hình sự điển hình của các nước theo hệ thống pháp luật Anh- Mỹ. Các nghiên cứu về tố tụng tranh tụng đã khái quát loại hình này với trình tự tố tụng như sau: Cảnh sát sau khi phát hiện có vi phạm pháp luật hình sự có thể trực tiếp truy tố bị cáo ra toà chỉ có một thẩm phán, nếu là vi phạm nhỏ, tội ít nghiêm trọng. Nếu là tội nghiêm trọng và bị cáo nhận tội, vụ án sẽ được chuyển cho cơ quan công tố để truy tố ra toà xét xử theo thủ tục rút gọn, không có bồi thẩm đoàn tham dự. Trường hợp bị cáo không nhận tội và đề nghị xét xử bằng thủ tục có bồi thẩm đoàn, vụ án sẽ được cơ quan công tố truy tố ra toà với một thẩm phán và bồi thẩm 16
  19. đoàn. Trong quá trình xét xử, các bên buộc tội và gỡ tội tự xét hỏi, đưa ra chứng cứ, người làm chứng, đối chất, phản bác nhau, và tự bảo vệ quan điểm của mình. Thẩm phán có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động tố tụng, hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn những quy tắc tố tụng, chúng cứ và luật nội dung. Việc quyết định bị cáo có tội hay không có tội hoàn toàn thuộc quyền của bồi thẩm đoàn. Nếu bị cáo bị tuyên là có tội lúc đó chỉ có thẩm phán tiếp tục vụ án với vai trò là người quyết định hình phạt, lượng hình. Nếu bị cáo được tuyên là vô tội, vụ án sẽ chấm dứt ngay và cơ quan công tố cũng không được quyền kháng nghị phúc thẩm vì nguyên tắc Hiến pháp không cho phép xét xử hai lần đối với một bị cáo về cùng một tội. Việc phúc thẩm chỉ đặt ra đối với cả hai bên khi bị cáo bị tuyên là có tội liên quan đến việc định tội hoặc lượng hình. Các thủ tục tố tụng như hỏi cung, khám nghiệm, hay các thủ tục tố tụng tại phiên toà đều phải được ghi âm hoặc ghi hình. Nếu có tranh chấp hay mâu thuẫn giữa các bên về tính đúng đắn và chính xác thì băng ghi âm, ghi hình sẽ được đưa ra để toà án và các bên cùng xem xét lại, cùng đối chứng[ 27, tr.5]. Trong khi đó, quy trình tố tụng thẩm vấn lại gồm những bước rất khác. Cảnh sát là cơ quan đầu tiên có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Khi phát hiện một hành vi phạm tội, tuỳ theo mức độ vi phạm, cảnh sát có nghĩa vụ thu thập các thông tin và chuyển hồ sơ cho Viện công tố. Những vụ việc nhỏ như tội vi cảnh, tội phạm ít nghiêm trong sẽ do Toà tiểu hình hay toà Toà vi cảnh giải quyết. Tại các phiên toà này, việc xét xử có thể do một thẩm phán hoặc cả hội thẩm tham gia, (ví dụ như ở Đức với các tội đại hình). Sau khi vụ án được khởi tố, Viện công tố là cơ quan có quyền chỉ đạo các hoạt động điều tra của cảnh sát. Đối với những vụ án nghiêm trọng, khi việc điều tra sơ bộ đã kết thúc, công tố viên chuyển hồ sơ vụ án cho thẩm phán điều tra để xem xét các yếu tố chứng cứ đã đầy đủ chưa? Thông thường khi cơ quan công tố ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trước toà đại hình thì việc xét xử do một hội đồng 17