Luận văn Quản lý nhà nước về xuất bản từ thực tiễn nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội

pdf 98 trang vuhoa 25/08/2022 6280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý nhà nước về xuất bản từ thực tiễn nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_xuat_ban_tu_thuc_tien_nha_xuat.pdf

Nội dung text: Luận văn Quản lý nhà nước về xuất bản từ thực tiễn nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGHIÊM THỊ LỆ DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN TỪ THỰC TIỄN NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. THÁI VĨNH THẮNG HÀ NỘI, 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài “Quản lý nhà nước về xuất bản từ thực tiễn Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội” là kết quả của quá trình học tập và nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn được thu tập và trích dẫn từ các nguồn tin cậy, bảo đảm tính chính xác, rõ ràng; việc xử lý, phân tích và đánh giá các số liệu được thực hiện một cách trung thực, khách quan. Tác giả Nghiêm Thị Lệ Dung
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về xuất bản 8 1.2. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản 25 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về xuất bản 30 1.4. Tình hình hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay 34 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN TẠI NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 45 2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản 45 2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về xuất bản tại Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 50 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN TỪ THỰC TIỄN NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 62 3.1. Nhóm giải pháp chung nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xuất bản ở Việt Nam hiện nay 62 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xuất bản tại Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 73 KẾT LUẬN 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 PHỤ LỤC 82
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ TTTT Bộ Thông tin và Truyền thông NXB Nhà xuất bản NXB ĐHQGHN Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội QLNN Quản lý nhà nước Sở TTTT Sở Thông tin và Truyền thông XB Xuất bản
  5. DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC Phụ lục 1 Quản lý hoạt động xuất bản ở một số nước châu Âu 83 Phụ lục 2 Quản lý hoạt động xuất bản ở một số nước châu Á 86 Một số bài học kinh nghiệm đối với hoạt động xuất bản Phụ lục 3 88 tại Việt Nam Bảng biểu, biểu đồ số liệu sử dụng phân tích cho Phụ lục 4 91 Chương 2
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xuất bản có vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội nói chung, văn hóa nói riêng. Các quan hệ xã hội về xuất bản rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Hoạt động xuất bản là một hoạt động đặc thù thuộc lĩnh vực văn hóa tư tưởng và khá nhạy cảm về chính trị xã hội. Nó đan xen giữa văn hóa - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo của tư duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu thông và tiêu dùng xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là kênh thông tin quan trọng để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần ổn định chính trị, phát triển văn hóa và kinh tế, nâng cao dân trí, đời sống tinh thần của nhân dân. Do đó, tăng cường quản lý nhà nước về xuất bản là vấn đề quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Quản lý nhà nước về xuất bản là một trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân và phải được tiến hành trên nhiều phương diện. Trong đó, quản lý nhà nước về xuất bản hiện nay được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm có những đổi mới đáng kể, mang lại những hiệu quả tích cực, đặc biệt từ khi Luật Xuất bản năm 2012 ra đời và có hiệu lực ngày 01/7/2013. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, quản lý nhà nước đối với xuất bản ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế: mô hình tổ chức và cơ chế chính sách cho hoạt động xuất bản còn nhiều bất cập, hoạt động XB có những khó khăn, những thách thức gay gắt, tiềm ẩn nhiều rủi ro, một số nhà xuất bản chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế đơn thuần, coi nhẹ chức năng, nhiệm vụ chính trị, văn hóa, tư tưởng; xuất hiện một số xuất bản phẩm có nội dung không lành mạnh, không phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam, bị dư luận phê phán; một bộ phận khác hoạt động kém hiệu quả, kém năng động, còn nặng về trông chờ, bao cấp. Nạn in lậu, in trái phép chưa được ngăn chặn, xử lý kịp thời, thị trường xuất bản phẩm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ thống phát hành xuất bản phẩm nhà nước chưa quan tâm, củng cố đúng mức, có nguy cơ thu hẹp, đặc biệt các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Thực tiễn đã chứng minh, việc 1
  7. nhà nước sử dụng nhiều công cụ để điều chỉnh hoạt động xuất bản là điều chỉnh hoạt động kinh tế trong lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, đồng thời điều chỉnh hoạt động văn hóa tư tưởng trong cơ chế thị trường. Thị trường xuất bản vốn rất nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, quản lý nhà nước về xuất bản cần được nghiên cứu thấu đáo là một đòi hỏi của thực tế khách quan, vừa có ý nghĩa cấp thiết, vừa mang tính lâu dài, góp phần bảo đảm công tác tư tưởng chính trị, kinh tế - xã hội trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều 25 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”. Thực tiễn thực hiện quyền này như thế nào? Giữa quy định và thực tiễn có độ vênh không? Nội dung quản lý nhà nước về xuất bản vừa phải bảo đảm trật tự quản lý nhà nước, trật tự xã hội, lợi ích nhân dân, lợi ích nhà nước vừa phải bảo đảm quyền con người. Vấn đề đặt ra, quản lý nhà nước như thế nào để cân đối, hài hòa cả hai vấn đề này. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, kỹ thuật in ấn và công nghệ thông tin phát triển vượt bậc cho phép một cá nhân có thể ngay lập tức phổ biến tác phẩm của mình trên toàn thế giới một cách hết sức dễ dàng. Điều này đem lại những tác động tích cực, nhưng cũng có thể gây ra những tiêu cực hay nguy cơ trong đời sống kinh tế, xã hội. Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản đòi hỏi thực hiện được đồng thời cả hai nhiệm vụ, đó là phát huy khả năng sáng tạo ra tác phẩm và kiểm soát được vấn đề nội dung của xuất bản phẩm. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập quốc tế, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay không chỉ cho các nhà nghiên cứu mà còn có ý nghĩa thiết thực cho các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến lĩnh vực này. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước về xuất bản từ thực tiễn Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội” để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ Luật học. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận của việc quản lý nhà nước về xuất bản, tác giả xây dựng khái niệm và chỉ ra những đặc điểm về xuất bản, quản lý 2
  8. nhà nước về xuất bản. Phân tích vai trò, nội dung của quản lý nhà nước về xuất bản trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Luận văn đánh giá thực trạng của hoạt động này trong những năm vừa qua ở Việt Nam, chỉ ra những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế cơ bản của quản lý nhà nước về xuất bản ở Việt Nam, cụ thể qua thực tiễn hoạt động của Nhà xuất bản ĐHQGHN và những nguyên nhân của hạn chế đó. Trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm giải pháp nhằm nâng cao quản lý nhà nước về xuất bản. Để tăng cường hơn nữa vai trò quản lý Nhà nước về hoạt động xuất bản, in, phát hành bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý thông thoáng thúc đẩy hoạt động xuất bản, in, phát hành phát triển. Mặt khác, nhà nước cần tích cực rà soát, bổ sung và hoàn thiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất bản; nâng cao chất lượng công tác thẩm định và đọc xuất bản phẩm lưu chiểu, chấn chỉnh việc nộp lưu chiểu không đúng quy định hiện hành. Chú trọng công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất bản, in, phát hành; kiên quyết xử lý nghiêm việc lưu hành, phát tán những ấn phẩm có nội dung vi phạm quy định của Luật Xuất bản, góp phần đưa hoạt động xuất bản, in, phát hành phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững ổn định chính trị của đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quá trình tìm tư liệu nghiên cứu, tác giả đã tìm được một số bài viết, đề xuất, kiến nghị trong khuôn khổ một số hội thảo liên quan đến soạn thảo Luật xuất bản năm 2012. Một số đề xuất liên quan đến vấn đề lựa chọn mô hình NXB đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế do Vụ Báo chí Xuất bản - Ban Tuyên giáo trung ương tổ chức. Một số đề tài khoa học và luận án tiến sỹ đã công bố có liên quan đến vấn đề này. Một số đề tài khoa học cấp bộ do các cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản tiến hành như Cục Xuất bản, In và Phát hành, Vụ Pháp chế, Thanh tra Bộ TTTT trong các năm 2009 - 2010 cũng là những kết quả quan trọng để đề tài có thể kế thừa. Các đề tài này là cơ sở quan trọng để học viên kế thừa cho đề tài nghiên cứu của mình. 3
  9. Nhìn chung, các nghiên cứu về lĩnh vực xuất bản có thể chia làm 2 nhóm. Nhóm các nghiên cứu ở nước ngoài chủ yếu tiếp cận xuất bản như một lĩnh vực kinh tế đơn thuần với những thách thức trước mắt là xuất bản điện tử đem đến nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức mới cho ngành. Nhóm nghiên cứu về xuất bản trong nước chủ yếu được thực hiện bởi các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản. Nhìn chung, các nghiên cứu của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản có giá trị cao về mặt thực tiễn. Tuy nhiên, các nghiên cứu đó không tránh khỏi cái nhìn chủ quan từ các cơ quan quản lý, do vậy đưa ra các giải pháp quản lý theo hướng “quản thật chặt” hay “thuận lợi cho người quản lý, bất lợi cho người bị quản lý”. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại những sai phạm có chiều hướng gia tăng trong lĩnh vực này. Do vậy rất cần có nghiên cứu khách quan hơn, đứng từ góc độ khoa học quản lý và những đơn vị làm xuất bản, giúp cho hoạt động xuất bản ở Việt Nam thực sự phát triển cả về lượng và chất cũng như khắc phục được những yếu kém hiện nay trong công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Trong thời gian qua, số công trình nghiên cứu được công bố về quản lý xuất bản không nhiều. Hiện nay tại Học viện Khoa học Xã hội chưa có đề tài nào nghiên cứu quản lý nhà nước về xuất bản. Năm 1994 có Luận án PTSKH nghiên cứu “Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức quản lý ở các Nhà xuất bản nước ta hiện nay”; năm 2011 có luận án TS nghiên cứu “Hoạt động quản lý xuất bản sách giáo khoa ở Việt Nam từ năm 1993 đến nay”. Các công trình trên chỉ mới nghiên cứu những khía cạnh liên quan tới thực trạng và đề xuất giải pháp quản lý nhà nước về xuất bản sách giáo khoa phổ thông phù hợp với cơ chế quản lý nền kinh tế, giáo dục trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay và biện pháp đổi mới tổ chức quản lý đối với hoạt động của xuất bản mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ cả mặt lý luận và thực tiễn đối với quản lý nhà nước về xuất bản. Có thể nói, đây là công trình đầu tiên được nghiên cứu tương đối hệ thống và toàn diện vấn đề quản lý nhà nước về xuất bản trên cơ sở lý luận và thực tiễn tại một đơn vị cụ thể hoạt động về lĩnh vực xuất bản. 4
  10. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của việc quản lý nhà nước về xuất bản, đánh giá thực trạng của hoạt động này trong những năm vừa qua. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những quan điểm, giải pháp quản lý nhà nước về xuất bản hiện nay như: - Phát triển đúng định hướng của Đảng; - Nâng cao dân trí và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân; - Bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; - Nâng cao hiệu quả kinh tế; - Ổn định đời sống chính trị, tư tưởng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đối với quản lý nhà nước về xuất bản ở nước ta hiện nay. - Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng QLNN về XB có tác động tới hoạt động XB tại NXB ĐHQGHN. - Đề xuất quan điểm, giải pháp quản lý nhà nước về XB, nhằm đạt kết quả tốt trong QLNN về XB hiện nay. Ba nhiệm vụ trên sẽ được giải quyết trong ba chương của phần nội dung đề tài như: - Xây dựng những khái niệm, chỉ ra những đặc điểm về XB, QLNN về XB. Phân tích vai trò, nội dung của QLNN về XB hiện nay. - Đánh giá kết quả đạt được, cũng như những hạn chế cơ bản của QLNN về XB trong những năm vừa qua và chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế. - Đưa ra những quan điểm có tính định hướng và một số giải pháp cụ thể. 5
  11. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước do các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền thực hiện đối với hoạt động xuất bản tại Việt Nam, từ thực tiễn NXB ĐHQGHN. Hoạt động quản lý nhà nước trong luận văn được tiếp cận theo quy trình quản lý gồm: Lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra hoạt động XB ở Việt Nam. Vấn đề quản lý được nghiên cứu giải quyết trong luận văn là hoạt động quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động XB, tiếp cận theo quy trình quản lý. Không đi vào quản lý vi mô. Hoạt động XB bao gồm 3 lĩnh vực là XB, in, phát hành. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề QLNN đối với lĩnh vực XB (tổ chức bản thảo ), các lĩnh vực in và phát hành chỉ đề cập ở mức độ nhất định. Xuất bản phẩm bao gồm: sách in; sách điện tử; sách chữ nổi Sản phẩm của NXB ĐHQGHN được phân tích, đánh giá trong luận văn chủ yếu là sách in. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động XB gồm 03 lĩnh vực: Xuất bản, In, Phát hành. Mỗi lĩnh vực có một vị trí, đặc trưng riêng, song không thể tách rời nhau. Chúng có mối quan hệ tác động tương hỗ qua lại với nhau. Do vậy, luận văn cần nghiên cứu QLNN trên cả ba lĩnh vực của hoạt động XB, nhưng lấy việc QLNN bằng pháp luật về XB, trong đó XB sách là trọng tâm. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn thực hiện phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn; phương pháp mô tả, phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, hệ thống hóa cùng một số phương pháp khác của khoa học quản lý. 6
  12. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận - Xây dựng, hoàn thiện có hệ thống hoạt động quản lý nhà nước về xuất bản. - Hoạch định chính sách về xuất bản. - Đưa ra các chương trình hành động cho ngành xuất bản. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Phục vụ công tác quản lý về xuất bản; - Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về xuất bản; - Đưa ra những giải pháp cụ thể, xác đáng cho hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực xuất bản; - Hoàn thiện hoạt động quản lý của đơn vị cho công tác này. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho hoạt động nghiên cứu lý luận đối với quản lý nhà nước về xuất bản. Có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho những người quan tâm. Đặc biệt, kết quả đó có ý nghĩa góp phần tăng cường quản lý nhà nước về xuất bản ở Việt Nam nói chung và tại NXB ĐHQGHN nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn gồm 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lí luận của quản lý nhà nước về xuất bản; Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về xuất bản tại Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xuất bản từ thực tiễn Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 7
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về xuất bản 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về xuất bản a. Khái niệm về “xuất bản” Xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng nhằm phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trong Từ điển thuật ngữ xuất bản, in, phát hành, thư viện, bản quyền định nghĩa “xuất bản là một quá trình hoạt động nối tiếp, đồng bộ, hoàn chỉnh. Nó gồm 3 khâu: biên tập, in và phát hành” [5, tr. 642]. Khoản 1 Điều 4 Luật Xuất bản ghi nhận: “Xuất bản là việc tổ chức, khai thác bản thảo, biên tập thành bản mẫu để in và phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua các phương tiện điện tử”. Vậy theo nghĩa rộng, xuất bản là hoạt động bao gồm các lĩnh vực xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là quá trình tổ chức các nguồn lực xã hội trong việc sáng tạo tác phẩm, in nhân bản các tác phẩm, phổ biến đến nhiều người nhằm đạt hiệu quả kinh tế, chính trị và xã hội. Theo nghĩa hẹp, xuất bản là quá trình tổ chức việc sáng tạo, tác động vào quá trình sáng tạo của tác giả để có bản thảo tác phẩm, xử lý và hoàn chỉnh bản thảo, bản mẫu, in thành các xuất bản phẩm nhằm phục vụ nhiều người. Hoạt động xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thông qua việc sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người, không phải là hoạt động đơn thuần kinh doanh. 8
  14. Hoạt động xuất bản nhằm mục đích: - Phổ biến những tác phẩm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật; giới thiệu những di sản văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa thế giới; nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. - Đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam. Ở phương Tây, từ “xuất bản” trong tiếng Pháp là “Publier” và tiếng Anh là “Publish” xuất hiện vào năm 1330 và năm 1450. Từ “xuất bản” bắt nguồn từ tiếng La-tinh “Publicare” (nghĩa là “công bố ra đại chúng”). Ở Trung Quốc, người ta định nghĩa “xuất bản là hoạt động biên tập, nhân bản tác phẩm và phát hành ra công chúng”. Hoạt động xuất bản có từ rất sớm, nhưng thời cổ Trung Quốc, mọi người chưa sử dụng thuật ngữ “xuất bản”, mà thường gọi hoạt động xuất bản là “in điêu khắc”, “in khắc gỗ”, “in kẽm” Hàm ý của những từ này thường chỉ công việc in ấn, cũng có lúc chỉ cả việc phát hành, nhưng nội dung về biên tập thường không có ở trong đó. Định nghĩa “xuất bản” của Việt Nam và nước ngoài về nội dung cơ bản là giống nhau, chỉ khác nhau ở chỗ: các nước phương Tây chú trọng việc “công bố ra đại chúng”, còn Việt Nam và Trung Quốc thì nhấn mạnh tính chỉnh thể không thể tách rời nhau giữa 3 yếu tố: biên tập, in và phát hành. Định nghĩa “xuất bản” của phương Tây không nói rõ về biên tập, cũng có người nói rằng biên tập nằm trong lựa chọn hoặc nhân bản. Trong định nghĩa “xuất bản” của Việt Nam thì xác định rõ là bao gồm cả “biên tập”. Như vậy, xuất bản được hiểu đầy đủ là hoạt động biên tập, chế bản, in tác phẩm và phát hành ra công chúng. b. Đặc điểm của hoạt động xuất bản Với các khái niệm được trình bày như trên, cho chúng ta tiếp cận một cách khái quát về xuất bản và những biểu hiện cụ thể của nó. Dù các khái niệm chưa 9
  15. được hoàn chỉnh, chuẩn mực bởi yếu tố lịch sử và những biểu hiện của hoạt động xuất bản nhưng nhìn chung xuất bản có những đặc điểm chính sau đây: - Hoạt động xuất bản mang đặc điểm truyền thông Xuất bản phẩm, trong đó có sách, là sản phẩm văn hóa tinh thần, là phương tiện lưu giữ, tích lũy, truyền bá tri thức của loài người. Trong lịch sử, sự ra đời của sách là thành tựu kỳ diệu trong sự phát triển của nhân loại. Sách ghi lại sự trưởng thành về nhận thức và tư duy, về cải tạo và xây dựng xã hội của loài người, đồng thời nó trao truyền các giá trị di sản văn hóa tinh thần và các thành tựu của văn hóa vật chất mà loài người đã đạt được. Xuất bản là một môn khoa học và là một trong những hoạt động quan trọng của công tác chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo dục và khoa học của Đảng và Nhà nước ta. Cho đến nay, cùng với báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác, xuất bản là trung tâm của hệ thống giáo dục, tạo lập, phân phối kiến thức và nuôi dưỡng trí tuệ con người. Nếu không có sách và các xuất bản phẩm khác, văn hóa, giáo dục sẽ bị tổn hại và không thể trao truyền kiến thức, kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác. Do đó, xuất bản mang đặc điểm truyền thông và thuộc trung tâm của mạng lưới truyền thông rộng lớn, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin và kinh tế tri thức như hiện nay. - Hoạt động xuất bản mang đặc điểm văn hóa tinh thần Xuất bản, trong đó xuất bản sách là chủ yếu, là một quá trình gồm nhiều khâu nối tiếp nhau như tổ chức đề tài, cộng tác viên, biên tập bản thảo, trình bày, thiết kế, chế bản, in, tuyên truyền và phát hành, trong đó có ba khâu cơ bản là: biên tập, in và phát hành. Mục đích cao nhất của hoạt động xuất bản là đáp ứng yêu cầu văn hóa tinh thần, còn việc tổ chức sản xuất, lưu thông, phát hành là phương thức của hoạt động này. Trong thời kỳ bao cấp trước đây, các nhà xuất bản ở nước ta đều hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, thực hiện việc cấp phát, giao nộp theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, phần lớn xuất bản phẩm được phân phối, lưu thông trên thị trường theo địa chỉ đã định. Về giá cả mua bán là do Nhà nước ấn định. Mọi yếu tố sản xuất của quy trình xuất bản đều do Nhà nước chỉ đạo. Do đó, việc tổ chức sản xuất và quản lý các hoạt động xuất bản được thực hiện theo các cơ 10
  16. quan đơn vị sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước. Bởi thế, nó không hoạt động theo các quy luật kinh tế, mà thuần túy là các cơ quan, đơn vị sự nghiệp làm công tác văn hóa, tư tưởng. Bước sang cơ chế thị trường, hoạt động xuất bản dù phải hạch toán kinh doanh lỗ lãi, nhưng phải thấy rõ bản chất của xuất bản vẫn là hoạt động truyền bá văn hóa, sản phẩm sách thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần. Trong đời sống xã hội, xuất bản là một thiết chế văn hóa, tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng nó phục vụ cho việc phát triển các giá trị chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học. Trong đời sống văn hóa tinh thần, xuất bản không đơn thuần là hoạt động sáng tác, nghiên cứu, mà nó còn thúc đẩy sự sáng tạo, góp phần nâng cao chất lượng các giá trị chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của xã hội. Mặc dù không trực tiếp nghiên cứu, sáng tác, song hoạt động xuất bản là bộ phận thiết yếu của đời sống văn hóa tinh thần, là khâu tiếp nối và nâng cao các hoạt động sáng tạo văn hóa, khoa học, là cầu nối giữa tác giả, tác phẩm và bạn đọc. - Hoạt động xuất bản mang đặc điểm sản xuất hàng hóa Hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các NXB phải tự bươn chải, tự đổi mới hoạt động cho phù hợp với cơ chế mới để tồn tại và phát triển, nên thị trường XB có điều kiện phát triển. Các NXB phải tự hạch toán, chịu cạnh tranh và chịu mọi sự điều tiết về chính sách thuế, về giá trên thị trường. Sản phẩm của xuất bản là hàng hóa. Quá trình tổ chức sản xuất, lưu thông phải được thực hiện theo quy luật của sản xuất hàng hóa, theo quy luật của kinh tế thị trường. Xuất bản là hoạt động vật chất hóa, xã hội hóa các tác phẩm thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần. Để làm được điều đó, hoạt động xuất bản đòi hỏi những chi phí vật chất và tinh thần không nhỏ. Để tồn tại và phát triển, hoạt động xuất bản phải được hạch toán chi tiết từ đầu vào đến đầu ra. Do đó, trong cơ chế thị trường, sản phẩm của hoạt động xuất bản tất yếu phải được trao đổi trên thị trường và trở thành đối tượng của kinh doanh hàng hóa. Sự ra đời của công nghệ điện tử nhân bản, sự trợ giúp của máy tính và gần đây là Internet, đã tác động sâu sắc đến hoạt động xuất bản, làm cho nó trở thành ngành công nghiệp hiện đại, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Như vậy, trong cơ chế thị trường, 11
  17. xuất bản phẩm là hàng hóa, hoạt động xuất bản là hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa. - Hoạt động xuất bản luôn chịu tác động hai chiều của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế Tình hình quốc tế hiện nay biến chuyển nhanh chóng và phức tạp, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật Điều đó cũng có ảnh hưởng và tác động mạnh đến hoạt động XB ở nước ta cả mặt tích cực và tiêu cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, các cơ chế, chính sách còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nên còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi từ thực tế của hoạt động XB. Đúng như Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra: “Quản lý văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, ” [14, tr.169]. Điều đó cũng tác động mạnh đến hoạt động XB đang bị mặt trái của cơ chế này tác động, đang nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực như: khuynh hướng thương mại hóa, lai căng, chạy theo thị hiếu tầm thường, chụp giật bản thảo, sách kém chất lượng trở thành “nạn dịch”, hiện tượng gian lận trong kinh doanh, trốn thuế, bán giấy phép thu phí quản lý mà không quan tâm đến nội dung, đặc biệt là tình trạng in lậu sách có chiều hướng ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước về xuất bản a. Khái niệm về “quản lý nhà nước đối với xuất bản” Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển đều phải nhờ vào sự hỗ trợ của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và chịu một sự quản lý nào đó. Trên thực tế, chưa có một mô hình nào chuẩn xác liên quan đến QLNN đối với XB. Chính vì lẽ đó, để dễ hình dung nội hàm của cụm từ này, chúng ta đi 12
  18. từ khái niệm quản lý. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Theo cách hiểu chung nhất của điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của con người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước. Nói tóm lại: Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến các đối tượng quản lý. Quản lý xuất hiện ở bất kỳ nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó và lúc đó có hoạt động chung của con người. Mục đích, nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của con người, phối hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một hành động thống nhất của tập thể để hướng đến mục tiêu đã định trước. Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy nhằm đảm bảo sự phục tùng và tạo sự thống nhất trong quản lý. Nói đến QLNN đối với XB là nói đến những hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động XB được ổn định và phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, Nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho công dân được thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền về tự do ngôn luận. Nhà nước có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo xuất bản phát triển, đáp ứng các nhu cầu về thông tin của nhân dân, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đấu tranh chống các thế lực thù địch, lợi dụng chính sách tự do ngôn luận để đưa ra các luận điệu sai trái, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” gây mất an ninh chính trị và trật tự trong nước. Qua việc khái quát trên, chúng ta có thể hiểu, QLNN đối với XB là tổng thể những hoạt động của bộ máy nhà nước trên cơ sở những quy định của pháp luật đảm bảo cho XB thực hiện được nhiệm vụ của mình và chịu sự điều chỉnh 13
  19. thống nhất của pháp luật. Cách hiểu này chỉ mang tính tương đối vì nó được xây dựng trên cơ sở khái quát hóa những hoạt động chuyên về lĩnh vực quản lý XB của nhà nước. Tuy nhiên, xét về phương diện điều khiển học có thể được coi là khá hoàn chỉnh khi đã xác định được chủ thể quản lý, khách thể của hoạt động quản lý, đối tượng của hoạt động quản lý. Chủ thể của hoạt động quản lý: nhà nước, mà chủ yếu đó là cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước hay các cá nhân quản lý chuyên ngành về hoạt động XB được nhà nước trao quyền về QLNN đối với XB. Khách thể của việc quản lý: Đó là trật tự quản lý trong quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người. Đối tượng của hoạt động quản lý: Tất cả những tổ chức, cá nhân thực hiện những hoạt động liên quan đến XB. Mục đích của hoạt động quản lý: phát huy mọi nguồn lực tạo ra một cơ chế hợp lý cho hoạt động XB và đảm bảo quyền tự do ngôn luận thông qua xuất bản phẩm của công dân. Hoạt động XB thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thiết yếu đối với đời sống xã hội. Xuất bản không chỉ làm nhiệm vụ thông tin mà còn thực hiện công tác tuyên truyền, làm cho các hoạt động xã hội phát triển theo định hướng của nhà cầm quyền và bình ổn xã hội. Như vậy, XB cũng là hình thức hoạt động cần sự quản lý của nhà nước Trong quá trình thực hiện quản lý, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ quản lý khác nhau. Mỗi công cụ có vai trò, vị trí độc lập tương đối và được sử dụng phù hợp với hoàn cảnh, thời điểm nhất định của hoạt động quản lý. Tuy nhiên, Nhà nước sử dụng pháp luật làm công cụ quản lý hữu hiệu. Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Quyền lực của Nhà nước trong quản lý xã hội đã được ghi nhận bằng pháp 14
  20. luật. Dựa trên cơ sở pháp luật, Nhà nước phát huy quyền lực, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước và mọi công dân. Pháp luật còn quy định nguyên tắc tổ chức, hoạt động, quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan, nhân viên nhà nước, trên cơ sở đó Nhà nước tự hoàn thiện mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” [18]. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng: pháp luật là công cụ quan trọng của QLNN. Quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của pháp luật. Để sử dụng pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, Nhà nước phải xây dựng, ban hành ra pháp luật. Có thể nói, xây dựng pháp luật là khâu đầu tiên của cơ chế QLNN bằng pháp luật. Sau đó, Nhà nước phải tổ chức thực hiện pháp luật, tức là các cơ quan nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật để điều chỉnh các quá trình xã hội, hành vi của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, của công dân nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước đề ra. Và cuối cùng, Nhà nước phải tiến hành các hoạt động bảo vệ pháp luật, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh trong đời sống, nhằm giữ gìn an ninh, trật tự xã hội. QLNN bằng pháp luật được thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Trong mỗi một lĩnh vực quản lý, Nhà nước tác động vào những nhóm quan hệ xã hội cơ bản bằng hệ thống pháp luật tương ứng. QLNN bằng pháp luật về xuất bản được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng: QLNN bằng pháp luật về XB là toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật XB để điều chỉnh hoạt động XB, giữ gìn trật tự, kỷ cương trong hoạt động XB, bảo vệ pháp luật XB, nhằm đạt được các mục tiêu trong hoạt động XB mà Nhà nước đã đề ra. Theo nghĩa hẹp: QLNN bằng pháp luật về XB là hoạt động của Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan quản lý chuyên môn về XB trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật XB (văn bản dưới luật), dựa trên cơ sở pháp luật để quản lý hoạt động XB như: 15