Luận văn Quản trị công ty cổ phần theo mô hình không có ban kiểm soát theo luật doanh nghiệp 2014

pdf 86 trang vuhoa 25/08/2022 5961
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản trị công ty cổ phần theo mô hình không có ban kiểm soát theo luật doanh nghiệp 2014", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quan_tri_cong_ty_co_phan_theo_mo_hinh_khong_co_ban.pdf

Nội dung text: Luận văn Quản trị công ty cổ phần theo mô hình không có ban kiểm soát theo luật doanh nghiệp 2014

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VĂN HƢNG QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN THEO MÔ HÌNH KHÔNG CÓ BAN KIỂM SOÁT THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VĂN HƢNG QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN THEO MÔ HÌNH KHÔNG CÓ BAN KIỂM SOÁT THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ HÀ NỘI - 2018
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN KHÔNG CÓ BAN KIỂM SOÁT 9 1.1. Khái quát về Công ty cổ phần 9 1.2. Khái quát về quản trị Công ty cổ phần không có ban khiểm soát 16 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN KHÔNG CÓ BAN KIỂM SOÁT Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 29 2.1. Chế định về quản trị Công ty cổ phần không có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 29 2.2. Thực tiễn áp dụng mô hình quản trị Công ty cổ phần không có ban kiểm soát tại thành phố Hồ Chí Minh 48 Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN KHÔNG CÓ BAN KIỂM SOÁT 64 3.1. Một số quan điểm định hướng hoàn thiện chế định về quản trị Công ty cổ phần không có ban kiểm soát 64 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện chế định về mô hình quản trị Công ty cổ phần không có ban kiểm soát 66 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  4. DANH MỤC TỪ VIẾT TĂT BGĐ Ban giám đốc BKS Ban kiếm soát CTCP Công ty cổ phần ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông HĐQT Hội đồng quản trị
  5. DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1. Mô hình quản trị không có BKS của Vinamilk [38] 52 Sơ đồ 2.2. Mô hình quản trị không có BKS của CTCP Licogi 16 [22] 53
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xuất phát từ thực tế khách quan và đòi hỏi của sự hình thành, phát triển của nền kinh tế thị trường mà hình thức CTCP ra đời. Hình thức này đã xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII , mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là nước Pháp. Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn mà cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Tại Việt Nam, từ khi đất nước được thống nhất, do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh. Mặt khác do cơ chế kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà việc khôi phục nền kinh tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều hạn chế. Do đó mà đại hội Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt Nam là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường. Điều này không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế và quan hệ sở hữu mà còn làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh tế mới đó là CTCP. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992 đều khẳng định: Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành đó, kinh tế quốc doanh được xác định giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế khác hoạt động theo luật và bình đẳng trước pháp luật CTCP là loại hình doanh nghiệp đối với nước ta là tương đối mới. Trước đây, khi chưa có Luật doanh nghiệp thì CTCP hoạt động theo Luật công ty. Khi Luật doanh nghiệp ra đời (tháng 12 năm 1999) thì CTCP được xác định đầy đủ và rõ ràng hơn, là một trong 4 loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh nghiệp. Cũng chính từ đó mà CTCP phát triển mạnh hơn và ngày càng phát huy được những ưu thế của nó trong 1
  7. nền kinh tế. So với các loại hình doanh nghiệp khác thì CTCP rất có ưu thế trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường chứng khoán ở nước ta thì CTCP là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho sự hoạt động của thị trường này. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cùng với sự phát triển của các CTCP và việc ngày càng hoàn thiện pháp luật về quản trị CTCP. Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời đã đánh dấu nhiều bước chuyển trong tổ chức quản trị của loại hình doanh nghiệp này. Tùy vào đặc điểm sản suất kinh doanh, năng lực tổ chức mà các CTCP có thể lựa chọn cho mình mô hình quản trị có BKS và không có BKS. Mô hình nào cũng có ưu điểm và nhược điểm trong quá trình tổ chức thực hiện và để phát huy thế mạnh của mô hình quản trị CTCP không có BKS trong nền kinh tế thì trước hết trong nội tại CTCP phải hoạt động có hiệu quả, mà vấn đề được quan tâm đầu tiên là quản trị CTCP, tổ chức quản lý trong chính nội bộ công ty. Nhận thức vai trò quan trọng của yếu tố quản trị trong CTCP, pháp luật Việt Nam hiện hành đã có nhiều chế định liên quan, tạo cơ sở pháp lý chung để những nhà quản lý doanh nghiệp áp dụng vào thực tiễn công ty mình, nhằm làm cho bộ máy CTCP vận hành có hiệu quả. Nghiên cứu và rút ra bài học kinh nghiệm pháp luật về quản trị CTCP của các nước phát triển trên thế giới, trong thời gian qua, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong nhận thức và thực tiễn thi hành pháp luật, nếu so sánh với những quy định về CTCP nói chung và vấn đề quản trị CTCP nói riêng thì pháp luật của nước ta đã có cách tiếp cận và phát triển khá bài bản, đã giải quyết được những yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đất nước và nhu cầu mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng cao, pháp luật về quản trị CTCP theo mô hình 2
  8. không có BKS đang bộc lộ nhiều vấn đề chưa hoàn thiện. Nhiều vụ việc tranh chấp nội bộ, nhiều hành vi lợi dụng vai trò, ảnh hưởng của người quản lý để trục lợi, làm thiệt hại đến lợi ích của cổ đông vẫn xảy ra thường xuyên mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những bất cập và thiếu sót của pháp luật về quản trị CTCP. Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã có nhiều đổi mới về vấn đề quản trị CTCP nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện, nhiều bất cập từ Luật Doanh nghiệp năm 2005 vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung triệt để, đặc biệt cần đồng bộ Luật Doanh nghiệp năm 2014 với các văn bản luật chuyên ngành, văn bản dưới luật để tạo thành một hệ thống thống nhất. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện vấn đề pháp luật liên quan đến quản trị CTCP nói chung và quản trị CTCP theo mô hình không có BKS nói riêng trong giai đoạn này là việc làm cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: “Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Quản trị CTCP và pháp luật về quản trị CTCP là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, trong đó có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau: Tác giả Đồng Ngọc Ba (2004) với luận án tiến sĩ Luật học: “Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Trường Đại học Luật Hà Nội đã đi sâu nghiên cứu hệ thống pháp luật của Việt Nam về doanh nghiệp, đặc biệt tác giả đã so sánh được các quy định trong Luật Doanh nghiệp và Bộ luật dân sự về các quy định liên quan. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật doanh nghiệp tại một số loại hình doanh nghiệp từ đó rút ra được những ưu điểm và khuyết điểm trong quá trình thực hiện pháp luật [3]. Tác giả Hà Thị Hồng Anh (2015) với luận văn thạc sĩ: “Pháp luật về quản trị CTCP và thực tiễn áp dụng tại CTCP truyền thông Đại Dương”, 3
  9. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã đi sâu nghiên cứu hệ thống pháp luật liên quan đến quản trị CTCP vận dụng vào thực tiễn doanh nghiệp qua đó rút ra những điểm cần phải hoàn thiện trong quá trình tổ chức thực hiện quản trị CTCP theo pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam [2]. Tác giả Bùi Xuân Hải (2011) với tác phẩm: “Luật Doanh nghiệp bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn”. Cuốn sách này tập trung phân tích làm rõ thực trạng pháp luật về quyền của cổ đông, cách thức và biện pháp bảo vệ cổ đông CTCP trên cơ sở có so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp năm 2005 nhằm tăng cường bảo vệ cổ đông CTCP [19]. Tác giả Trần Lương Đức (2006) với luận văn thạc sỹ luật học: “Chế độ pháp lý về quản trị CTCP theo Luật doanh nghiệp”, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn tập trung làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của quy định pháp luật về quản trị CTCP của Việt Nam theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005. Trong luận văn này, đã có sự so sánh giữa Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2005, phân tích chỉ ra những điểm mới, tiến bộ của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về quản trị CTCP và đề xuất các giải pháp đề áp dụng pháp luật trong thực tiễn [16]. Bên cạnh đó còn có, tác giả Võ Ngọc Dao (2015) với luận văn thạc sĩ: “So sánh quản trị CTCP ở Việt Nam và Nhật Bản”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tác giả Hoàng Thị Mai (2015), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị CTCP, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học, “Quản trị CTCP theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” (2016) của Nguyễn Anh Tuấn, Học viện khoa học xã hội; Luận văn thạc sĩ luật học, “Chế độ pháp lý về quản trị CTCP ở Việt Nam hiện nay” (2013) của Nguyễn Khắc Thuận, Học viện khoa học xã hội. Luận văn nghiên cứu về quản trị CTCP nói chung theo Luật Doanh nghiệp năm 2005; Bài viết 4
  10. “Một số so sánh về CTCP theo Luật Công ty Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp Việt Nam”, của Nguyễn Thị Lan Hương, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, số 25/2009 Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về quản trị CTCP ở Việt Nam, tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu phân tích làm rõ một số khía cạnh pháp lý trong quá trình tổ chức và hoạt động kinh doanh của CTCP, quyền và nghĩa vụ của cổ đông CTCP, cơ cấu tổ chức ĐHĐCĐ, Hội đông quản trị, BKS Tuy nhiên, các vấn đề trên mới được đề cập dưới góc độ của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành nên chưa làm rõ được những vấn đề cần hoàn thiện của hệ thống pháp luật về quản trị CTCP sau khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 được thông qua. Vì vậy, đề tài đi sâu nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS, tuy nhiên tập trung nghiên cứu toàn diện những hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, các quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, phân tích đánh giá thực trạng về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện việc quản trị CTCP theo mô hình không có BKS ở nước ta hiện nay. 5
  11. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nói trên, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản trị CTCP, cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS. - Phân tích, đánh giá thực trạng về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và thực tiễn thực thi pháp luật về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay; - Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS theo Luật Doanh nghiệp năm 2014. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu CTCP với tư cách là một loại hình kinh doanh trong nền kinh tế là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Do đó, luận văn không tập trung nghiên cứu về vấn đề quản trị CTCP dưới góc độ của khoa học kinh tế mà chỉ nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý. Theo cách tiếp cận của luận văn, tác giả không nghiên cứu toàn bộ các vấn đề pháp lý về quản trị CTCP mà chỉ tập trung vào các quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 2014 về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS trên cơ sở so sánh với pháp luật về quản trị CTCP theo mô hình song lớp của một số quốc gia trên thế giới, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học luật, cụ thể: Đề tài của Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật, đường lối, quan 6
  12. điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập. Phương pháp luận nghiên cứu được sử dụng trong Luận văn là phép biện chứng duy vật để nhìn nhận, đánh giá về lý thuyết của quản trị CTCP theo mô hình không có BKS theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và về quản trị CTCP trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê một cách thích hợp để triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu những vấn đề về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 trên phương diện lý luận và thực tiễn, được thể hiện ở những nội dung sau: 6.1. Ý nghĩa lý luận - Nghiên cứu có hệ thống và luận giải trên cơ sở lý luận và thực tiễn các khái niệm, cơ sở pháp lý, nền tảng khoa học, các vấn đề có liên quan đến quản trị CTCP theo mô hình không có BKS. - Đánh giá đúng, chính xác thực trạng quản trị CTCP theo mô hình không có BKS theo Luật Doanh nghiệp năm 2014. Chỉ ra những tồn tại, những bất cập trong việc áp dụng, thực thi các quy định của pháp luật về quản trị CTCP theo mô hình không có BKS theo Luật Doanh nghiệp năm 2014. - Phân tích nguyên tắc quản trị CTCP đang được nhiều nước trên thế giới lựa chọn áp dụng, đồng thời cũng nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quản trị CTCP của một số nước trên thế giới. - Đưa ra một số đề xuất và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về cơ chế quản trị CTCP theo mô hình không có BKS. 7
  13. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Những quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị CTCP theo mô hình có BKS được đề xuất trong luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật về quản trị CTCP tại Việt Nam. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy pháp luật về quản trị công ty. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 03 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản trị CTCP Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản trị CTCP không có BKS ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện chế định về quản trị CTCP không có BKS 8
  14. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN KHÔNG CÓ BAN KIỂM SOÁT 1.1. Khái quát về Công ty cổ phần 1.1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của Công ty cổ phần ở Việt Nam Về mặt lịch sử hình thành, CTCP ra đời sau các loại công ty đối nhân nhưng là hình thức đầu tiên của loại hình công ty đối vốn. Khác với sự ra đời của hình thức công ty Trách nhiệm hữu hạn - là sản phẩm của các nhà lập pháp xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, CTCP được hình thành trong hoạt động kinh doanh và do nhu cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới được pháp luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một chế định pháp lý. CTCP xuất hiện đầu tiên trên thế giới là Công ty Đông Ấn (East India Company) của Anh (1600-1874). Ở Việt Nam, Luật lệ về công ty lần đầu tiên được quy định là trong “Bộ Dân luật thi hành tại các toà án Nam, Bắc Kỳ”, trong đó tiết thứ 5 (Chương IX) nói về hội buôn được chia thành hai loại là hội người và hội vốn. Trong đó hội vốn được chia thành hai loại là hội vô danh và hội hợp cổ (Công ty hợp vốn đơn giản). Nhìn chung, quy định của Pháp luật thời kỳ này về CTCP còn rất sơ khai [14, tr.17]. Dưới thời Pháp thuộc, các quy định của Bộ luật Thương mại Pháp năm 1807, trong đó có quy định về hình thức CTCP được áp dụng ở cả ba Kỳ tại Việt Nam. Đến năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ luật Thương mại Trung phần có hiệu lực áp dụng tại Trung Kỳ, trong đó có quy định về CTCP (gọi là công ty vô danh) từ Điều 102 đến Điều 142 và từ Điều 159 đến Điều 171. Năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ban hành Bộ luật Thương mại, trong đó CTCP được gọi là hội nặc danh với đặc điểm “gồm có các hội 9
  15. viên mệnh danh cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn phần hùn của mình dưới hình thức cổ phần” (Điều 236) và “chỉ được thành lập nếu có số hội viên từ 7 người trở lên” (Điều 295). Các vấn đề pháp lý liên quan đến hình thức hội nặc danh như thành lập, góp vốn, cơ cấu quản lý đã được quy định rất chi tiết trong Bộ luật này từ Điều 236 đến Điều 278 cũng như từ Điều 295 đến Điều 314. Ở miền Bắc, sau năm 1954 cho đến khi thống nhất đất nước vào năm 1975 và trên phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến những năm 80 của thế kỷ 20, với chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các hình thức công ty nói chung và CTCP nói riêng hầu như không được pháp luật thừa nhận. Khái niệm “công ty” trong giai đoạn này không được hiểu đúng bản chất pháp lý mà chỉ được hiểu theo hình thức kinh doanh. Các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn này chủ yếu bao gồm các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã (đối với thành phần kinh tế tập thể) và công tư hợp danh (hình thành từ quá trình cải tạo công thương nghiệp xã hội chủ nghĩa). Trong giai đoạn này, mặc dù Điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định 115/CP của Chính phủ ngày 18/4/1977) có đề cập đến hình thức CTCP khi quy định “xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp” có thể thành lập theo hình thức “công ty vô danh” (một tên gọi khác của CTCP) nhưng lại không có văn bản pháp luật nào quy định về tổ chức và hoạt động của hình thức CTCP này. Và trên thực tế, cũng không có xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp nào được thành lập theo hình thức “công ty vô danh” theo quy định của Điều lệ về đầu tư của nước ngoài năm 1977 kể trên. Cho đến khi Luật công ty được ban hành ngày 21/12/1990, hình thức CTCP mới chính thức được quy định cụ thể. Theo Luật Công ty 1990, CTCP được xác định với các đặc điểm sau: - Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là 7. 10
  16. - Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua 1 hoặc nhiều cổ phiếu. - Cổ phiếu được phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập viên, của thành viên HĐQT phải là những cổ phiếu có ghi tên. - Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu ghi tên chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của HĐQT, trừ trường hợp quy định tại Điều 39 của Luật này. Sau khi Luật Công ty ra đời, nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã được ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau nhưng được tổ chức dưới hình thức CTCP. Hoạt động của các doanh nghiệp này một mặt phải tuân thủ các quy định của Luật Công ty, mặt khác, do đặc thù riêng của các ngành nghề kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp này còn phải tuân thủ theo quy định của các luật chuyên ngành. Chẳng hạn như trong Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/10/1998 tại Điều 12 quy định về các loại hình tổ chức tín dụng có hình thức tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nước và nhân dân, hay nói cách khác các Ngân hàng thương mại cổ phần chính là các CTCP hoạt động trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ. Trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, tại Điều 2.1 Quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán ban hành kem theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998 quy định “Công ty chứng khoán là CTCP thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán”. Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Công ty đã phát huy được tích cực vai trò của mình, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn các quan hệ kinh doanh ở nước ta trong thời kỳ này liên 11
  17. tục biến đổi, Luật công ty đã bộc lộ rất nhiều bất cập, nhất là trong vấn đề thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh. Nhiều quy định của luật này tỏ ra lạc hậu với cách thức tổ chức một công ty theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Việc sửa đổi, thay thế luật này được đặt ra như là một sự tất yếu khách quan. Ngày 12/6/1999, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp để thay thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Sau này, Luật Doanh nghiệp liên tục được điều chỉnh vào các năm 2005 và 2014. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của Công ty cổ phần 1.1.2.1. Khái niệm về Công ty cổ phần Các nhà kinh doanh liên kết với nhau trên cơ sở vốn và sự tin tưởng lẫn nhau để tạo ra mô hình kinh doanh mới - công ty. Căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của thành viên công ty và ý chí của nhà lập pháp, dưới góc độ pháp lý, công ty được chia thành hai loại cơ bản: công ty đối nhân và công ty đối vốn. Nếu công ty đối nhân quan tâm nhiều đến thân nhân người góp vốn thì công ty đối vốn chỉ quan tâm đến phần vốn góp. Trong khi công ty đối nhân không có sự tách bạch về tài sản cá nhân của các thành viên và tài sản công ty, thì ở công ty đối vốn lại có sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản cá nhân. Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn. Có thể hiểu công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp mà vốn điều lệ được chia thành các phần nhỏ bằng nhau, mỗi phần nhỏ đó được gọi là cổ phần; người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Theo quy định tại Điều 110, Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, CTCP là doanh nghiệp, trong đó: a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa; 12
  18. c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 [27]. 1.1.2.2. Đặc điểm của Công ty cổ phần CTCP có những đặc điểm khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác như: Thứ nhất, về thành viên (cổ đông): Đặc điểm về cổ đông của công ty CP là hệ quả đặc điểm về cấu trúc vốn. Với căn cứ xác lập tư cách cổ đông là quyền sở hữu cổ phần, trong khi cổ phần có thể được chào bán cho rộng rãi các đối tượng khác nhau, cổ đông của công ty này thường rất lớn về số lượng và không quen biết nhau. Luật Doanh nghiệp chỉ hạn định số lượng tối thiểu mà không giới hạn số lượng tối đa các cổ đông của CTCP, theo đó công ty này phải có ít nhất 3 cổ đông trong suốt quá trình hoạt động. Thứ hai, về cấu trúc vốn: CTCP có cấu trúc vốn “mở”. Đặc điểm về cấu trúc vốn của CTCP thể hiện trước hết ở vốn điều lệ của công ty. Vốn điều lệ của công ty phải được chia thành những phần nhỏ nhất bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá (giá trị danh nghĩa) của cổ phần và có thể được phản ánh trong cổ phiếu. Tư cách cổ đông của công ty được xác định dựa trên căn cứ quyền sở hữu cổ phần. Các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần trừ một số trường hợp bị Pháp luật cấm chuyển nhượng hoặc hạn chế chuyển nhượng. Mức độ tự do chuyển nhượng cổ phần phụ thuộc vào tính chất của từng loại cổ phần. Với tính tự do chuyển nhượng cổ phần, cơ cấu cổ đông của công ty có thể thay đổi linh hoạt mà không ảnh hưởng đến sự tồn tại cũng như bản chất của công ty. Thứ ba, về huy động vốn: Đặc điểm về cấu trúc vốn của CTCP còn thể hiện ở khả năng huy động vốn bằng phát hành chứng khoán. Công ty có thể 13
  19. phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ hoặc phát hành trái phiếu để tăng vốn vay (vốn tín dụng) theo quy định của Pháp luật. Thứ tư, về chế độ trách nhiệm tài sản: Công ty phải tự chịu trách nhiệm một cách độc lập về các nghĩa vụ tài sản bằng toàn bộ tài sản của công ty. Cổ đông không phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của công ty ngoài phạm vi giá trị cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Tuy nhiên, chế độ Trách nhiệm hữu hạn mà cổ đông được hưởng cũng kèm theo những ràng buộc nhất định nhằm bảo vệ quyền lợi của người thứ ba. Theo Luật Doanh nghiệp, khi công ty thanh toán cổ phần mua lại hoặc trả cổ tức trái quy định thì tất cả cổ đông phải hoàn trả số tiền hoặc tài sản đã nhận cho công ty. Nếu cổ đông không hoàn trả được thì cổ đông phải chịu trách nhiệm về nợ của công ty. Thứ năm, về tư cách pháp lý: CTCP là chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân. Theo Luật doanh nghiệp, CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của Công ty cổ phần trong nền kinh tế Nền kinh tế thế giới, đặc biệt là kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển rất nhanh vào những năm cuối của thế kỷ 19 và những thập niên đầu tiên của thế kỷ 20. Có thể nói sau những thành công của hai cuộc cách mạng công nghiệp, với những nhận thức mới về cơ chế quản lý kinh tế, về cơ cấu và các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà gần như toàn bộ nền kinh tề đã khắc phục được những khó khăn, hạn chế từng ảnh hưởng một cách tiêu cực đến kinh tế thế giới. Với hình thái CTCP, lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế thế giới đã khắc phục được những tồn tại từng gây biết bao khó khăn cho mình; đó là tình trạng các công ty thiếu vốn để đầu tư xây dựng và sản xuất kinh doanh,nguồn vốn có được chủ yếu từ khu vực kinh tế nhà nước do vậy luôn tồn tại sự buông lỏng quản lý trong doanh nghiệp; không có động lực trong chiến lược sản xuất, tư liệu bị phân tán; những nguồn lực bị xé lẻ trong dân 14
  20. Hình thái CTCP ra đời đánh dấu sự tiến hoá của chế độ tín dụng từ kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính trong đó chủ yếu là thị trường chứng khoán. Các CTCP là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự phồn vinh của thị trường chứng khoán. Đổi lại, sự thịnh vượng của thị trường này tạo điều kiện cho các CTCP sinh sôi nảy nở. Có thể nói CTCP ra đời mang những đặc điểm mới cho phép nó thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường hiện đại mà những hình thái khác không thể đáp ứng được. Đó là: CTCP là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. Cơ cấu tổ chức trong CTCP đã thực hiện được việc tách biệt quyền sở hữu và quyền kinh doanh, tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của một bên là đông đảo công chúng mua cổ phần còn bên kia là đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho những công cuộc kinh doanh quy mô lớn. Các cổ phiếu và trái phiếu của CTCP được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán, vì thế bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu lần cuộc sống của các doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình thường mà không bị ảnh hưởng. Đồng thời nhờ cơ chế này nó đã tạo nên sự di chuyển linh hoạt các luồng vốn trong xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa dạng của các công ty và công chúng. Có thể nói những ưu thế được mang lại từ việc hình thành và hoạt động của CTCP là vô cùng to lớn nó đã khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của các doanh nghiệp, xoá bỏ tình trạng vô chủ trong các công ty. Mặc dù chủ trương trao quyền tự quản cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà 15
  21. nước đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng nó mới chỉ đẩy lùi được chế độ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp còn về mặt nhận thức thì tài sản của doanh nghiệp nhà nước vẫn là tài sản chung cho nên tình trạng vô trách nhiệm, lãng phí của công vẫn không được khắc phục. Khi xuất hiện CTCP thì mặc nhiên những điều này sẽ không tồn tại. Hơn nữa, CTCP huy động được nguồn vốn trong xã hội cung cấp cho hoạt động kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp.Một mặt vừa góp phần tháo gỡ khó khăn cho ngân sách nhà nước (không phải chu cấp cho doanh nghiệp) mặt khác vốn và tài sản doanh nghiệp nhà nước nhờ quá trình cổ phần hoá thu lại sẽ được đầu tư mở rộng sản xuất; tăng thêm tài sản cố định góp phần to lớn thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Ngoài ra, hình thái CTCP xuất hiện sẽ thay đổi cung cách quản lý trong mỗi doanh nghiệp, ở CTCP quyền lợi của những người chủ mới của doanh nghiệp gắn chặt với sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh vì thế họ rất đoàn kết, gắn bó và thống nhất trong việc tìm kiếm và đưa ra phương hướng hoạt động phù hợp nhất của doanh nghiệp nhằm củng cố, tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra, quan tâm đến công việc công ty và lao động với tinh thần trách nhiệm cao. 1.2. Khái quát về quản trị Công ty cổ phần không có ban khiểm soát 1.2.1. Quản trị công ty cổ phần Theo thông lệ quốc tế, thuật ngữ “quản trị công ty” là một khái niệm gắn liền với CTCP, nên các chuẩn mực quốc tế được hình thành đều gắn chặt với việc quản trị CTCP. Giữa quản trị công ty và quản trị kinh doanh có sự khác nhau rất cơ bản: Quản trị kinh doanh là điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do Ban giám đốc thực hiện. Quản trị công ty là một quá 16
  22. trình giám sát và kiểm soát được thực hiện để đảm bảo cho việc thực thi quản trị kinh doanh phù hợp với lợi ích của các cổ đông. Quản trị công ty nghĩa rộng còn hướng đến đảm bảo quyền lợi của những người liên quan, không chỉ là cổ đông mà bao gồm cả các nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, môi trường và cả các cơ quan nhà nước. Quản trị công ty được đặt trên cơ sở của sự tách biệt giữa quản lý và sở hữu doanh nghiệp. Công ty là của chủ sở hữu (nhà đầu tư, cổ đông ), nhưng để công ty tồn tại và phát triển phải có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành của Ban giám đốc và sự đóng góp của người lao động, những người này không phải bao giờ cũng có chung ý chí và quyền lợi. Điều này dẫn đến cần phải có một cơ chế để nhà đầu tư, cổ đông có thể kiểm soát việc điều hành công ty có hiệu quả. Quản trị công ty tập trung xử lý các vấn đề thường phát sinh trong mối quan hệ ủy quyền (principle-agent) trong công ty, ngăn ngừa, hạn chế những người quản lý lạm dụng quyền và nhiệm vụ được giao sử dụng tài sản, cơ hội kinh doanh của công ty phục vụ cho lợi ích riêng của bản thân hoặc của người khác hoặc làm thất thoát nguồn lực do công ty kiểm soát. Các quy định của Quản trị công ty chủ yếu liên quan đến HĐQT, các thành viên HĐQT và Ban giám đốc, chứ không liên quan đến việc điều hành công việc hàng ngày của công ty. Quản trị công ty tốt sẽ có tác dụng làm cho các quyết định và hành động của Ban giám đốc thể hiện đúng ý chí và đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư, cổ đông và những người có lợi ích liên quan. Nói tóm lại, Quản trị công ty là mô hình cân bằng và kiềm chế quyền lực giữa các bên liên quan của công ty, nhằm vào sự phát triển dài hạn của công ty. Quản trị công ty xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa các nhóm lợi ích, các thành viên khác nhau trong công ty, bao gồm các cổ đông, HĐQT, ban điều hành, BKS và những người liên quan khác của công ty như người 17