Luận văn Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_quyen_con_nguoi_trong_tam_giu_tam_giam_tu_thuc_tien.pdf
Nội dung text: Luận văn Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN ĐÌNH PHƯƠNG QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TẠM GIỮ, TẠM GIAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8. 38. 01. 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. HOÀNG THẾ LIÊN ĐẮK LẮK - NĂM 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của cá nhân tôi. Nội dung cũng như các số liệu trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ các công trình nghiên cứu khoa học nào khác. Tác giả luận văn Trần Đình Phương
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện khoa học xã hội, các quý Thầy Cô đã trang bị tri thức cho tôi, tạo môi trường thuận lợi, điều kiện tốt nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này. Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới TS Nguyễn Văn Thuận đã khuyến khích, chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu này. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã động viên, hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn. Tác giả luận văn T Trần Đình Phương
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn 2 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 4 3.1. Mục đích nghiên cứu 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn 5 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5 5.1. Phương pháp luận của luận văn 5 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5 7. Kết cấu của luận văn 6 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TẠM GIỮ, TẠM GIAM 7 1.1. Khái niệm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam 7 1.1.2. Khái niệm quyền con người 14 1.1.2. Đặc điểm quyền con người 16 1.2. Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam 17 1.2.1. Nội dung quyền con người trong tạm giữ, tạm giam 17 1.2.3. Sự cần thiết phải bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam 27 1.3 Các yếu tố ảnh hưởng quyền con người trong tạm giữ, tạm giam 29 1.3.1. Thể chế pháp lý 29 1.3.2. Tổ chức bộ máy 33 1.3.3. Đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán 36
- 1.3.4. Cơ sở vật chất và nguồn lực kinh phí 38 Tiểu kết Chương 1 39 Chương 2: THỰC TRẠNG QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TẠM GIỮ, TẠM GIAM Ở TỈNH ĐẮK LẮK 41 2.1. Khái quát về người bị tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk 41 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, cơ sở vật chất tại các cơ sở tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk 41 2.1.2. Tình hình người bị tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk 44 2.2. Thực trạng quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk 49 2.2.1. Quyền không bị bắt giam tùy tiện 49 2.2.2. Quyền không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng 50 2.2.3. Quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục 52 2.2.4. Quyền không bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án 53 2.2.5. Quyền được bào chữa 54 2.3. Đánh giá chung thực trạng quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tình Đắk Lắk 55 2.3.1. Những kết quả đạt được 55 2.3.2. Những hạn chế, yếu kém 57 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém 59 Tiểu kết Chương 2 62 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TẠM GIỮ, TẠM GIAM TỪ THỰC TIỂN TỈNH ĐẮK LẮK 63 3.1. Quan điểm bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn tình Đắk Lắk 63
- 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tình Đắk Lắk 65 3.2.1. Hoàn thiện thể chế pháp lý 65 3.2.2. Kiện toàn tổ chức, bộ máy 68 3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán 70 3.2.4. Bảo đảm cơ sở vật chất và nguồn lực kinh phí 73 3.2.5. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm quyền con người 74 Tiểu kết Chương 3 76 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nghĩa 1 NNPQ Nhà nước pháp quyền 2 XHCN Xã hội chủ nghĩa 3 TTHS Tố tụng hình sự 4 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự 5 THTT Tiến hành tố tụng 6 ĐƯQT Điều ước quốc tế 7 CSĐT Cảnh sát điều tra 8 ĐTV Điều tra viên
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Quyền con người là quyền tự nhiên gắn với mỗi con người từ khi sinh ra cho đến khi mất đi, là những mối quan hệ tác động qua lại lẩn nhau, phát huy và củng cố các mối liên hệ, các phối hợp hành động giữa con người và con người, tránh các mâu thuẫn qua lại giữa họ, trên cơ sở kết hợp tự do cá nhân với tự do của những người khác, với hoạt động của Nhà nước và xã hội. Những quyền của con người như quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, được bất khả xâm phạm về thân thể, được tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do tham gia vào các quá trình chính trị là những điều kiện cần thiết để con người tổ chức đời sống trong xã hội văn minh và cần phải được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ một cách vô điều kiện. Ở Việt Nam, bảo đảm quyền con người là vấn đề quan trọng, luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ bằng nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ Luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, v.v Nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền công dân bằng việ ghi nhận các quyền con người và quyền công dân trong Bộ luật tố tụng hình sự của nước ta. Các quy định về bắt người, tạm giữ, tạm giam là một trong các quy định nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân của nhân dân và của cả bị can, bị cáo, của người bị bắt. Những quy định của Hiến pháp, Bộ Luật tố tụng hình sự, luật tạm giữ tạm giam về bắt, tạm giữ, tạm giam đều góp phần phát huy tính dân chủ , tăng cường hơn nữa hiệu lực của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và giàu mạnh. Khi bị bắt thì người bắt người, tạm giữ, tạm giam bị hạn chến một số quyền công dân, quyền con người của người bị bắt. Để đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, phải không ngừng bồi dưỡng nâng cao ý thức pháp luật, ý thức chính trị và đạo đức công vụ cho những cán bộ này; thực hiện tốt chế độ báo cáo đối với cơ quan có thẩm quyền; đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát của thẩm quyền và nhân dân. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) 1
- của dân, do dân, vì dân, bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam đã bộc lộ những yếu kém, bất cập; việc nhận thức không đầy đủ về tính chất, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động bắt người, tạm giữ, tạm giam cũng như các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án làm cho quá trình vận dụng thiếu chính xác dễ dẫn đế tùy tiện, trái pháp luật, xâm hại đến quyền con người, lợi ích hợp pháp của công dân. Không ít trường hợp các cơ quan và người tiến hành tố tụng chưa nắm vững các nội dung, thẩm quyền, thủ tục bắt, tạm giữ, thủ tục đưa vào nhà tạm giữ, trại tạm giam nên vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền công dân khi thực thi công vụ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bắt người, tạm giữ, tạm giam không đúng trình tự thủ tục là do nhận trình độ, năng lực, nhận thức pháp luật và sự hiểu biết về pháp luật của một bộ phận cán bộ trong các cơ quan tố tụng còn hạn chế, ý thức pháp luật trong công việc chưa được đề cao. Trong qua trình hoạt động tố tụng, khi cơ quan tố tụng thực hiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam cần thực hiện mộ cách khánh quan và thận trọng, chính xác nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để đảm bảo quyền con người trong tạm giữ, tạm giam đã đặt ra nhiều vấn đề lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp thấu đáo, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” là yêu cầu khách quan và tất yếu, cấp thiết cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk”, chúng tôi thấy các nhà khoa học đã tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau: Trong khoa học pháp lý nước ta cũng như quốc tế, vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người trong hoạt động tư pháp và trong tố tụng hình sự đã được nhiều độc giả nghiên cứu từ những góc độ và cấp độ khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung trong NNPQ có các công trình của các tác giả sau: Trần Ngọc Đường, "Quyền con người, quyền công 2
- dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004; Đinh Văn Mậu, "Quyền lực Nhà nước và quyền con người", Nhà xuất bản Tư pháp, 2003; Tường Duy Kiên, "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người", Nhà xuất bản Nghề luật, 2004; Quyền con người là một quyền thiên liêng cao cả nên luật quôc tế cũng như Việt Nam đều quy định một cánh rõ ràng và đầy đủ, cụ thể: "Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay", của Nguyễn Huy Hoàng, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2005; "Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn. xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam" do GS.TSKH Lê Văn Cảm, PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, PGS.TS Trịnh Quốc Toản đồng chủ biên, Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006; "Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người" - đề tài nghiên cứu khoa học, chủ trì TS. Nguyễn Ngọc Chí - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam", của Nguyễn Quang Hiền, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2008; "Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam", sách chuyên khảo của TS Trần Quang Tiệp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004; Trong các công trình này, các tác giả nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp nói chung, kể cả hình sự, dân sự. Thực tế thì số tác giả củng đã có những đề tài nghiên cứu về quyền con người nhưng dưới nhiều góc độ khác nhau, người cứu về Bộ luật hình sự và Tố tụng hình sự, các thủ tục tố tụng hình sự, các biện pháp cưỡng chế tố tụng liên quan đến quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam. Cuốn sách về “Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong khu vực Asean " do Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân thuộc Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội phát hành đã đề cập tới quyền của con người dưới góc nhìn của khu vực; giới thiệu và phân tích khái quát thực tiễn nhân quyền tại các quốc gia trong khu vực, sự hình thành chuẩn mực, các cơ chế khu vực bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, cũng như vai trò chủ thể khác nhau ở Asean (nhà nước, tổ chức phi chính phủ, cơ sở giáo dục, nghiên cứu ) Tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy, các công trình khoa học, các bài báo, luận văn, luân án, sách chuyên khảo trong chừng mực nhất định đã góp phần làm sáng 3
- tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về quyền con người trong tạm giữ, tạm giam. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt về quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk, luận văn là công trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên biệt về “Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”, dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với kết quả nghiên cứu đề tài của luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ cố gắng, tìm hiểu, nghiên cứu để khắc phục tình trạng nêu trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quyền con người trong tạm giữ tạm giam và thực trạng bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk để đưa ra các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được nội dung trên, luận văn đặt ra những cách thức, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận về quyền con người trong tạm giữ, tạm giam thông qua việc làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung và sự cần thiết phải bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam; xác định các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam. Thứ hai, phân tích thực trạng bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk trong thời gian từ 2014 đến nay, qua đó đánh giá về những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém này. Thứ ba, đề xuất các quan điểm và giải pháp toàn diện, có hệ thống và tính khả thi nhằm bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hiện hành và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk. 4
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Dưới góc độ nghiên cứu của Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk là vấn đề có nội dung rộng lớn và phức tạp. Vì vậy, về không gian luận văn nghiên cứu quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk trong thời gian từ 2014 đến nay. Về nội dung, luận văn nghiên cứu về các quyền con người trong tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật hiện hành. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận của luận văn Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Xuất phát từ mục đích và nội dung nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh pháp luật, dự báo để chọn lọc những tri thức khoa học cũng như kinh nghiệm thực tiễn về bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở các địa phương có điều kiện tự nhiên, văn hóa pháp lý tương đồng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận, những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào lý luận và thực tiễn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam - một nhóm chủ thể dễ bị tổn thương bị tước bỏ quyền tự do đi lại và một số quyền khác. Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu về quyền con người; về hoạt động tố tụng hình sự. Những giải pháp được luận giải thuyết phục từ cơ sở để xuất đến nội dung giải pháp và các điều kiện bảo đảm thực hiện từng giải pháp trong luận văn sẽ giúp các nhà quản lý trong tham mưu, đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam. 5
- 7. Kết cấu của luận văn Bố cục Luận văn được sắp xếp như sau gồm: Lời cảm ơn, lời cảm ơn, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền con người trong tạm giữ, tạm giam; Chương 2: Thực trạng quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk; Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Đắk Lắk. 6
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TẠM GIỮ, TẠM GIAM 1.1. Khái niệm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam Để làm rõ khái niệm quyền con trong tạm giữ, tạm giam bắt đầu từ khái niệm tố tụng hình sự (TTHS). Bởi lẽ, đây là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của nhà nước và cũng là lĩnh vực mà quyền con người dễ bị xâm phạm nhất và hậu quả của nó nặng nề nhất, vì nó động chạm đến quyền cơ bản và quan trọng nhất của con người như quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm Bên cạnh đó, tạm giữ, tạm giam cũng là một trong những biện pháp cưỡng chế khá phổ biến trong tố tụng hình sự và tác động trực tiếp nhất đến quyền con người. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thực hiện dưới hành vi cố ý, hoặc vô ý và có lỗi, xâm phạm đến quyền và lợi ích của các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực chỉ xuất hiện khi xã hội có giai cấp và nhà nước. Lịch sử nhà nước và pháp luật cho thấy đấu tranh ngăn ngừa tội phạm là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ nhà nước nào. Muốn phát hiện tội phạm và người phạm tội đưa người này ra xử lý trước pháp luật. Mỗi nhà nước điều có những cách thức, thủ tục khác nhau. Sự khác nhau này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như bản chất nhà nước, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, nhận thức Tuy nhiên, thủ tục đưa người phạm tội ra xử lý được gọi dưới một tên chung là thủ tục tố tụng. Như vậy, “TTHS là trình tự do pháp luật quy định cách thức hiện các quy định của pháp luật để xác minh, kiểm tra, điều tra các vụ việc, phát hiện nhanh chóng, chính xác, để mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được xử lý kịp thời mọi hành vi tội phạm”. Như vậy, định nghĩa trên cho thấy nhiệm vụ bao trùm nhất TTHS là “phát hiện” và “xử lý” tội phạm. Tuy nhiên, trong lĩnh vực TTHS, quyền lực nhà nước rất mạnh. Bằng một hệ thống cơ quan cưỡng chế tác động đến con người phạm bằng các biện pháp cưỡng chế đặc biệt như bắt, tạm giữ, tạm giam để phát hiện xử lý tội phạm. Khi quyền lực nhà nước mạnh như thế dẫn đến hệ quả là phía bên kia của TTHS là người bị buộc tội ở vị trí rất rất yếu. Một bên mạnh, một bên yếu dễ dẫn đến quyền của bên yếu sẽ bị xâm 7
- phạm. Chính vì vậy để “quân bình” lực lượng thì phải tăng quyền cho bên người bị buộc tội, có phương pháp, có cơ hội bảo vệ quyền của mình, đó là quyền tối thiểu của con người. Nhưng cần lưu ý, vẫn còn đó phía bên kia của vấn đề là số phận của những người bị tình nghi yếu thế. Vừa phát hiện được tội phạm, vừa bảo vệ quyền con người đó là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn của hoạt động TTHS. Nhưng TTHS trong nhà nước văn minh và nhân đạo đặt ra đòi hỏi đó. Như vậy, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam là một trong phương tiện để phát hiện và xử lý tội phạm trong TTHS. Cũng từ đây, đặt ra yêu cầu phải bảo vệ được quyền con người khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế này. Các đối tượng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tạm giữ, tạm giam được gọi là người tham gia tố tụng (hay bên bị buộc tội như TTHS một số nước quan niệm). Trong TTHS Việt Nam là người bị tạm giữ và người bị tạm giam. Đây là hai đối tượng cần phải bảo vệ quyền con người đầu tiên và quan trọng nhất trong TTHS. Để làm rõ khái niệm người bị tạm, tạm giữ phải xuất phát từ khái niệm “ buộc tội” trong TTHS. Bởi lẽ, khi và chỉ khi có sự buộc tội thì mới xuất hiện người bị buộc tội (trong đó có người bị tạm giữ, tạm giam) và mới xuất hiện các biện pháp cưỡng chế TTHS. Buộc tội là cơ sở pháp lý đầu tiên để áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS và xuất hiện yêu cầu bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam. Người bị buộc tội là người bị cơ quan điều tra, viện kiểm sát cho rằng đã thực hiện hoặc có dấu hiệu thực hiện một tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự. Theo quy định của pháp luật thì cũng chưa có văn bản tố tụng nào trực tiếp buộc tội đối với người bị tạm giữ. Chúng tôi không nhất trí với quan điểm này, bởi lẽ cơ sở để áp dụng biện biện pháp tạm giữ, tạm giam và làm xuất hiện người tham gia tố tụng là người bị tạm giữ, tạm giam chính sự buộc tội. Chính vì vậy đặc điểm đầu tiên của người bị tạm giữ, tạm giam đó chính là họ là người bị buộc tội. Mặt khác chỉ khi bị buộc tội mới có căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm đối với họ và bảo vệ được quyền con người của họ, Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điểm d, khoản 1 Điều 4 Bộ luật TTHS 2015).: Một trong những nhiệm vụ quan trọng của luật TTHS là phòng ngừa, ngăn chặn 8
- tội phạm, xử lý công minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm. Để thực hiện được nhiệm vụ này Bộ luật TTHS Việt Nam năm 2015 có nhiều chế định, quy phạm cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng nhiều biện pháp cụ thể trong quá trình phát hiện xử lý người phạm tội. Một trong những biện pháp ngăn chăn, các biện pháp ngăn chặn. Việc quy định của pháp luật TTHS và việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong thực tế phải đảm bảo các nguyên tắc suy đoán vô tội. Về mặt khái niệm: “ Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng đối với bị can bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn cấp để kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn những người đó gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn [18, tr.12] Mặc dù xuất hiện trong giai đoạn điều tra và do cơ quan điều tra thực hiện nhưng các biện pháp cưỡng chế TTHS nêu trên là biện pháp ngăn chặn chứ không phải biện pháp điều tra. Thật nguy hiểm nếu ai đó nhầm lẫn biện pháp ngăn chặn là biện pháp điều tra bởi như vậy sẽ dẫn đến tình trạng để thuận lợi cho việc điều tra các cơ quan điều tra sẽ lạm dụng các biện pháp tạm giam, bắt khẩn cấp .xâm phạm đến quyền con người của những người bị tình nghi. Biện pháp ngăn chặn không phải là hình phạt mà nó chỉ là biện pháp cưỡng chế TTHS có tính chất tạm thời trước khi có bản án hiệu lực pháp luật kết tội một người có tội hay không được áp dụng đối với người bị tình nghi, bị cáo, những người bị nghi là đã thực hiện tội phạm. Biện pháp ngăn chặn có thể bị huỷ bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác bởi không chỉ là toà án mà bất kỳ các cơ quan tiến hành tố tụng nào trong bất kỳ giai đoạn tố tụng nào trước khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật nếu nó không cần thiết. Một trong những biện pháp ngăn chặn cơ quan THTT được áp dụng đó chính là biện pháp tạm giữ, tạm giam. Từ việc áp dụng biện pháp tạm giữ tạm giam này làm xuất hiện chủ thể bị áp dụng hai biện pháp cưỡng chế này là người bị tạm giữ và người bị tam giam. Khoản 1 Điều 59 Bộ luật TTHS 2015 quy định: Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định 9
- tạm giữ. Người bị tạm giữ có đặc điểm sau đây: Thứ nhất, đã có dấu hiệu cho rằng họ thực một tội phạm quy định trong BLHS. Theo tính thần của nguyên tắc suy đoán vô tội: không ai bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật thì người bị tạm giữ chưa bị khẳng định là có tội mà mới có dấu hiệu thực hiện tội phạm trên thực tế. Đối với người bị tạm giữ, cơ quan quan có thẩm quyền không buộc phải xác định tội phạm do người tạm giữ thực hiện ở mức chung nhất và có thể chưa đầy đủ các dâu hiệu cấu thành của cấu thành tội phạm. Nhưng để đáp ứng yêu cầu không bỏ lọt tội phạm và yêu cầu phát hiện nhanh chóng, kịp thời mọi hành vi phạm tội thì cần thiết phải tạm giữ người bị tình nghi. Thứ hai, người bị tạm giữ có thể là ngừời chưa bị khởi tố về hình sự, đó là những ngừời bị bắt trong trường hợp khẩn cấp theo Bộ luật TTHS 2005 và người bị giữ khẩn cấp theo Bộ luật TTHS 2015, phạm tội quả tang, trừờng hợp phạm tội tự thú trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố, và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Thứ ba, người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự bao gồm: bị can, bị cáo, người đã bị kết án nhưng bỏ trốn, người đang chấp hành án bỏ trốn nhưng bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ngừời phạm tội ra đầu thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ. Do đó, pháp luật coi người bị tạm giữ là người tham gia TTHS, có các quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ theo quy định của pháp luật. Thứ tư, người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp (hoặc bị giữ trong trường hợp khẩn cấp theo Bộ luật TTHS 2015), bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú thì điều kiện đủ để họ trở thành người bị tạm giữ là đối với họ phải có quyết định tạm giữ. Một người bị bắt trong các trường hợp nêu trên hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú mà không có quyết định tạm giữ thì cũng không phải là người bị tạm giữ. - Họ đã bị buộc tội bằng bản án kết tội chưa có hiệu lực của tòa án, hoặc bản án đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp chờ thi hành hình phạt tử hình, quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra, hoặc quyết định dẫn độ. - Người bị tạm giam bị hạn chế đi một số quyền công dân của người bị tạm giam, 10
- nhưng không phải là bị luật pháp tước bỏ hết các quyền con người, quyền công dân của người bị tạm giam mà chỉ là hạn chế trong một thời gian nhất định do các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành theo luật định. Khi áp dụng biện pháp tạm giam, mục đích là để ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội và ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, phục vụ cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả cao. Họ đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của Bộ luật TTHS. Tạm giam là biện pháp tước bỏ tự có thời hạn do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng với bị cáo, người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án, người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ để ngăn chặn, có thể bỏ trốn, gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành bản án hoặc quyết định dẫn độ. Đây là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong TTHS nên để đảm bảo yêu cầu bảo vệ quyền con người của những người bị tạm giam, Bộ luật TTHS có quy định rất chặt chẽ và cụ thể về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam. Theo tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội: người bị buộc tội không bị coi là có tội cho đến khi có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị tam giam chưa phải là người có tội và không được đối xử với họ như người đã có tội (phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù); trại tạm giam khác với nhà tù, chế độ giam giữ khác với chế độ của tù nhân . Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam là một một lĩnh vực đặc thù của quyền con người. Nó mang đầy đủ đặc điểm của quyền con người nói chung nhưng cũng có những dấu hiệu riêng. Từ khái niệm quyền con người, người bị tạm giữ, tạm giam sẽ làm cơ sở nghiên cứu về quyền của người bị tạm giữ, tạm giam: - Thứ nhất, biện pháp tạm giữ, tạm giam liên quan đến quyền con người được quy định hoặc thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết mà thiếu nó cơ quan, người tiến hành tố tụng không thể hoàn thành việc xác định sự thật khách quan của vụ án, ngăn chặn tội phạm. Thứ hai, khi biện pháp tạm giữ, tạm giam đã được áp dụng trở nên không cần thiết nữa thì cần phải được hủy bỏ. Ví dụ: bị can bị tạm giam do có căn cứ là nếu 11
- không áp dụng tạm giam bị can sẽ gây khó khăn cho việc điều tra (thông cung, mua chuộc, khống chế người làm chứng ), khi việc điều tra đã hoàn thành, tội phạm đã được chứng minh đầy đủ, khách quan thì căn cứ áp dụng tạm giam đã mất đi, do đó cơ quan tiến hành tố tụng phải hủy bỏ hoặc thay đổi biện pháp tạm giam đã áp dụng. Để làm được điều này, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp, sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng (điều 4 BLTTHS). Thứ ba, các biện pháp tạm giữ, tạm giam là hạn chế quyền con người nên cần được áp dụng khi cần thiết để đạt được mục đích của TTHS. Việc lạm dụng áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là một trong những biểu hiện phổ biến của vi phạm quyền con người trong hoạt động TTHS ở nước ta. Việc xác định mức độ cần thiết của biện pháp tạm giữ, tạm giam được thực hiện thường xuất phát từ thực tế hành vi phạm tội được thực hiện, nhân thân đối tượng được áp dụng cũng như căn cứ áp dụng biện pháp đó.Ví dụ: để ngăn chặn tội phạm, không để bị can tiếp tục phạm tội thì cần áp dụng biện pháp tạm giam đối với người đó. Còn trong trường hợp căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn là có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho điều tra, truy tố, xét xử thì có thể áp dụng các biện pháp khác nhau: nếu bị can có khả năng thông cung, hủy bỏ chứng cứ, khống chế người bị hại, người làm chứng thì có thể áp dụng biện pháp tạm giam; nhưng nếu chỉ gây khó khăn ở hình thức không có mặt khi được triệu tập thì chỉ cần áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh là đủ. Hoạt động TTHS phải được thực hiện trên cơ sở coi trọng các yếu tố đó; bỏ qua hoặc coi nhẹ yếu tố này hay yếu tố khác nói trên đều ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đạt được mục đích tố tụng. Nếu muốn chứng minh tội phạm, xử lý tội phạm bằng bất cứ giá nào thì dễ dẫn đến vi phạm quyền con người; ngược lại nếu quá chú ý đến việc bảo đảm quyền con người thái quá mà không mạnh dạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng để phát hiện, chứng minh tội phạm thì sẽ làm cho hoạt động tố tụng thiếu hiệu quả, không thể phát hiện, xử lý kịp thời người phạm tội, thậm chí bỏ lọt tội phạm v.v Thứ tư, việc bảo đảm quyền con người trong TTHS được thực hiện thông qua 12
- các biện pháp khác nhau, nhưng tập trung ở biện pháp xây dựng và hoàn thiện các quy định của BLTTHS cũng như thực hiện nghiêm chỉnh các quy định đó trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự và thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đặc biệt là các đảm bảo cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ việc tạm giữ, tạm giam bởi điều kiện này liên quan trực tiếp, cụ thể đến những quyền tự nhiên, cơ bản của bị tạm giữ, tạm giam. Quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam được thể hiện ở hai khía cạnh: Một là, xử lý người phạm tội trước pháp luật, qua đó bảo vệ quyền con người nói chung; Hai là, khi tiến hành tố tụng các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải bảo đảm được quyền của người bị tạm giữ, tạm giam, đồng thời ngăn ngừa nguy cơ lạm dụng từ phía những người tiến hành tố tụng. Từ cách tiếp cận đó có thể đưa ra định nghĩa về quyền con người trong tạm giữ, tạm giam: “Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam là những giá trị cơ bản của con người chỉ dành cho con người khi họ bị tạm giữ, tạm giam mà Nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế”. Có thể thấy đó là các quyền: quyền được bào chữa, được nhận các quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật; quyền được xét xử trong thời gian luật định; quyền không bị truy bức, nhục hình; quyền bình đẳng trước pháp luật; bình đẳng trước tòa án v.v Xét riêng ở phương diện quyền con người trong tạm giữ, tạm giam cho thấy, đây là nơi quyền con người chịu sự tác động rất lớn từ các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, đây cũng là nơi quyền con người rất dễ bị xâm phạm và hậu quả của việc quyền con người bị xâm phạm thường để lại hậu quả rất lớn cho xã hội. Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam do pháp luật TTHS quy định trên cơ sở phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người, gồm các nhóm quyền về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản v.v và các nhóm quyền tố tụng với tư cách là những người tham gia tố tụng bị tạm giữ, tạm giam. - Mọi người vi phạm pháp luật đều bị tòa án xét xử công bằng, công khai; 13