Luận văn Quy định về thủ tục đình công trong pháp luật Việt Nam - Thực trạng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quy định về thủ tục đình công trong pháp luật Việt Nam - Thực trạng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_quy_dinh_ve_thu_tuc_dinh_cong_trong_phap_luat_viet.pdf
Nội dung text: Luận văn Quy định về thủ tục đình công trong pháp luật Việt Nam - Thực trạng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ TRÚC CHI Quy ®Þnh vÒ thñ tôc ®×nh c«ng trong Ph¸p luËt ViÖt Nam - Thùc tr¹ng trong c¸c doanh nghiÖp cã vèn ®Çu t• n•íc ngoµi LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ TRÚC CHI Quy ®Þnh vÒ thñ tôc ®×nh c«ng trong Ph¸p luËt ViÖt Nam - Thùc tr¹ng trong c¸c doanh nghiÖp cã vèn ®Çu t• n•íc ngoµi Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. LƢU BÌNH NHƢỠNG HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Trần Thị Trúc Chi
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC ĐÌNH CÔNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC ĐÌNH CÔNG 9 1.1. Khái niệm về đình công và thủ tục đình công 9 1.1.1. Đình công 9 1.1.2. Khái niệm về thủ tục đình công 13 1.1.3. Pháp luật về thủ tục đình công 17 1.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc quy định thủ tục đình công và thực hiện các quy định về thủ tục đình công 21 1.3. Quy định về thủ tục đình công của một số nƣớc trên thế giới 25 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 28 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC ĐÌNH CÔNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI (FDI) TẠI VIỆT NAM 29 2.1. Quy định về thủ tục đình công trong Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2006 29 2.2. Quy định về thủ tục đình công theo Bộ luật lao động năm 2012 33 2.2.1. Quy định của pháp luật về thủ tục đình công 33 2.2.2. Đánh giá những hạn chế trong quy định của pháp luật về thủ tục đình công theo Bộ luật lao động năm 2012 42 2.3. Việc thực hiện quy định của pháp luật về thủ tục đình công trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (FDI) tại Việt Nam 45
- 2.3.1. Thực trạng đình công và thực hiện các quy định về thủ tục đình công tại doanh nghiệp FDI 45 2.3.2. Đánh giá thực trạng đình công và việc thực hiện các quy định về thủ tục đình công tại các doanh nghiệp FDI 52 2.3.3. Nguyên nhân của những bất cập khi thực hiện các quy định của pháp luật về thủ tục đình công tại các doanh nghiệp FDI 55 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 60 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC ĐÌNH CÔNG TỪ THỰC TIỄN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 62 3.1. Phƣơng hƣớng 62 3.1.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đình công theo hƣớng thực tế hơn 63 3.1.2. Hoàn thiện thủ tục đình công phải đồng bộ với hoàn thiện nội dung các quy định về đình công 63 3.1.3. Nâng cao vai trò lãnh đạo và tổ chức đình công của tổ chức công đoàn 64 3.2. Một số giải pháp cụ thể 65 3.2.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục đình công 65 3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật về thủ tục đình công tại Việt Nam 70 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 77 KẾT LUẬN CHUNG 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLLĐ: Bộ Luật lao động ILO: Tổ chức lao động quốc tế - International Labour Organization NLĐ: Ngƣời lao động NSDLĐ: Ngƣời sử dụng lao động TCLĐ: Tranh chấp lao động TCLĐTT: Tranh chấp lao động tập thể UBND: Ủy ban nhân dân
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đình công là một quyền cơ bản của ngƣời lao động, đƣợc ghi nhận trong Công ƣớc về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 của Liên hợp quốc, Công ƣớc số 98 về quyền tổ chức và thƣơng lƣợng tập thể năm 1949 của Tổ chức lao động quốc tế và pháp luật của đa số quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, đình công xuất hiện cùng với sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng. Từ khi xây dựng Bộ luật Lao động năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 đến nay, Việt Nam cũng đã quy định những nội dung liên quan đến đình công và giải quyết đình công nhằm góp phần giải quyết các cuộc đình công. Nhờ có những văn bản pháp luật quy định nêu trên mà ngƣời lao động đã có ý thức hơn về sức mạnh tập thể thông qua đình công nhằm bảo vệ quyền và lợi ích khi bị xâm phạm trong quan hệ lao động; các cơ quan có thẩm quyền có thêm căn cứ pháp lý để giải quyết các cuộc đình công khi có yêu cầu. Tuy nhiên, nhận thức về quyền đình công, thực hiện hoạt động đình công của ngƣời lao động là không đồng đều. Việc tổ chức và lãnh đạo đình công của công đoàn chƣa thực sự có hiệu quả, chƣa đƣợc ngƣời lao động tin tƣởng, dẫn đến một thực trạng là hầu hết các cuộc đình công diễn ra trong những năm qua đều chƣa tuân thủ các quy định của pháp luật. Có trƣờng hợp ngƣời lao động lợi dụng quyền đƣợc đình công để đƣa ra những yêu sách vô lý, tạo áp lực buộc ngƣời sử dụng lao động phải chấp nhận những yêu sách của họ. Điều này gây ra những ảnh hƣởng xấu đến quan hệ lao động, trật tự xã hội cũng nhƣ nền kinh tế. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài thì những cuộc đình công trái pháp luật ảnh hƣởng xấu đến hình ảnh và khả năng thu hút vốn đầu nƣớc ngoài vào Việt Nam. Vì vậy, bên cạnh 1
- việc ghi nhận quyền đình công của ngƣời lao động, Nhà nƣớc cũng cần quy định chi tiết về trình tự, thủ tục tiến hành đình công và các hành vi bị cấm khi tiến hành đình công nhằm hạn chế những hậu quả tiêu cực do đình công gây ra, hƣớng việc thực hiện quyền đình công của ngƣời lao động vào trong khuân khổ của pháp luật. Đối với ngƣời lao động tại nhiều nƣớc trên thế giới, đình công là hiện tƣợng kinh tế - xã hội bình thƣờng và phổ biến, đƣợc nhiều ngƣời lao động sử dụng có hiệu quả nhằm đạt đƣợc những yêu sách đặt ra trong quan hệ lao động. Nhƣng đối với ngƣời lao động Việt Nam, việc tổ chức một cuộc đình công đáp ứng yêu cầu của pháp luật là vấn đề không dễ dàng. Qua đánh giá các cuộc đình công ở nƣớc ta có thể thấy, mặc dù nhiều cuộc đình công có xuất phát từ việc tranh chấp lao động, từ những bức xúc thật sự trong quan hệ lao động nhƣng cách tổ chức đã vi phạm các quy định về thủ tục, trình tự do pháp luật quy định. Đình công là quyền cơ bản của ngƣời lao động, đã đƣợc nhiều công trình khoa học đề cập, nghiên cứu và luôn là vấn đề thời sự không chỉ trong luật lao động mà còn có tính thời sự trong đời sống xã hội hiện đại. Trong những năm qua cùng với việc mở rộng quan hệ, liên kết, đầu tƣ, hội nhập kinh tế quốc tế, thích ứng với hệ thống pháp luật quốc tế và với các quốc gia trên thế giới, đồng thời với việc tăng cƣờng dân chủ trong quan hệ lao động, đảm bảo quyền, lợi ích của ngƣời lao động, pháp luật lao động đã quy định về quyền đình công, nội dung, thủ tục thực hiện quyền đó tại Việt Nam. Đó là một bƣớc tiến khá dài và có ý nghĩa quan trọng đối với bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân và quyền của ngƣời lao động ở nƣớc ta, dần đƣa pháp luật nƣớc ta tiệm cận và hoà vào dòng chảy pháp luật quốc tế. Trong các quy định về đình công, thủ tục đình công có một vai trò quan 2
- trọng. Quy định về thủ tục đình công xác định các bƣớc đi, trình tự cho các chủ thể thực hiện quyền năng pháp lý, là sự thể hiện ý chí của nhà nƣớc về vấn đề thực thi quyền đình công của NLĐ qua từng thời kì. Thông thƣờng, đây là vấn đề phải đƣợc chú trọng thực hiện đầu tiên. Tuy nhiên, có một thực trạng đáng báo động là ở Việt Nam, ngƣời lao động chủ yếu chỉ quan tâm đến việc giải quyết các bức xúc thông qua việc tạo xung đột, gây sức ép với bên sử dụng lao động mà không mấy chú trọng đến các thủ tục đình công. Điều đó đã gây nên không chỉ những bất ổn của doanh nghiệp mà còn gây ảnh hƣởng lớn, thậm chí rất lớn đối với nền kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân. Nghiên cứu riêng về thủ tục đình công, các quy định về thủ tục đình công vì vậy là vấn đề cần phải đƣợc quan tâm. Từ những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Quy định về thủ tục đình công trong Pháp luật Việt Nam – Thực trạng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu * Mục tiêu tổng quát Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu đề xuất các phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục đình công và thực hiện đúng đắn, hiệu quả các quy định của pháp luật về thủ tục đình công ở nƣớc ta trong thời gian tới. * Mục tiêu cụ thể - Tìm hiểu làm rõ bản chất của đình công; phân tích, đánh giá quy định về thủ tục đình công trong Luật lao động Việt Nam từ năm 1994 đến nay nhằm rút ra những nhận xét về ƣu, nhƣợc điểm của các cuộc đình công. - Nghiên cứu thực thi các quy định về pháp luật thủ tục đình công tại các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tìm ra các nguyên nhân chủ yếu của việc vi phạm thủ tục đình công. 3
- - Đƣa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục đình công và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đình công trong doanh nghiệp ở Việt Nam. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài - Về nội dung, luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm các vấn đề lý luận về đình công, nhất là đi sâu nghiên cứu cắt nghĩa những khía cạnh căn bản về thủ tục đình công, một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm yếu tố hợp pháp của cuộc đình công một cách đầy đủ và có hệ thống. Bên cạnh đó, luận văn đánh giá một cách đầy đủ hệ thống các quy định về thủ tục đình công từ trƣớc đến nay, vừa cập nhật nghiên cứu các quy định về thủ tục đình công đƣợc quy định trong Bộ luật lao động năm 2012. Việc nghiên cứu còn góp phần đánh giá, rút ra những kết luật khoa học về thực trạng áp dụng pháp luật về thủ tục đình công tại các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam, khu vực xảy ra nhiều đình công nhất ở Việt Nam. Luận văn đƣa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục đình công và giải pháp thực thi hiệu quả các quy định này trong thực tế quan hệ lao động ở Việt Nam trong thời gian tới. Về cách tiếp cận, luận văn xuất phát từ việc nghiên cứu thủ tục đình công, đây là vấn đề mang tính thủ tục, tuy nhiên lại có vai trò pháp lý quan trọng để giúp các chủ thể xử lý các vấn đề liên quan khi đình công xảy ra. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau đây: - Những khía cạnh lý luận khoa học cơ bản về kinh tế, chính trị, pháp lý trong các quy định về thủ tục đình công. - Thực trạng quy định pháp luật về thủ tục đình công của Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới. - Tình hình thực hiện quy định về thủ tục đình công trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua. 4
- Quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn còn nghiên cứu so sánh các quy định về thủ tục đình công của một số quốc gia trên thế giới làm cơ sở đánh giá hệ thống, phục vụ cho việc nghiên cứu, đề xuất các phƣơng hƣớng và giải pháp khoa học nhằm đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luật biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác – Lênin; quan điểm đƣờng lối của Đảng về lao động – xã hội và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng trong quá trình nghiên cứu gồm: phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh 6. Tổng quan tài liệu Đình công hiện nay không còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài đình công và giải quyết đình công theo pháp luật Việt Nam hiện nay nhƣ đề tài “Đình công và việc giải quyết đình công - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn thạc sĩ luật học Trần Hồng Hà do PTS. Phạm Công Trứ hƣớng dẫn năm 1996; “Đình công và giải quyết đình công theo pháp luật lao động Việt Nam hiện hành”, luận văn thạc sĩ luật học Đinh Văn Sơn do TS. Phạm Công Trứ hƣớng dẫn năm 2002; “Bàn về thủ tục giải quyết các vụ án lao động và đình công” Nguyễn Thị Kim Phụng, Tạp chí Luật học, Số Đặc san góp ý dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự 4/2004, “Những bất cập của pháp luật về giải quyết đình công ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị” Đỗ Ngân Bình Tạp chí Luật học số 3/2004; “Pháp luật về đình công và giải quyết đình công nhìn từ góc độ thực tiễn” Đào Thị Hằng Tạp chí Luật học số 5/2004, “Điều chỉnh pháp luật đối với đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam hiện nay” Đỗ Ngân Bình, Tạp chí Luật học số 6/2004; 5
- “Giải quyết tranh chấp lao động và đình công” Nguyễn Thị Kim Phụng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2004.v.v. Đặc biệt có đề tài luận án tiến sĩ “Pháp luật về đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”, Đỗ Ngân Bình, ngƣời hƣớng dẫn TS. Đào Thị Hằng, TS. Phan Chí Hiếu năm 2005. Kế tiếp là các đề tài “Đình công và giải quyết đình công - Nhìn từ góc độ so sánh giữa Luật Lao động Việt Nam và Luật Lao động Cộng hoà Liên Bang Đức” Đỗ Ngân Bình, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Số 7/2004; “Nâng cao ý thức pháp luật cho người lao động và sử dụng lao động nhằm ngăn chặn đình công trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam”, Phạm Trọng Tân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật; “Đình công và giải quyết đình công theo pháp luật lao động Việt Nam” luận văn thạc sĩ luật học Trần Hồng Hạnh do TS. Nguyễn Hữu Chí hƣớng dẫn năm 2008; “Đánh giá quy định của Bộ luật lao động về đình công và giải quyết đình công” Nguyễn Xuân Thu, Tạp chí Luật học số 9/2009; “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong các cuộc đình công bất hợp pháp” Nguyễn Hằng Hà Tạp chí Luật học số 1/2008. Thêm vào đó, có một số đề tài nghiên cứu dƣới góc độ tâm lý xã hội học nhƣ “Vai trò của các chủ thể trong quan hệ lao động và giải quyết tranh chấp lao động, đình công”, Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí Tâm lý học số 2/2011, “Thực trạng tranh chấp lao động và đình công ở Việt Nam nhìn từ góc độ quản lý doanh nghiệp và vai trò của tổ chức công đoàn”, Lê Văn Hảo Tạp chí Tâm lý học số 5/2011; “Điều kiện làm việc, điều kiện sống của người lao động và tranh chấp lao động, đình công ở Việt Nam trong 10 năm (2001 - 2010)” Mai Thanh Thế Tạp chí Tâm lý học số 5/2011; “Vấn đề tranh chấp 6
- lao động và đình công ở Việt Nam 10 năm qua (2000 - 2010) - nguyên nhân và giải pháp” Lê Thanh Hà Tạp chí Tâm lý học số 4/2011, “Thực trạng giải quyết tranh chấp lao động và đình công tại các doanh nghiệp liên doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta trong 10 năm qua” Lã Thị Thu Thuỷ, Tạp chí Tâm lý học số 6/2011,“Những nguyên nhân của tranh chấp lao động và đình công ở nước ta nhìn từ phía người lao động” Tô Thuý Hạnh, Tạp chí Tâm lý học số 10/2011. Ngoài ra, gần đây còn có các bài viết về “Thực trạng tranh chấp lao động, đình công và kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung” Phạm Công Bảy, Tạp chí Tòa án nhân dân số 10/2012; “Tự do công đoàn và đình công dưới góc độ quyền kinh tế-xã hội của người lao động”, Nguyễn Hữu Chí, Tạp chí Luật học số 6/2012; “Những điểm mới về đình công trong Bộ luật lao động năm 2012”, Trần Thị Thúy Lâm Tạp chí Luật học số 7/2013; “Ảnh hưởng của văn hóa đến đình công trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam (trường hợp các doanh nghiệp Hàn Quốc)”, Nguyễn Hoàng Ánh, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 5/2012; “Những điểm mới về tranh chấp lao động và đình công trong Bộ luật Lao động năm 2012” luận văn thạc sỹ luật học Chử Thị Xuyên do TS. Đỗ Ngân Bình hƣớng dẫn năm 2013; “Đình công và giải quyết đình công theo Bộ luật Lao động năm 2012”, luận văn thạc sĩ luật học Hà Thị Hoa Phƣợng do TS. Trần Thị Thúy Lâm hƣớng dẫn năm 2013. Đó là các công trình phân tích một cách tƣơng đối đầy đủ và hệ thống về pháp luật đình công và giải quyết, thực trạng đình công trong điều kiện kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu cũng nhƣ bài viết trên đã phân tích một cách 7
- đầy đủ và có hệ thống về pháp luật đình công và giải quyết đình công. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về pháp luật về thủ tục đình công và việc thực hiện thủ tục đình công tại các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài hầu nhƣ chƣa đƣợc thực hiện nhiều và chuyên sâu. 7. Kết cấu luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Những vấn đề chung về thủ tục đình công, pháp luật về thủ tục đình công. Chương 2: Thực trạng quy định về thủ tục đình công và thực tiễn thực hiện trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam. Chương 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về thủ tục đình công từ thực tiễn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt Nam. 8
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC ĐÌNH CÔNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC ĐÌNH CÔNG 1.1. Khái niệm về đình công và thủ tục đình công 1.1.1. Đình công Đình công là hiện tƣợng kinh tế - xã hội khách quan của nền kinh tế thị trƣờng, để hiểu khái niệm đình công cần xem xét trên nhiều phƣơng diện, góc độ khác nhau từ đó mới đƣa ra đƣợc cái nhìn thống nhất và tƣơng đối toàn diện về đình công. Dưới góc độ kinh tế, đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế đƣợc thực hiện bởi những ngƣời lao động, nhằm gây sức ép để đạt đƣợc những yêu sách nhất định gắn với lợi ích kinh tế liên quan đến nghề nghiệp. Đình công không phải là biện pháp duy nhất để những ngƣời lao động đạt đƣợc mục đích kinh tế của mình, nhƣng với sức ép mà đình công có khả năng tạo ra, đình công thƣờng đƣợc những ngƣời lao động coi là cách thức có hiệu quả để bảo vệ các quyền và lợi ích của họ. Đình công cũng để lại nhiều hậu quả cho doanh nghiệp, ảnh hƣởng đến lợi ích của tập thể và cá nhân ngƣời lao động ở một mức độ nhất định, hoặc gây thiệt hại cho kinh tế xã hội nói chung. Dưới góc độ xã hội, đình công là hành vi ngừng việc có tính tập thể đƣợc thực hiện bởi ý chí tự nguyện của nhiều ngƣời lao động. Khả năng liên kết và tập hợp đông đảo sự tham gia của những ngƣời lao động là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của một cuộc đình công. Trong nhiều cuộc đình công, những NLĐ thƣờng tụ tập trƣớc cổng xí nghiệp để ngăn cản hay kích động những công nhân khác không vào làm việc, chiếm xƣởng ngăn không cho ngƣời lao động khác vào làm việc những hành vi nhằm thu hút sự tham gia đông đảo và lôi kéo sự ủng hộ của những ngƣời lao động khác đối 9
- với cuộc đình công không phải lúc nào cũng hợp pháp. Vì vậy, xét dƣới góc độ xã hội, đình công còn là hiện tƣợng có khả năng gây mất ổn định đối với trật tự xã hội. Tuy nhiên, ở một mức độ nhất định, đình công cũng góp phần bảo vệ những giá trị tiến bộ xã hội nhƣ quyền dân chủ trong lĩnh vực lao động, quyền tự do đối thoại, ngôn luận của NLĐ. Dưới góc độ chính trị, đình công là việc thực hiện quyền chính trị của công dân đƣợc hiến pháp, luật pháp thừa nhận, đƣợc nhà nƣớc bảo vệ qua các phƣơng thức sử dụng quyền lực chính trị. Đình công có mục đích chủ yếu là bảo vệ các quyền và lợi ích nghề nghiệp của những NLĐ trong quan hệ lao động. Nhƣng đình công có thể bị lợi dụng để đƣa thêm cách yêu sách chính trị. Trong trƣờng hợp đó, hình thức đình công kinh tế sẽ biến tƣớng thành các hình thức đình công chính trị. Việc các cuộc đình công chính trị là hợp pháp hay không tùy thuộc vào quan điểm của từng quốc gia. Nhƣng sự tồn tại của các cuộc đình công chính trị trong thực tiễn đã cho thấy tính chất nhạy cảm của vấn đề đình công. Dưới góc độ pháp lý, đình công là một quyền pháp lý của NLĐ đƣợc pháp luật quốc gia và quốc tế thừa nhận (theo điều 8 Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của Liên hiệp quốc, Điều 209 Bộ luật lao động năm 2012). Đình công ngày nay đã hình thành một định chế pháp lý đặc biệt trong xã hội nhằm bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân trong lĩnh vực lao động. Tuy nhiên, quyền đình công này chỉ giới hạn trong khuôn khổ của pháp luật cho phép và phải tuân theo những trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định. Vì là quyền của NLĐ nên đình công phải đƣợc thực hiện thông qua hành vi của chính ngƣời lao động, nhắm hƣớng tới những lợi ích nghề nghiệp và xuất phát từ quan hệ lao động. Theo quan điểm của tổ chức Lao động thế giới và đa số các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đểu cho rằng các cuộc đình công kinh tế (đình công về lợi ích) đƣợc thực hiện 10
- vì những lợi ích gắn với quan hệ lao động mới thuộc phạm vi cho phép của quyền đình công. Những cuộc đình công chính trị đều không thuộc phạm vi quan hệ lao động và vƣợt ra ngoài khuôn khổ của quyền đình công. Đình công là một trong những biện pháp thiết yếu mà NLĐ và các tổ chức của họ có thể sử dụng để xúc tiến và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình, không chỉ nhằm đạt tới những điều kiện làm việc tốt hơn hoặc có những yêu cầu tập thể mang tính nghề nghiệp, mà còn nhằm tìm ra những giải pháp cho các vấn đề chính sách kinh tế - xã hội và các vấn đề lao động bất kỳ loại nào mà NLĐ trực tiếp quan tâm [3, tr.11]. Với quan điểm này, bƣớc đầu chỉ rõ đình công là một trong các biện pháp để bảo vệ NLĐ, phải nhằm đạt các mục đích kinh tế - xã hội vì quyền đình công thuộc loại quyền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, nhận định này chƣa chỉ ra đƣợc các dấu hiệu để nhận dạng đình công, cũng nhƣ phân biệt đình công với các hiện tƣợng xã hội gần giống nó. Từ những phân tích ở trên, có thể thấy đặc điểm chung nhất của đình công đó là biện pháp đấu tranh kinh tế của những NLĐ, gây sức ép cho giới chủ nhằm đạt đƣợc mục đích gắn liền với quan hệ lao động. Các dấu hiệu cơ bản của đình công Thứ nhất, đình công biểu hiện thông qua sự ngừng việc triệt để của NLĐ và do tập thể lao động tiến hành. Sự ngừng việc của NLĐ trên thực tế đƣợc biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau, nhƣng sự ngừng việc khi đình công là có tính triệt để. Ngoài ra, sự ngừng việc trong đình công phải do nhiều NLĐ cùng tiến hành (tập thể lao động). Tập thể lao động ngừng việc có thể là toàn bộ hoặc đa số những NLĐ trong một bộ phận cơ cấu doanh nghiệp, trong toàn doanh nghiệp hoặc đa số những NLĐ trong một ngành. Nếu một vài ngƣời ngừng việc mặc dù có tổ chức thì vẫn không đƣợc gọi là đình công. Thứ hai, đình công là sự nghỉ việc có tổ chức, thƣờng do tổ chức 11
- công đoàn lãnh đạo. Ngừng việc của tập thể lao động phải có sự chủ định từ trƣớc, phải có sự phối hợp về mặt ý chí và tổ chức của những NLĐ với nhau. Pháp luật lao động nhiều nƣớc chỉ thừa nhận công đoàn là ngƣời có quyền tổ chức, lãnh đạo đình công. Lãnh đạo của công đoàn sẽ là ngƣời đứng ra tổ chức đình công từ khâu lấy ý kiến tán thành đình công, lãnh đạo đình công cho đến khi giải quyết cuộc đình công trƣớc tòa án. Nhƣ vậy, mọi sự ngừng việc, dù là rất đông NLĐ nhƣng không do công đoàn lãnh đạo thì sẽ bị coi là đình công bất hợp pháp. Thứ ba, mục đích của đình công là nhằm đạt đƣợc những yêu sách về quyền và lợi ích mà những ngƣời thực hiện quan tâm. Bản chất của đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế nên mục đích của đình công phải nhằm đạt đƣợc những yêu sách về quyền và lợi ích cho tập thể lao động. Thực tế ở những nƣớc có nền kinh tế phát triển, NLĐ thƣờng đình công để đạt đƣợc những lợi ích cao hơn, điều kiện làm việc tốt hơn so với pháp luật đã quy định hoặc so với những thỏa thuận các bên đã cam kết trƣớc đó. Và kết quả đình công thƣờng là một thỏa ƣớc tập thể mới ra đời. Còn ở những nƣớc chƣa phát triển, phần lớn các cuộc đình công là đòi quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ phù hợp với luật pháp lao động bị NSDLĐ vi phạm. Thứ tư, việc thực hiện quyền đình công của NLĐ phải mang tính tự nguyện. Đây là dấu hiệu về mặt ý chí của NLĐ, dấu hiệu này có nghĩa là tập thể lao động tiến hành đình công phải xuất phát từ sự tự giác, tự nguyện của mỗi NLĐ. Thứ năm, đình công phát sinh trực tiếp từ TCLĐ tập thể. Đình công là hậu quả của TCLĐ tập thể giải quyết không thành. Tuy nhiên, không phải TCLĐ tập thể nào cũng đều dẫn đến đình công. Vì vậy, để hạn chế tình trạng đình công xảy ra thì TCLĐ tập thể nên đƣợc giải quyết triệt để, hạn chế sự bức xúc căng thẳng từ phía NLĐ do yêu cầu, lợi ích không đƣợc đáp ứng. 12
- 1.1.2. Khái niệm về thủ tục đình công 1.1.2.1. Định nghĩa thủ tục đình công Hiện nay chƣa có định nghĩa cụ thể về thủ tục đình công nhƣng từ phân tích định nghĩa đình công ở trên, có thể hiểu: “Thủ tục đình công là cách thức, trình tự tiến hành đình công theo những bước đã được pháp luật quy định cụ thể”. Nhƣ vậy, đình công là quyền của NLĐ, tuy nhiên để thực hiện quyền này một cách hợp pháp thì việc đình công phải tiến hành theo những trình tự, thủ tục luật định. Hiện nay vẫn có nhiều quan niệm về thủ tục đình công, một số cho rằng thủ tục đình công gồm thủ tục chuẩn bị đình công và cách thức tiến hành đình công, một số lại quan điểm thủ tục đình công chính là các bƣớc để tiến hành đình công trong các bƣớc đều bao gồm cách thức và phƣơng pháp tiến hành. Theo quan điểm thứ nhất, thủ tục đình công bao gồm hai giai đoạn là chuẩn bị đình công và tiến hành đình công. Trong thủ tục chuẩn bị đình công, bao gồm ba bƣớc khởi xƣớng đình công, lấy ý kiến tập thể lao động và giao quyết định đình công. Các bƣớc này đƣợc quy định rất chặt chẽ với những mục đích cơ bản sau đây: i) Bảo đảm quyền tự do định đoạt và ý chí tự nguyện của những ngƣời lao động khi quyết định đình công. Mỗi cá nhân ngƣời lao động trong tập thể lao động đều có quyền tự mình cân nhắc về việc có tham gia đình công hay không, không ai có quyền đe doạ hay buộc ngƣời lao động tham gia đình công; ii) Tạo điều kiện để tập thể lao động có sự chuẩn bị kỹ lƣỡng các tiền đề cơ bản, tạo khả năng thành công cho cuộc đình công (nhƣ thu hút thêm sự tham gia của đông đảo ngƣời lao động, chuẩn bị vật chất để hỗ trợ cho ngƣời lao động nếu đình công kéo dài, tạo sự chú ý của dƣ luận, các cơ quan thông tin đại chúng và sự quan tâm của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ); iii) Có thể coi giai đoạn này là quá trình làm nguội đi những bức xúc của ngƣời lao động nhằm 13
- tránh một cuộc đình công không thực sự cần thiết (nếu xảy ra những thiệt hại do nó gây ra có thể lớn hơn rất nhiều so với những lợi ích mà nó mang lại cho ngƣời lao động); hoặc nếu không thể ngăn chặn đƣợc cuộc đình công thì giai đoạn này cũng có tác dụng làm dịu đi tính quyết liệt của đình công, tránh những biểu hiện quá khích của ngƣời lao động trong thời gian tiến hành đình công; iv) Thủ tục gửi yêu sách đến ngƣời sử dụng lao động sẽ tạo điều kiện cho ngƣời sử dụng lao động có cơ hội xem xét lại những yêu sách của tập thể lao động, cân nhắc giữa việc chấp nhận những yêu sách của ngƣời lao động hay để đình công xảy ra (chắc chắn sẽ để lại những thiệt hại về kinh tế cho doanh nghiệp); v) Thủ tục thông báo đến cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền nhằm giúp chính quyền sở tại biết trƣớc về khả năng xảy ra đình công và dự liệu những hậu quả của đình công để có biện pháp xử lý kịp thời, hoặc khắc phục những hậu quả của đình công, đặc biệt là những bất ổn về chính trị, xã hội (nếu xảy ra); vi) Giảm đến mức thấp nhất những ảnh hƣởng tiêu cực của đình công do đã đƣợc thông báo và có sự chuẩn bị trƣớc để đối phó với những ảnh hƣởng tiêu cực của đình công. Về cách thức tiến hành đình công, do chƣa có những quy định cụ thể, đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau về cách thức tiến hành đình công: Cách hiểu thứ nhất cho rằng, các quy định hiện hành mới dừng lại ở việc quy định thủ tục chuẩn bị đình công và vai trò lãnh đạo đình công của tổ chức công đoàn, vấn đề cách thức đình công vẫn là một khoảng trống trong pháp luật hiện hành. Để khắc phục tình trạng này, có ý kiến cho rằng, cần nhanh chóng bổ sung các quy định về cách thức tiến hành đình công nhằm định hƣớng hoạt động của ngƣời lao động và phòng ngừa những biến tƣớng phức tạp của đình công. Ngƣợc lại, cũng có những ý kiến cho rằng, việc không quy định cách thức đình công nhƣ hiện nay đã tạo ra sự linh hoạt, chủ động cho tập thể lao động khi tiến hành đình công. Ngoài ra, nếu cần phòng 14
- ngừa các diễn biến phức tạp của đình công thì đã có các quy định về hành vi cấm thực hiện trƣớc, trong và sau đình công. Vì vậy, không cần thiết phải bổ sung các quy định về cách thức đình công. Có ý kiến cho rằng, do pháp luật chƣa quy định về cách thức đình công nên không có tiêu chí đánh giá tính hợp pháp về hình thức tiến hành đình công. Nhƣng lại có ý kiến cho rằng, cách thức đình công ngồi tại nơi làm việc là không trái với quy định của pháp luật; hình thức đình công đứng tại cổng doanh nghiệp là trái với quy định pháp luật. Hình thức đình công đứng tại cổng doanh nghiệp còn thể hiện tính thiếu tổ chức của các cuộc đình công hiện nay, xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của ngƣời lao động về pháp luật đình công, cũng nhƣ vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong tổ chức và lãnh đạo đình công [4]. Theo quan điểm thứ hai, thủ tục đình công chính là các bƣớc của một cuộc đình công, trong từng bƣớc sẽ là những phƣơng pháp và cách thức tiến thành cụ thể. Theo đó, thủ tục đình công sẽ gồm ba bƣớc: bƣớc lấy ý kiến tập thể NLĐ, ra quyết định đình công và tiến hành đình công. Trong từng bƣớc sẽ có quy định cụ thể về việc thực hiện nhƣ thế nào. Ví dụ nhƣ trong bƣớc lấy ý kiến tập thể NLĐ sẽ do ai tiến hành, lấy ý kiến bao nhiêu NLĐ, lấy trực tiếp hay thông qua đại diện, lấy ý kiến kín hay công khai ; trong bƣớc ra quyết định đình công sẽ do ai thực hiện, gửi cho ai, trong bao lâu và nội dung gồm những gì; cuối cùng là bƣớc tiến hành đình công sẽ tổ chức nhƣ thế nào, thời gian, địa điểm, hình thức đình công Các quan điểm trên về mặt thực tiễn là rất phong phú, vì vậy, để hiểu và phân tích một cách thấu đáo nhất thì nên hiểu thủ tục đình công theo cách hiểu thứ hai, tức là bao gồm các bƣớc tiến hành trong đó mỗi bƣớc có những cách thức, phƣơng pháp tiến hành cụ thể. Bởi vì, cách hiểu này là dễ hiểu hơn, dễ áp dụng hơn và chi tiết hơn cho ngƣời thực thi và áp dụng từ đó cuộc đình công sẽ đƣợc diễn ra đúng trình tự, thủ tục luật định. 15