Luận văn Quy chế pháp lý của hội nghị chủ nợ

pdf 79 trang vuhoa 25/08/2022 7200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quy chế pháp lý của hội nghị chủ nợ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quy_che_phap_ly_cua_hoi_nghi_chu_no.pdf

Nội dung text: Luận văn Quy chế pháp lý của hội nghị chủ nợ

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VĂN XUÂN QUỲNH TRANG QUY CHÕ PH¸P Lý CđA HéI NGHÞ CHđ Nỵ Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VĂN XUÂN QUỲNH TRANG QUY CHÕ PH¸P Lý CđA HéI NGHÞ CHđ Nỵ Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGƠ HUY CƢƠNG HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tơi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi cĩ thể bảo vệ Luận văn. Tơi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Văn Xuân Quỳnh Trang
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN 9 1.1. Bản chất của thủ tục phá sản và vai trị của chủ nợ trong thủ tục phá sản . 9 1.1.1. Bản chất của thủ tục phá sản 9 1.1.2. Vai trị của chủ nợ trong thủ tục phá sản 13 1.2. Địa vị pháp lý của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản 18 1.2.1. Khái niệm Hội nghị chủ nợ 18 1.2.2. Cơ sở pháp lý của việc thiết lập Hội nghị chủ nợ 18 1.2.3. Bản chất pháp lý của Hội nghị chủ nợ 19 1.2.4. Chức năng chủ yếu của Hội nghị chủ nợ 20 1.3. Hội nghị chủ nợ theo thủ tục phá sản của một số quốc gia trên thế giới và những kinh nghiệm cho Việt Nam 21 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA HỘI NGHỊ CHỦ NỢ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 26 1.2. Chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ 26 1.2.1. Chủ thể cĩ quyền tham gia Hội nghị chủ nợ 26 1.2.2. Chủ thể cĩ nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ 29 2.2. Thủ tục triệu tập và tiến hành Hội nghị chủ nợ 31 2.2.1. Điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ 32 2.2.2. Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất 33 2.2.3. Hội nghị chủ nợ tiếp theo 36 2.2.4. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh 36 2.3. Thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ 39 Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HỒN THIỆN QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY 43
  5. 3.1. Một số nhận xét về chế định Hội nghị chủ nợ trong pháp luật phá sản Việt Nam 43 3.1.1. Ưu điểm 43 3.1.2. Hạn chế 47 3.2. Một số giải pháp nhằm hồn thiện chế định Hội nghị chủ nợ trong pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay 58 3.2.1.Các giải pháp pháp lý 58 3.2.2. Các giải pháp bổ trợ khác 64 KẾT LUẬN 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Doanh nghiệp là một thực thể của nền kinh tế thị trường. Cũng như những chủ thể khác, doanh nghiệp cũng cĩ quá trình hình thành, tồn tại và chấm dứt hoạt động. Chính sự cạnh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến quy luật đào thải, buộc những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả cĩ thể rút ra khỏi nền kinh tế bằng cách chấm dứt hoạt động của nĩ và phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Ở Việt Nam, từ khi phát triền kinh tế thị trường cho đến nay, đã cĩ hàng trăm nghìn doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập và hoạt động kinh doanh. Nhưng bên cạnh đĩ thì số lượng doanh nghiệp chấm dứt hoạt động vì nhiều lý do khác nhau cũng khơng phải là nhỏ. Một khi doanh nghiệp khơng thể tồn tại thì bất kỳ quốc gia nào cũng đều cĩ những quy định về quy trình, thủ tục chấm dứt hoạt động của chúng một cách chặt chẽ để vừa bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, người lao động, cũng như bảo đảm trật tự xã hội, trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Pháp luật phá sản của Việt Nam đã ra đời nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ nợ, của doanh nghiệp mắc nợ và những người cĩ liên quan, xác định trách nhiệm của người mắc nợ, thúc đẩy hoạt động kinh doanh cĩ hiệu quả và bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội. Phá sản hiện nay là vấn đề cĩ tính thời sự bởi cuộc đại suy thối kinh tế trên tồn cầu, lạm phát triền miên và khủng hoảng nợ cơng cĩ tác động rất xấu tới hoạt động kinh tế nĩi chung và hoạt động của doanh nghiệp nĩi riêng. Rất nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh nợ nần chồng chất và khơng cĩ khả năng trả nợ đến hạn mà trong khi đĩ việc tìm lối ra khỏi tình trạng đĩ là vơ cùng khĩ khăn. Đồng hành với tình trạng này là trốn nợ, tẩu tán tài sản Bối cảnh như vậy cĩ thể kéo theo sự đổ bể hàng loạt doanh nghiệp bởi sự 1
  7. đan xen nợ nần trong làm ăn kinh tế. Trong khi đĩ pháp luật về phá sản nĩi chung của nước ta đang cịn gặp nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đời sống, chưa thật sự là hành lang pháp lý an tồn, khả thi. Mặt khác, thực tiễn thi hành pháp luật cũng cịn rất nhiều vấn đề phải bàn. Ở Việt Nam, Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 là văn bản luật đầu tiên quy định về giải quyết phá sản. Tuy nhiên sau gần chục năm thi hành văn bản này bị đánh giá thấp về hiệu quả điều chỉnh và ít tính khả thi. Luật Phá sản 2004 được Quốc hội thơng qua ngày 15/6/2004 và cĩ hiệu lực từ ngày 15/10/2004 nhằm giải quyết những vấn đề tồn tai của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Với rất nhiều nội dung mới được bổ sung, sửa đổi Luật Phá sản 2004 đã được nhà làm luật đặt nhiều kỳ vọng trong việc áp dụng vào thực tiễn, giảm tải những vướng mắc trong quá trình thực thi. Song, khơng giống như những kỳ vọng ban đầu, Luật Phá sản năm 2004 đã gặp nhiều vướng mắc, khĩ khăn khi áp dụng vào thực tiễn. Một thập kỉ trải qua, vào ngày 19/06/2014, Luật Phá sản 2014 đã được Quốc hội thơng qua và cĩ hiệu lực áp dụng từ ngày 01/01/2015. Luật Phá sản 2014 ra đời được đánh giá như là một cố gắng mới của các nhà lập pháp nước ta trong việc nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với hiện tượng kinh tế khách quan cĩ vai trị khơng nhỏ này trong đời sống kinh tế. Trong thủ tục phá sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền lợi. Tuy nhiên khơng phải chủ nợ nào cũng cĩ quyền lợi giống nhau. Do vậy, pháp luật phá sản của Việt Nam cũng như của các nước trên thế giới đã đề cập tới khái niệm Hội nghị chủ nợ như một thiết chế duy nhất đại diện cho tất cả các chủ nợ, thay mặt các chủ nợ tham gia vào quá trình xử lý doanh nghiệp phá sản. Hội nghị chủ nợ được quy định trong Luật Phá sản 2004 với đầy đủ tư cách và địa vị pháp lý, cĩ thẩm quyền để thay mặt các chủ nợ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc tổ chức Hội nghị chủ nợ đĩng vai trị qua 2
  8. trọng trong việc giải quyết một cách bình đẳng và cơng bằng lợi ích của các chủ nợ trong quan hệ với doanh nghiệp bị yêu cầu phá sản và giữa các chủ nợ với nhau. Tuy nhiên, chế định này vẫn chưa được đề cập một cách đầy đủ trong pháp luật và chưa được các nhà luật học nghiên cứu chuyên sâu. Do vậy, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài “Quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, phá sản doanh nghiệp vẫn là một vấn đề cịn khá mới mẻ. Đã cĩ nhiều cơng trình nghiên cứu, luận văn, luận án đề cập tới hiện tượng phá sản trong pháp luật Việt Nam và đặt trong mối quan hệ so sánh với pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới. Phải kể tới cơng trình nghiên cứu về Luật Phá sản của Tịa án nhân dân tối cao được đăng trên đặc san chuyên đề của Tịa án nhân dân năm 2005. Cơng trình này nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tồn bộ nội dung cơ bản của Luật Phá sản, các nội dung được quy định trong luật nội dung và trình tự thủ tục giải quyết; vai trị của các chủ thể tham gia phá sản như Tổ quản lý, thanh lý tài sản, Tịa án, Hội nghị chủ nợ. Tuy nhiên, vấn đề cĩ tính chất chuyên sâu thì mới nghiên cứu ở mức độ hạn chế. Ngồi ra, cần nhắc tới Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Trương Hồng Hải với đề tài “Luật Phá sản Việt Nam dưới gĩc độ luật so sánh và phương hướng hồn thiện” đã bảo vệ năm 2004 tại trường Đại học Luật Hà Nội. Luận án đã tập trung nghiên cứu các nội dung trong Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và so sánh với pháp luật phá sản của một số quốc gia khác trên thế giới (Cộng hịa liên bang Nga, Đức, Trung Quốc, Hoa Kỳ ) trong các vấn đề như xác định tình trạng phá sản, các chủ thể tham gia trong thủ tục tố tụng phá sản, vai trị của các thiết chế như Tịa án, Hội nghị chủ nợ. Từ đĩ 3
  9. rút ra những điểm tương đồng hay khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và các nước trên thế giới, đồng thời cũng lý giải những yếu tố tạo nên sự khác biệt đĩ. Luận án cũng đã đề cập tới sự hình thành và hoạt động của Hội nghị chủ nợ, chỉ ra những ưu điểm trong mơ hình này tại một số nước và đưa ra kinh nghiệm cho Việt Nam nhưng mới dừng lại ở mức độ bao quát, chưa phân tích sâu. Bên cạnh đĩ là Luận án tiến sỹ luật học với đề tài “Kế thừa những ưu điểm của Luật Phá sản năm 2004 và tăng cường tính khả thi trong thực tiễn thi hành” của tác giả Lê Ngọc Thắng đã bảo vệ năm 2014 tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận án đã kế thừa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về phá sản và phá sản doanh nghiệp theo pháp luật phá sản của Việt Nam, đồng thời cĩ so sánh với pháp luật một số nước khác từ đĩ rút ra bài học cho Việt Nam trong việc hồn thiện pháp luật phá sản. Ngồi ra, luận án cũng phân tích và khẳng định một số quy định được cho là tiến bộ, hợp lý cũng như những quy định hạn chế, bất cập của Luật Phá sản năm 2004, cĩ thể kế thừa và phát triển khi hồn thiện. Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích một cách khái quát những nguyên lý cơ bản của khoa học luật so sánh và sự vận dụng chúng với ý nghĩa là một phương pháp luận quan trọng trong hoạt động so sánh pháp luật nĩi chung và pháp luật phá sản nĩi riêng; về khái niệm phá sản và bản chất của phá sản; xác định tình trạng phá sản của doanh nghiệp; trình tự thủ tục giải quyết; quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp; nghiên cứu đánh giá Luật Phá sản nĩi chung và pháp luật phá sản nĩi riêng; nghiên cứu Luật Phá sản một số nước và rút ra những điểm tương đồng và khác biệt với pháp luật phá sản Việt Nam; đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hiện hành và đưa ra những phương án đề xuất nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của pháp luật phá sản trong thực tiễn. Chế định về Hội nghị chủ nợ 4
  10. tuy đã được đề cập đến trong những nghiên cứu trước đây, tuy nhiên chưa được nghiên cứu ở mức độ chuyên sâu. Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu cụ thể về chế định này, là một trong những nội dung rất quan trọng trong quá trình giải quyết một vụ việc phá sản được ghi nhận trong Luật Phá sản và các văn bản pháp luật hiện hành cĩ liên quan. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là phân tích và luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn các quy chế pháp lý về Hội nghị chủ nợ, thực trạng pháp luật, nêu lên xu hướng điều chỉnh của chế định pháp luật về Hội nghị chủ nợ, đưa ra những đánh giá và chỉ ra những đề xuất, kiến nghị về những phương hướng và giải pháp nhằm hồn thiện các quy định về chế định Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp, tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ một cách tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ, người lao động và những chủ thể khác cĩ liên quan đến quá trình giải quyết các vụ việc phá sản ở nước ta. Để thực hiện mục đích trên, luận văn cĩ nhiệm vụ: - Giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản của chế định Hội nghị chủ nợ, trong đĩ đi sâu phân tích về bản chất của thủ tục phá sản với tính tập thể của các chủ nợ và vai trị của chủ nợ trong thủ tục phá sản; khái niệm và các học thuyết về Hội nghị chủ nợ; phân tích cơ sở pháp lý và bản chất pháp lý đặc trưng của Hội nghị chủ nợ; đồng thời cũng nêu lên những chức năng chủ yếu của Hội nghị chủ nợ trong quá trình tiến hành tố tụng phá sản. - Bên cạnh đĩ, nhằm cĩ được những kinh nghiệm tốt cho việc hồn thiện pháp luật về Hội nghị chủ nợ ở Việt Nam, luận văn đã cĩ những nghiên cứu bước đầu về kinh nghiệm trong việc thiết lập và hoạt động của Hội nghị chủ nợ ở một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Đức, Trung Quốc. - Phân tích những quy định của Luật Phá sản hiện hành và các ngành 5
  11. luật cĩ liên quan về các chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ, thủ tục triệu tập và tiến hành Hội nghị chủ nợ, thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ trong quá trình tiến hành tố tụng phá sản. - Phân tích và đánh giá tình hình áp dụng pháp luật về Hội nghị chủ nợ ở Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời nhấn mạnh những khĩ khăn, vướng mắc mà các chủ thể thường gặp phải khi áp dụng các quy định này trong thực tiễn. Đề cập tới những nguyên nhân làm hạn chế hiệu lực của những quy định về Hội nghị chủ nợ. - Đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung và hồn thiện pháp luật về Hội nghị chủ nợ ở Việt Nam, trong đĩ cĩ những phương án hồn thiện hệ thống pháp luật phá sản nĩi chung, pháp luật về Hội nghị chủ nợ nĩi riêng và những giải pháp về tổ chức thực hiện những quy định của pháp luật về chế định Hội nghị chủ nợ nhằm đáp ứng yêu cầu của việc giải quyết phá sản ở nước ta trong thời gian tới. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Đề tài luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về Hội nghị chủ nợ, phân tích thực trạng của pháp luật Việt Nam về những vấn đề pháp lý cĩ liên quan đến khái niệm Hội nghị chủ nợ. Đây là một chế định pháp luật quan trọng trong Luật Phá sản, với bản chất đề cao tính tập thể của các chủ nợ, địi hỏi sự điều tiết của nhiều nhĩm chủ thể khác nhau như chủ nợ, con nợ, người lao động trong doanh nghiệp phá sản, nền kinh tế - xã hội. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và 6
  12. phát triển nền kinh tế hàng hĩa nhiều thành phần cĩ sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận văn vận dụng những phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, áp dụng vào tình hình cụ thể của nước ta. Các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học pháp lý cũng được đặc biệt chú ý sử dụng trong luận văn như: phương pháp phân tích, tổng hợp các kiến thức từ pháp luật thực định và phân tích thực tiễn để nhận thức và đánh gái thực trạng điều chỉnh pháp luật và thực thi pháp luật; phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp, lịch sử, xã hội học pháp luật để giải quyết những vấn đề cơ bản của luận văn. 6. Những điểm mới của luận văn Hiện nay tuy đã cĩ nhiều cơng trình nghiên cứu Luật Phá sản với tư cách là một đạo luật nhưng thường tập trung nghiên cứu một cách khái quát về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp. Đề tài “Quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ” nghiên cứu một vấn đề mang tính cụ thể, vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trong khi Luật Phá sản và những quy định về Hội nghị chủ nợ đã cĩ hiệu lực nhưng đang cần cĩ những giải pháp nhằm hồn thiện và phát huy hơn nữa hiệu quả trên thực tế, hi vọng những kiến giải của tác giả sẽ được các nhà làm luật tham khảo. Những điểm mới của luận văn là: - Trên cơ sở phân tích các quan niệm, học thuyết về Hội nghị chủ nợ, luận văn đưa ra khái niệm và các học thuyết, bản chất pháp lý, vai trị và những chức năng chủ yếu của Hội nghị chủ nợ. - Phân tích những nội dung của pháp luật về Hội nghị chủ nợ đồng thời chỉ ra những bất cập trong pháp luật hiện hành, khẳng định các quy định về 7
  13. Hội nghị chủ nợ là một bộ phận quan trọng khơng thể thiếu của pháp luật phá sản Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới. - Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật Hội nghị chủ nợ, đồng thời nghiên cứu những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định này, trên cơ sở đĩ tìm ra nguyên nhân của thực trạng đĩ. - Đề xuất một số định hướng cơ bản nhằm hồn thiện các quy định pháp luật về Hội nghị chủ nợ đồng thời đề xuất kiến nghị về một số giải pháp cụ thể nhằm gĩp phần hồn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về Hội nghị chủ nợ. Tác giả hi vọng sẽ gĩp một phần nhỏ vào việc nâng cao ý thức pháp luật về một vấn đề khá mới và cụ thể trong luật là Hội nghị chủ nợ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời luận văn sẽ cĩ ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, là tài liệu cần thiết cho việc nghiên cứu, học tập đặc biệt đối với những người làm cơng tác thực tiễn liên quan đến phá sản doanh nghiệp và các chủ thể cĩ thẩm quyền liên quan đến lĩnh vực này, đặc biệt là các doanh nghiệp. 7. Kết cấu của luận văn Ngồi lời nĩi đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo chủ yếu, luận văn được kết cấu với 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản. Chương 2. Thực trạng quy chế pháp lý của Hội nghị chủ nợ và thực tiễn áp dụng Chương 3. Một số giải pháp nhằm hồn thiện quy chế pháp lý về Hội nghị chủ nợ trong pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay. 8
  14. Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN 1.1. Bản chất của thủ tục phá sản và vai trị của chủ nợ trong thủ tục phá sản 1.1.1. Bản chất của thủ tục phá sản Thuật ngữ “Phá sản” thường được sử dụng để chỉ những chủ thể bị lâm vào tình trạng hỗn loạn về tài chính và khơng cịn khả năng thanh tốn các khoản nợ. Cĩ nhiều mức độ phá sản khác nhau, bao gồm từ tình trạng bị mất khả năng thanh tốn tạm thời cho đến những trường hợp chấm dứt sự hoạt động của doanh nghiệp với tư cách một thực thể kinh doanh. Khi một doanh nghiệp phá sản sẽ làm ảnh hưởng khơng nhỏ tới nhiều nhĩm lợi ích trong nền kinh tế. Về mặt kinh tế: Một doanh nghiệp bị phá sản trong điều kiện ngày nay cĩ thể dẫn đến những tác động tiêu cực. Khi quy mơ của doanh nghiệp phá sản càng lớn, tham gia vào quá trình phân cơng lao động của ngành nghề đĩ càng sâu và rộng, số lượng bạn hàng ngày càng đơng, thì sự phá sản của nĩ cĩ thể dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp bạn hàng theo "hiệu ứng domino" - phá sản dây chuyền. Về mặt xã hội: Phá sản doanh nghiệp để lại những hậu quả tiêu cực nhất định về mặt xã hội bởi nĩ làm tăng số lượng người thất nghiệp, làm cho sức ép về việc làm ngày càng lớn và cĩ thể làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, thậm chí các tội phạm. Về mặt chính trị: Phá sản dây chuyền sẽ dẫn tới sự suy thối và khủng hoảng nền kinh tế quốc gia, thậm chí khủng hoảng kinh tế khu vực và đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những khủng hoảng sâu sắc về chính trị. 9
  15. Như vậy, xét ở ba khía cạnh trên, phá sản với tính cách là một hiện tượng xã hội tiêu cực cần được hạn chế và ngăn chặn đến mức tối đa. Để hạn chế các tác động tiêu cực, phá sản cần phải được coi là sự lựa chọn cuối cùng và duy nhất của chính phủ đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu này cần phải được thể hiện một cách nhất quán trong pháp luật phá sản qua các nội dung như: tiêu chí xác định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, vấn đề hồi phục doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thứ tự ưu tiên thanh tốn các khoản nợ khi tuyên bố phá sản Do vậy Luật Phá sản hiện đại cần xây dựng một cơ chế điều tiết linh hoạt, đảm bảo lợi ích cho các chủ thể cĩ liên quan. Một đạo Luật Phá sản hiện đại thường hướng đến rất nhiều mục tiêu điều chỉnh khác nhau, là cơng cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhiều loại chủ thể khác nhau từ chủ nợ, con nợ cho tới người lao động và đồng thời cũng là một cơng cụ hiệu quả trong điều tiết kinh tế. “Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự), thủ tục giải quyết phá sản làm một loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Do tính chất đặc biệt này nên trong pháp luật tố tụng các nước, thủ tục phá sản bao giờ cũng được điều chỉnh bởi một hệ thống văn bản pháp luật riêng biệt. Tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản được thể hiện ở những điểm như sau: Thứ nhất, thủ tục phá sản là một thủ tục địi nợ tập thể. Khác với thủ tục địi nợ thơng thường, thủ tục phá sản tiến hành việc địi nợ và thanh tốn nợ một cách tập thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, các chủ nợ khơng thể tự xé lẻ để địi nợ riêng, mà tất cả phải tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất được gọi là Hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ đại diện cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc giải quyết phá sản. Khi bị áp dụng thủ tục thanh lý thì tồn bộ tài sản của con nợ được đưa vào một quỹ chung dùng để trả lại cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu 10
  16. tiên nhất định đã được pháp luật phá sản quy định. Nếu tài sản của con nợ khơng đủ để thanh tốn tất cả các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh tốn theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà doanh nghiệp phá sản cịn thiếu với số tài sản cịn lại của doanh nghiệp. Thứ hai, thủ tục phá sản là thủ tục địi nợ được tiến hành trong một hồn cảnh đặc biệt, như một biện pháp cuối cùng của quá trình địi nợ. Nếu như thủ tục địi nợ thơng thường (địi nợ thơng qua việc khiếu kiện ra Tịa án) cĩ thể được tiến hành bất cứ lúc nào thì thủ tục phá sản chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp mặc nợ đã lâm vào tình trạng khĩ khăn về tài chính, khơng cĩ khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn, khơng cịn lối thốt mà người ta thường gọi là tình trạng phá sản. Nĩi cách khác, thủ tục phá sản là thủ tục pháp lý khơng dễ xảy ra, nĩ chỉ xuất hiện như một giải pháp cuối cùng mà các chủ nợ phải sử dụng để địi nợ khi mà các phương thức địi nợ thơng thường khơng thể thực hiện được. Thứ ba, thủ tục phá sản là thủ tục mà hậu quả của nĩ thường là sự chấm dứt hoạt động của một thương nhân. Trong tố tụng dân sự, sau khi bản án của Tịa án cĩ hiệu lực pháp luật, con nợ đương nhiên cĩ nghĩa vụ phải chấp hành. Sau khi trả nợ xong, con nợ vẫn tồn tại và hoạt động một cách bình thường. Đây là điểm khác biệt so với tố tụng phá sản. Trong tố tụng phá sản, để giúp các chủ nợ thu hồi được các mĩn nợ của mình, Tịa án phải ra những quyết định pháp lý đặc biệt như quyết định áp dụng thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp (thực chất là quyết định nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp) để trả cho các chủ nợ. Nĩi cách khác, kết quả của thủ tục phá sản thường dẫn đến sự chấm dứt hoạt động của chính bản thân con nợ rồi nhân cơ hội đĩ mà bán tồn bộ tài sản để trả cho các chủ nợ. 11
  17. Thứ tư, thủ tục phá sản khơng chỉ thuần túy là một thủ tục địi nợ mà cịn là một thủ tục cĩ khả năng giúp con nợ phục hồi. Mặc dù thủ tục phá sản thực chất là một thủ thủ tục địi nợ tập thể nhưng điều đĩ khơng cĩ nghĩa là, khi một con nợ bị mở thủ tục phá sản thì ngay lập tức tài sản của doanh nghiệp sẽ bị dùng để thanh tốn cho các chủ nợ. Hiện nay, ngồi mục tiêu thanh lý, pháp luật phá sản cĩ nhiều nước trên thế giới cịn đặt thêm một mục tiêu rất quan trọng, đĩ là giúp con nợ phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Việc tuyên bố phá sản một doanh nghiệp sẽ khơng chỉ gây ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân các chủ nợ, con nợ, người lao động mà cịn kéo theo nhiều hậu quả bất lợi cho xã hội. Trong thủ tục phá sản, con nợ được Tịa án tạo điều kiện tối đa cho việc phục hồi hoạt động kinh doanh. Một trong những biện pháp để giúp con nợ thốt khỏi tình trạng phá sản là việc pháp luật cho phép con nợ được chủ động xây dựng phương án hịa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Kế hoạch này sẽ được trình lên Hội nghị chủ nợ, nếu được thơng qua thì về cơ bản, doanh nghiệp đĩ được khơi phục lại vị trí pháp lý ban đầu, tiếp tục hoạt động kinh doanh một cách bình thường [42]. Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu quả của nĩ là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản khơng chỉ là sự xung đột lợi ích giữa con nợ mất khả năng thanh tốn với các chủ nợ của nĩ mà cịn dẫn đến sự xung đột với lợi ích của tập thể người lao động làm việc tại cơ sở của con nợ, đến lợi ích chung của xã hội, đến tình hình trật tự trị an tại một địa phương, vùng lãnh thổ nhất định nào đĩ. Trên thế giới, pháp luật phá sản cĩ hai xu hướng khác nhau. Xu hướng thứ nhất cĩ mục tiêu là “hướng vào con nợ” nhằm tập trung giải cứu 12
  18. các con nợ thốt khỏi tình trạng khĩ khăn về tài chính, bảo đảm việc làm cho người lao động, tránh bất ổn kinh tế thơng qua việc tổ chức lại con nợ. Xu hướng thứ hai cĩ mục tiêu “hướng vào chủ nợ” bằng cách tạo điều kiện cho các chủ nợ cùng nhau sai áp đối với phần sản nghiệp cịn lại của con nợ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây dường như đã cĩ sự kết hợp cả hai mục tiêu này theo hướng nghiêng về mục tiêu “hướng vào con nợ”, vì người ta nhận thấy rằng tạo điều kiện cho sự tiếp tục tồn tại của con nợ sẽ cĩ lợi hơn cho nền kinh tế trong tình trạng thất nghiệp cao. Trong nền kinh tế thị trường, việc doanh nghiệp phá sản là điều khĩ tránh khỏi, địi hỏi phải cĩ sự can thiệp của Nhà nước vào hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nĩ. Thơng qua pháp luật phá sản, Nhà nước cĩ thể can thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp một cách năng động và mềm dẻo. Để đảm bảo điều đĩ, thủ tục phá sản cũng phải linh hoạt, mềm dẻo trong việc điều tiết hiệu quả mối quan hệ về lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ nhằm đạt được các chức năng điều chỉnh của mình. Như vậy, việc điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thơng qua thủ tục phá sản được hiểu là thơng qua thủ tục phá sản, pháp luật phá sản phải tạo ra một cơ chế đồng bộ để điều tiết một cách hài hịa mối quan hệ về lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ, đảm bảo tối ưu hĩa các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời, qua đĩ cịn tính tốn việc cân bằng các lợi ích khác mà pháp luật hướng tới bảo vệ như lợi ích người lao động, lợi ích nền kinh tế và xã hội nĩi chung. 1.1.2. Vai trị của chủ nợ trong thủ tục phá sản Khi mới hình thành, Luật Phá sản chủ yếu được áp dụng cho các thương gia nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Ví dụ: Luật Phá sản đầu tiên 13
  19. của nước Anh đã quy định nhiều biện pháp rất nghiêm ngặt, kể cả bỏ tù con nợ. Đồng thời với quá trình dân chủ hĩa các hoạt động kinh tế, nhất là xu thế mở rộng quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, pháp luật về phá sản ngày càng cĩ xu hướng nhân đạo hĩa các biện pháp áp dụng đối với chủ doanh nghiệp bị phá sản, phát triển các quy định nhằm bảo vệ lợi ích của các con nợ. Tuy nhiên lợi ích của các chủ nợ vẫn là mục tiêu bảo vệ hàng đầu. Pháp luật phá sản của đa số các nước trên thế giới đều xác định chủ nợ là các pháp nhân hay thể nhân cĩ các khoản nợ khơng được trả đúng hạn. Trong thủ tục phá sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền lợi. Tuy nhiên khơng phải chủ nợ nào cũng cĩ quyền lợi giống nhau. Theo quy định tại Luật Phá sản 2004, khái niệm chủ nợ được phân thành ba loại: chủ nợ cĩ bảo đảm, chủ nợ cĩ bảo đảm một phần và chủ nợ khơng cĩ bảo đảm. Chủ nợ cĩ bảo đảm là chủ nợ cĩ khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba (Khoản 1, Điều 6, Luật Phá sản 2004). Đồng thời, theo quy định tại Khoản 3, Điều 40, Luật Phá sản 2004 thì chủ nợ cĩ bảo đảm cịn là người chủ tài sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã thuê mượn tài sản mà tài sản đã được chuyển nhượng cho người khác. Cũng theo Khoản 1, Điều 57, Luật Phá sản 2004 người bị đình chỉ thi hành án dân sự cĩ tài sản kê biên mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án cũng cĩ thể được coi là chủ nợ cĩ bảo đảm. Chủ nợ cĩ bảo đảm một phần bao gồm những chủ nợ cĩ khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đĩ (Khoản 2, Điều 6, Luật Phá sản 2004) và những chủ nợ chuyển hĩa từ loại chủ nợ cĩ bảo đảm thành chủ nợ cĩ bảo đảm một phần vì tài sản bảo đảm bị suy giảm giá trị ban đầu. Chủ nợ khơng cĩ bảo đảm là những chủ nợ cĩ khoản nợ khơng được 14
  20. bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hay người thứ ba (Khoản 3, Điều 6, Luật Phá sản 2004). Cũng như hai loại chủ nợ trên, Luật Phá sản 2004 cũng quy định những chủ nợ chuyển hĩa từ chủ nợ cĩ bảo đảm hay chủ nợ cĩ bảo đảm một phần; những người là một bên bị thiệt hại trong hợp đồng bị đình hoặc đối tượng của hợp đồng là tài sản khơng cịn (Điều 47, Luật Phá sản 2004); những người bị đình chỉ thi hành án dân sự khơng kê biên tài sản (Điều 57, Luật Phá sản 2004); những người được thực hiện nghĩa vụ tài sản trong vụ án bị đình chỉ (Điều 58, Luật Phá sản 2004); người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Khoản 3, Điều 62, Luật Phá sản 2004) đều được coi như chủ nợ khơng cĩ bảo đảm. Đặc biệt, tại Khoản 4, Điều 14 quy định: “Sau khi nộp đơn, đại diện cho người lao động hoặc đại diện cơng đồn được coi là chủ nợ” và khoản 2 điều 62 Luật Phá sản “đại diện cho người lao động, đại diện cơng đồn cĩ quyền, nghĩa vụ như chủ nợ” cĩ thể khảng định, người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được xem như một chủ nợ khơng cĩ bảo đảm đặc biệt. Vì người lao động đã đem sức lực của mình làm hàng hĩa để trao đổi với doanh nghiệp và tiền lương chính là nguồn sống của bản thân họ và gia đình họ mà khơng cĩ một khoản bảo đảm nào. Khi doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì họ là những người bị thiệt hại nhiều nhất, khơng cĩ lương, nguy cơ thất nghiệp đe dọa. Như vậy, khái niệm về các loại chủ nợ khơng chỉ bĩ hẹp trong phạm vi quy định tại Điều 6, Luật Phá sản 2004 mà nĩ cịn bao gồm nhiều đối tượng được quy định trong những điều luật khác. Các chủ nợ của doanh nghiệp là những người cĩ quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất trong một vụ phá sản. Do đĩ, chủ nợ được pháp luật quy định các quyền để họ cĩ thể tham gia bảo vệ lợi ích của mình. Pháp luật Việt 15
  21. Nam cho phép các chủ nợ khơng cĩ bảo đảm hoặc cĩ bảo đảm một phần cĩ quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã (Khoản 1, Điều 13, Luật Phá sản 2004). Chủ nợ cĩ quyền khiếu nại về quyết định khơng mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, cĩ quyền khiếu nại doanh nghiệp về danh sách chủ nợ do Tổ quản lý tài sản lập, cĩ quyền khiếu nại về quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Bên cạnh đĩ, các chủ nợ cĩ quyền tham gia Hội nghị chủ nợ để xem xét, thơng qua phương hướng hịa giải, tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc thảo luận và kiến nghị với Thẩm phán về việc phân chia giá trị tài sản cịn lại của doanh nghiệp nếu khơng cĩ phương án hịa giải hoặc phương án hịa giải khơng được thơng qua (chỉ những chủ nợ khơng cĩ bảo đảm hoặc chủ nợ cĩ bảo đảm một phần mới cĩ quyền biểu quyết tại Hội nghị chủ nợ. Ngồi ra, vai trị của Luật Phá sản trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ cịn được thể hiện qua quy định tại Điều 31, Luật Phá sản 2004: kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm doanh nghiệp, hợp tác xã cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh tốn nợ khơng cĩ bảo đảm; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền địi nợ; chuyển các khoản nợ khơng cĩ bảo đảm thành nợ cĩ bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. Ngồi ra, sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện những hoạt động sau: cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã cĩ hiệu lực; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; thanh tốn các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động. 16