Luận văn Quản lý nhà nước về thư viện từ thực tiễn thư viện quốc gia Việt Nam

pdf 82 trang vuhoa 25/08/2022 9460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý nhà nước về thư viện từ thực tiễn thư viện quốc gia Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_thu_vien_tu_thuc_tien_thu_vien.pdf

Nội dung text: Luận văn Quản lý nhà nước về thư viện từ thực tiễn thư viện quốc gia Việt Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM NGỌC HÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯ VIỆN TỪ THỰC TIỄN THƯ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ THỊ HƯƠNG HÀ NỘI, 2017 HÀ NỘI - năm
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tác giả luận văn Phạm Ngọc Hà
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC 6 VỀ THƯ VIỆN 1.1. Nhận thức chung về thư viện 6 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò quản lý nhà nước về thư viện 9 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thư viện 20 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯ VIỆN TẠI THƯ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM 29 2.1. Giới thiệu chung về Thư viện Quốc gia Việt Nam 29 2.2. Đánh giá Thực trạng quản lý nhà nước về thư viện tại Thư viện Quốc 37 gia Việt Nam 2.3. Những ưu điểm và hạn chế trong quản lý nhà nước về thư viện tại Thư 54 viện quốc gia Việt Nam Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯ VIỆN TỪ THỰC TIỄN THƯ VIỆN QUỐC GIA 59 VIỆT NAM 3.1. Quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về thư viện 59 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thư viện 61 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BVHTT : Bộ Văn hóa – Thông tin BVHTTDL : Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch CSDL : Cơ sở dữ liệu LATS : Luận án tiến sĩ PLTV : Pháp lệnh Thư viện TVQG : Thư viện Quốc gia
  5. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Cơ cấu tổ chức của Thư viện Quốc gia Việt Nam . 27 Bảng 2.2: Công tác thư nhận lưu chiểu từ 2012-2016 46 Bảng 2.3: Số luận án tiến sĩ thu nhận được từ 2012-2016 . 46
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, văn hóa ngày càng trở thành vấn đề toàn cầu, ngày càng thu hút sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới. Hầu hết, các nước đều rất quan tâm đến vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển, coi văn hóa là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước, trong đó có thư viện và các hoạt động của thư viện. Thư viện là một thiết chế quan trọng không thể thiếu trong cấu trúc thống nhất của các thiết chế phục vụ văn hóa, thông tin cho người dân góp phần nâng cao trình độ dân trí, học tập suốt đời và giải trí cho nhân dân. Đánh giá cao vai trò thư viện với tư cách là là cơ quan thông tin, văn hoá, giáo dục quan trọng, trong từng giai đoạn cách mạng khác nhau, Đảng cộng sản Việt Nam đã vạch ra những đường lối chủ trương phù hợp để phát triển sự nghiệp thư viện. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960 đã nhấn mạnh “Cần mở rộng các thư viện hiện có, xây dựng thêm một số thư viện ở các khu công nhân, thị xã và mở rộng phong trào quần chúng đọc sách báo ” [35, tr.7]. Tiếp đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV tháng 12 năm 1976 đã đề ra mục tiêu “Nhà nước cùng với đóng góp của nhân dân sẽ xây dựng những trung tâm văn hoá với thư viện, nhà văn hoá, làm cho việc đọc sách báo trở thành nếp sống hàng ngày”. [35, tr.8] Đặc biệt, từ khi bước vào công cuộc đổi mới đất nước, công tác thư viện lại càng được quan tâm hơn bao giờ hết. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12 năm 1986 nhấn mạnh “phải xây dựng và sử dụng các hệ thống thư viện từ trung ương xuống cơ sở ” [26, tr. 9] Có thể nói, trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử, khi có những thay đổi các điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội cũng như nhiệm vụ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta có những chỉ đạo kịp thời về đường lối phát triển sự nghiệp thư viện của đất nước. 1
  7. Để đáp ứng được yêu cầu thực tiễn khách quan đó, hệ thống thư viện cần phải được tổ chức và hoạt động theo một định hướng xác định, trong đó không thể thiếu vai trò quản lý nhà nước đối với hệ thống thư viện. Thực hiện hoạt động quản lý nhà nước đối với hệ thống thư viện hiệu quả sẽ có ý nghĩa quyết định trong việc cung cấp kiến thức, tri thức khoa học về các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã hội phát triển nguồn nhân lực. Trong những năm qua, cùng với những kết quả đạt được của quá trình đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, công tác quản lý nhà nước về hoạt động của hệ thống thư viện cũng đã bước đầu có những thay đổi đáng kể góp phần nâng cao vai trò và vị trí của hệ thống thư viện đáp ứng nhu cầu con người, tuy nhiên trên thực tế, hoạt động này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần được kịp thời khắc phục và hoàn thiện. Với những lý do trên, tác giả đã tiến hành chọn đề tài “Quản lý nhà nước về thư viện từ thực tiễn Thư viện Quốc gia Việt Nam” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đây là một lĩnh vực tương đối mới. Trong quá khứ cũng như hiện hay chỉ có một số nghiên cứu về lĩnh vực này có thể kể đến như: - Tổ chức và quản lý công tác thông tin – Thư viện (1998), TS Bùi Loan Thùy, Đào Hoàng Thúy, NXB TP Hồ Chí Minh. - Quản lý thư viện và trung tâm thông tin (Giáo trình dùng cho sinh viên ngành Thư viện – Thông tin) (2002), Ths Nguyễn Tiến Hiển, TS Nguyễn Thị Lan Thanh, Trường đại học Văn hóa Hà Nội. - Văn bản pháp quy Việt Nam về Thư viện (Giáo trình dành cho sinh viên đại học và cao đẳng ngành Thư viện – Thông tin) (2007), TS Lê Văn Viết, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội. - Một số định hướng về Chiến lược phát triển thư viện Việt Nam đến năm 2020 (1998), Lê Văn Viết, Tạp san Thư viện số 4/1998. 2
  8. - Công tác lưu chhiểu, thành tựu và bài học (2002), Võ Quang Uẩn, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 11/2002. - Tin học hóa thư viện (2002), Trần Thị Phương Lan, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 11/2002. - Nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc (2008), Đại Lượng – Hữu Nghĩa, Tạp chí Thư viện Việt Nam số 1/2008. Đây là các công trình mang tính chất tham khảo cho sinh viên chuyên ngành Thư viện – thông tin và cũng rất giá trị đối với những người nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa học pháp lý, chuyên ngành Luật Hành chính. Và trên thực tế, nguồn tài liệu tham khảo, các sách khảo cứu chuyên đề về quản lý nhà nước về thư viện không nhiều, những khó khăn khách quan trên là những trở ngại không nhỏ đối với việc nghiên cứu của tác giả. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Mục đích tổng quát của luận văn là xây dựng luận cứ khoa học cho các giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về thư viện ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về thư viện như: phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của quản lý nhà nước về thư viện; những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thư viện. - Mô tả và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thư viện tại TVQG, xác định các ưu điểm và hạn chế, các nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế trong quản lý nhà nước về thư viện. Trên cơ sở đó, phát hiện nhu cầu đổi mới quản lý nhà nước về TVQG nói riêng và thư viện trên cả nước nói chung. 3
  9. - Xác định các quan điểm, đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về thư viện từ thực tiễn TVQG nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung vào công tác quản lý nhà nước về thư viện từ thực tiễn TVQG Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu Đề tài thực hiện nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về thư viện nói chung trên cơ sở tìm hiểu tổng quát quy định về quản lý nhà nước về thư viện. Đồng thời, tìm hiểu thực tế việc tình hình thực hiện quản lý nhà nước đối với thư viện từ thực tiễn TVQG Việt Nam 5 năm gần đây, từ năm 2012 đến hết năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta về chính sách phát triển thư viện và quản lý nhà nước về hoạt động thư viện. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Với mục đích tìm kiếm, khảo sát những thông tin xác thực, toàn diện và khoa học, trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp để phân tích và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. Các phương pháp trên được sử dụng cụ thể trong luận văn như sau: - Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để giải quyết những vấn đề mang tính lý luận: phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung quản lý nhà nước về thư viện cũng như đánh giá thực quản lý nhà nước về thư viện tại TVQG. - Phương pháp thống kê được sử dụng để thống kê số lượng nhân sự, các hoạt động của TVQG. 4
  10. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần làm rõ hơn căn cứ lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về hoạt động thư viện. Đề xuất và đưa ra những quan điểm, giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về hoạt động thư viện. - Những kết luận và những giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển thư viện và tăng cường quản lý nhà nước về thư viện ở Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được chia thành ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về thư viện Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thư viện tại Thư viện Quốc gia Việt Nam Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thư viện từ thực tiễn Thư viện Quốc gia Việt Nam 5
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯ VIỆN 1.1. Nhận thức chung về thư viện 1.1.1. Khái niệm thư viện Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế giới như hiện nay, hoạt động thông tin nói chung và thư viện nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Thư viện đang thực sự có những bước đột biến, đi vào chiều sâu về cả lượng và chất, các thư viện nói chung đóng vai trò hết sức quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, và xã hội. Theo các nhà nghiên cứu, thư viện là một mặt của đời sống xã hội, từ khi ra đời đến nay đã tồn tại song hành cùng quá trình phát triển của loài người. Thư viện đã góp phần giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống cách mạng, góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, phong phú và đa dạng về đời sống tinh thần của nhân dân. Do vậy, việc nhận thức vai trò của thư viện là một vấn đề bức thiết trong mọi thời đại, mọi hình thái nhà nước. Trong quá khứ cũng như hiện tại, có nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra những khái niệm khác nhau về thư viện dưới những góc độ khác nhau.1 Luật Liên bang Nga về sự nghiệp thư viện được Đuma Quốc gia thông qua ngày 23 tháng 11 năm 1994 đưa ra định nghĩa sau về thư viện: “Thư viện – là cơ quan thông tin, văn hóa, giáo dục có vốn tài liệu nhân bản được tổ chức và được đưa ra cho các pháp nhân, cá nhân sử dụng có thời hạn; Thư viện có thể là cơ quan độc lập hoặc là bộ phận cấu thành của xí nghiệp, cơ quan, tổ chức”. Theo định nghĩa này, thư viện là một cơ quan, một thiết chế xã hội. Theo UNESCO Thư viện, không phụ thuộc vào tên gọi của nó, là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào của sách, ấn phẩm định kì hoặc các tài liệu khác, kể cả đồ họa, nghe - nhìn, 6
  12. nhân viên thư viện có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng tài liệu đó nhằm mục đích thông tin, nghiên cứu khoa học, giáo dục và giải trí. Do đó, các thư viện hiện đại ngày càng trở thành nơi để truy cập thông tin vô hạn chế bằng nhiều định dạng và từ nhiều nguồn gốc. Gần đây hơn, các thư viện không còn chỉ là kiến trúc, họ cũng hỗ trợ tìm kiếm và phân tích rất nhiều kiến thức, dùng đủ loại thứ công cụ điện tử. Đối với Việt Nam, đến thời điểm hiện tại, văn bản cao nhất về quản lý nhà nước là PLTV. Tại điều 1 PLTV của nước ta, thư viện được định nghĩa như sau: “Thư viện có chức năng, nhiệm vụ giữ gìn di sản thư tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớp của nhân dân; góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hoá, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [43]. Định nghĩa này khẳng định rõ những chức năng và công dụng xã hội của thư viện. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học: “Thư viện là nơi lưu giữ sách báo, tài liệu và tổ chức cho bạn đọc sử dụng”. Đầy đủ hơn trong Từ điển tiếng Việt do Trung tâm từ điển ngôn ngữ xuất bản, thư viện đã được định nghĩa là “nơi tàng trữ, giữ gìn sách báo, tài liệu và tổ chức cho bạn đọc sử dụng”. Theo Từ điển về Thư viện và Thông tin của Trung Quốc: “Thư viện là một cơ cấu văn hoá, khoa học và giáo dục thông qua việc sưu tập, xử lý, tàng trữ và sử dụng tài liệu phục vụ cho một độc giả xã hội nhất định”. Theo O.S. Trubarian, nhà thư viện học Xô viết: “Thư viện là cơ quan văn hoá, giáo dục và khoa học hỗ trợ tổ chức việc sử dụng rộng rãi các sách báo”. Trong cuốn Từ điển giải nghĩa thư viện học Anh Việt của Hội Thư viện Hoa Kỳ: “Thư viện là một sưu tập những tài liệu đã được tổ chức để đáp ứng nhu cầu của một nhóm người mà thư viện có bổn phận phục vụ để cho họ có thể sử dụng cơ sở của thư viện, truy dụng thư tịch, cũng như trau dồi kiến thức của họ”. 7
  13. Theo Bách khoa toàn thư Anh: “Ý nghĩa của thư viện là ở chỗ nhiều sách được tập hợp lại phục vụ cho việc sử dụng, tra cứu và nghiên cứu”. Theo Tiêu chuẩn Việt Nam 5453-1991, thư viện được xác định là: “Cơ quan (hoặc một bộ phận của cơ quan) thực hiện chức năng thu thập, xử lý, bảo quản tài liệu và phục vụ bạn đọc, đồng thồi tiến hành tuyên truyền giới thiệu các tài liệu đó”. [45] 1.1.2. Vai trò của thư viện trong xã hội Thứ nhất, thư viện là kho tàng tri thức và các giá trị văn hóa của nhân loại. Vốn tài liệu của thư viện có giá trị văn hóa to lớn. Thư viện lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn hóa của loài người, là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa, là tài sản quý giá của một quốc gia, nhờ thư viện, tri thức được truyền bá từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Góp phần làm tăng giá trị văn hóa và tạo nên niềm tự hào cho dân tộc. Thứ hai, thư viện là trung tâm truyền bá sách báo rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Với chức năng văn hóa-giáo dục, thông tin và giải trí, cùng với các trường học thư viện đã góp phần to lớp vào việc mở mang giao tiếp xã hội, nâng cao trình độ dân trí, nâng cao đời sống tinh thần con người. Thứ ba, thư viện giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có tri thức cho đất nước. Ở các nước trên thế giới, thư viện được coi là bộ nhớ về lịch sử văn hóa lưu giữ tri thức cho các thế hệ mai sau. Thư viện được coi là cơ sở vật chất cho việc giáo dục con người phát triển toàn diện, tự giáo dục đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn. Là cơ sở cho việc học tập không ngừng tạo nên một “xã hội học tập” Thứ tư, thư viện góp phần đắc lực phát triển sản xuất, phát triển các ngành kinh tế quốc dân, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, thúc đẩy tiến bộ xã hội. 8
  14. Để xã hội phát triển phải đưa tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất và nâng cao trình độ văn hóa khoa học – kỹ thuật cho đông đảo nhân dân; hoạt động tích cực của các thư viện trong việc tuyên truyền các thành tựu khoa học – kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm tiên tiến ở trong nước và nước ngoài, phổ biến kiến thức khoa học thường thức có tác dụng tích cực trong việc phát triển sản xuất và cải tiến các quá trình sản xuất trong thực tiễn. Thứ năm, thư viện là trung tâm thông tin, tạo điều kiện cho người sử dụng tiếp cận nhanh chóng tới tri thức và thông tin ở tất cả các dạng thức. Internet và các phương tiện truyền thông mới hiện đại như truyền hình ảnh (videotex), thư điện tử (email), hội nghị, hội thảo từ xa, truyền hình cáp (cabtelevision), truyền hình phân giải, truyền hình vệ tinh đã tác động mạnh mẽ đến công tác thư viện không chỉ là nơi lưu giữ và tổ chức, sử dụng tài liệu mà thật sự trở thành trung tâm thông tin mới đúng nghĩa của nó, cung cấp tri thức và các loại thông tin. [37] 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của quản lý nhà nước về thư viện 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về thư viện Khi xã hội loài người xuất hiện, nhu cầu tổ chức điều hành xã hội cũng hình thành như một yếu tố tất yếu lịch sử. Trong lịch sử, trình độ tính chất quản lý xã hội phát triển từ thấp tới cao theo sự tiến bộ xã hội - xã hội được quản lý tốt bằng cơ chế, biện pháp tiến bộ thì ổn định không ngừng phát triển và ngược lại. Theo C.Mác thì quản lý (quản lý xã hội) là chức năng đặc biệt được sinh ra từ tính chất xã hội hóa lao động, nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua quản lý. Quản lý được quan niệm theo 2 góc độ. Theo góc độ chính trị - xã hội rộng lớn thì quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa tri thức với lao động - vận hành. Sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý hợp lý. Theo góc độ hành động, quản lý được hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều hành. Quản lý được dùng rộng rãi cho quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà nước, quản lý trong lĩnh vực cụ thể, sản xuất kinh doanh, 9
  15. văn hóa - xã hội, khoa học kỹ thuật Như vậy quản lý là một yếu tố hết sức quan trọng không thể thiếu trong đời sống xã hội. Quản lý đúng dẫn đến thành công, tồn tại, ổn định và phát triển bền vững, còn quản lý sai dẫn đến thất bại, suy thoái, lệ thuộc biến chất và đổ vỡ. Quản lý Nhà nước hay còn gọi là quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước. Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật của nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Nhà nước quản lý bằng pháp luật, quyền lực nhà nước mang tính mệnh lệnh, đơn phương và tính tổ chức cao. Hoạt động thư viện là một bộ phận cấu thành của xã hội nên được đặt dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước; chủ động dựa vào nội lực là chính, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của các loại hình thư viện trong mối liên kết chặt chẽ, thúc đẩy nhau cùng phát triển nhanh chóng và hướng mọi hoạt động thư viện vào phục vụ những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước. Quản lý nhà nước về thư viện là sự tác động có chủ đích, có định hướng của Đảng và nhà nước đối với toàn bộ hoạt động liên quan đến công tác thư viện bằng quyền lực của nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính trên tất cả các mặt hoạt động của công tác thư viện, nhằm đảm bảo sự tăng cường các chức năng tư tưởng, thông tin khoa học, văn hóa, giáo dục và công tác thư viện, đảm bảo sự tăng cường liên tục các mục tiêu của nhà nước và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tài liệu trong xã hội. 1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về thư viện Một là, nhà nước là người tổ chức và quản lý các hoạt động thư viện. Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường, sự phát triển kinh tế - xã hội có tính phức tạp, năng động, hoạt động thư viện đòi hỏi phải có một chủ thể có tiềm lực về mọi mặt để đứng ra tổ chức và điều hành, chủ thể ấy không ai khác chính là nhà nước – vừa là người quản lý, vừa là người tổ chức hoạt động du lịch. Để hoàn thành 10
  16. sứ mệnh của mình, nhà nước phải đề ra pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, và sử dụng các công cụ này để tổ chức và quản lý hoạt động thư viện. Hai là, hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thư viện là cơ sở, là những công cụ để nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động thư viện. Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động quan hệ kinh tế nói chung, hoạt động thư viện nói riêng diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng về chủ thể, về hình thức tổ chức và quy mô hoạt động. Dù phức tạp thế nào đi chăng nữa, sự quản lý của nhà nước cũng phải đảm bảo cho hoạt động thư viện có tính tổ chức cao, ổn định, công bằng và có tính định hướng rõ rệt. Do đó, nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật mang tính chuẩn mực và dùng các công cụ này và sử dụng chúng như một công cụ hữu hiệu nhất để quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội cũng như các hoạt động thư viện. Ba là, quản lý nhà nước đối với hoạt động thư viện đòi hỏi phải có một bộ máy nhà nước mạnh, có hiệu lực, hiệu quả và một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có trình độ, năng lực thật sự. Quản lý nhà nước đối với hoạt động thư viện phải tạo được những cân đối chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động thư viện phát triển. Và để thực hiện tốt điều này thì tổ chức bộ máy và đội ngũ quản lý nhà nước không thể khác hơn là phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả từ trung ương đến địa phương. 1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về thư viện Ở nước ta, Nhà nước luôn thể hiện vai trò trong việc quản lý thư viện. Quản lý nhà nước về thư viện cũng như bất kỳ một dạng quản lý xã hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy Nhà nước – là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động thư viện do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội. 11
  17. Thư viện là một thiết chế quan trọng của ngành văn hóa thông tin, nhằm phục vụ nhu cầu tinh thần của người dân. Chúng ta đang xây dựng một nhà nước pháp quyền, trong đó mọi quan hệ về quyền và nghĩa vụ của công dân được bảo đảm và điều tiết bằng pháp luật, với tư cách là một bộ phân cấu thành trong lực lượng sản xuất, tổ chức và hoạt động của các thư viện tất yếu chịu sự chỉ đạo của hệ thống pháp chế ấy. Vì thế, biểu hiện tập trung ở sự thể chế hóa những chủ trương, chính sách lớn bằng pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sự nghiệp thư viện, trên cơ sở hệ thống luật và các văn bản dưới luật là nội dung quan trọng của quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Căn cứ theo PLTV số 31/2000/PL-UBTVQH10 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 28 tháng 12 năm 2000, nội dung quản lý nhà nước về thư viện bao gồm: Thứ nhất, ban hành văn bản quản lý nhà nước về thư viện Văn bản quản lý là phương tiện để xác định và vận dụng các chuẩn mực pháp lý vào quá trình quản lý nhà nước. “Công tác xây dựng văn bản quản lý là một trong những biểu hiện quan trọng của hoạt động này. Văn bản quản lý luôn phản ánh những nét chung của quá trình quản lý Nhà nước, phản ánh đặc điểm pháp lý của quá trình đó”. [33, tr.44] Để thể chế hoá những quy định của pháp luật về công tác văn hoá nói chung và ngành thư viện nói riêng, các cơ quan trong hệ thống hành pháp và quản lý hành chính các bộ đã ban hành các văn bản dưới luật thuộc phạm trù pháp quy về công tác thư viện làm cho nghị quyết của Đảng và những điều quy định của hiến pháp có tính khả thi và thâm nhập vào đời sống xã hội. Việc xây dựng các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động thư viện cần được chuẩn bị, điều tra nghiên cứu trên cơ sở khoa học, thực tiễn, đi đúng đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng, nhà nước. Việc tham khảo kinh nghiệm của các đồng nghiệp trong khu vực, thế giới cũng cần được chú ý. Đồng thời các văn bản pháp luật này phải tạo thành một hệ thống đồng bộ, tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự nghiệp thư viện đất nước phát triển nhanh chóng. 12
  18. Khi ban hành hệ thống các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của thư viện, một điều hết sức quan trọng là chỉ đạo, thực hiện các văn bản pháp luật đó, để thực sự có hiệu quả và sớm đi vào cuộc sống, làm đòn bẩy cho hoạt động thư viện phát triển. Pháp luật thư viện ở nước ta là phương tiện thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực thư viện, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật thư viện quy định các điều kiện vật chất, tinh thần, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước trong việc hướng dẫn, giúp đỡ, tổ chức cho nhân dân thực hiện quyền, nghĩa vụ, bổn phận của công dân trong hoạt động thư viện. Pháp luật còn quy định những biện pháp nhằm ngăn chặn, trừng trị những hành vi xâm phạm đến quyền của công dân được sử dụng thư viện, vốn tài liệu, các dịch vụ của thư viện. Thực hiện Nghị quyết Trung ương V về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, để tăng cường sự quản lý nhà nước, đảm bảo cho sự nghiệp thư viện Việt Nam phát triển theo đúng định hướng của Đảng, phù hợp với xu thế chung của thế giới, đặc biệt để các thư viện đáp ứng tốt nhất các yêu cầu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước, nhà nước ta đã ban hành PLTV. Đến thời điểm hiện tại, PLTV là văn bản pháp lý cao nhất đối với hoạt động thư viện, được Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X thông qua ngày 28 tháng 12 năm 2000 và có hiệu lực từ 01 tháng 04 năm 2001 mang ý nghĩa to lớn đối với ngành thư viện Việt Nam. PLTV đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng, giúp các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp, các ngành ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn và cụ thể hóa những nội dung quy định trong PLTV, từ đó thúc đẩy sự phát triển của thư viện Việt Nam và tạo niềm tin, động lực cho những người làm công tác thư viện. Đồng thời PLTV đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan trung ương và địa phương có liên quan đầu tư, tạo điều kiện hơn nữa cho sự nghiệp thư viện. PLTV ban hành nhằm xác lập những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của thư viện Việt Nam; xác định quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong 13
  19. hoạt động thư viện, nhiệm vụ và quyền hạn của thư viện, của người làm công tác thư viện; trách nhiệm của nhà nước trong lĩnh vực thư viện, đảm bảo cho sự phát triển thư viện Việt Nam phát triển đáp ứng giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. Có thể nói việc PLTV được ban hành là một sự kiện quan trọng đối với những người làm công tác thư viện Việt Nam vì lần đầu tiên, họ có một văn bản pháp lý chính chức cho hoạt động. Thứ hai, tổ chức thực hiện văn bản quản lý nhà nước về thư viện Xây dựng, chỉ đạo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các loại hình thư viện là vấn đề cơ bản trong công tác quản lý nhà nước của ngành thư viện. Trong vai trò quản lý vĩ mô phát triển sự nghiệp thư viện, cần phân định những phương hướng ưu tiên của quốc gia trong từng thời kỳ xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển sự nghiệp thư viện, xem đó là căn cứ và nội dung hợp thành, gắn bó hữu cơ trong kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Kế hoạch phát triển sự nghiệp thư viện phải dựa vào Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước trong thời kỳ cụ thể, phải xây dựng kế hoạch chiến lược cho giai đoạn dài và kế hoạch ngắn hạn. Kế hoạch, quy hoạch phát triển sự nghiệp thư viện phải được thấm nhuần, xuyên suốt trong từng bộ phận hợp thành của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Các kế hoạch và định hướng lớn này được cụ thể hoá trong chương trình, mục tiêu văn hoá trọng điểm. Đào tạo, bồi duỡng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm công tác thư viện cũng là một trong những biểu hiện nhà nước lãnh đạo sự nghiệp thư viện ở nước ta. Mọi hoạt động thông tin thư viện đều gắn liền với người cán bộ thư viện. N.c. Crupxcaia đã từng chỉ rõ: “Cán bộ Thư viện chính là linh hồn của công tác Thư viện” [44, tr.20, 21]. Do đó, đánh giá chất lượng của hoạt động thông tin Thư viện thực chất là đánh giá trình độ tay nghề, khả năng thích ứng của người cán bộ thông tin thư viện trong việc phát huy hiệu quả sử dụng thư viện trong xã hội. 14
  20. Quần chúng lao động ngày càng tìm đến vốn tài liệu phong phú của thư viện, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ thư viện giỏi tay nghề để giúp đỡ họ lựa chọn tài liệu, hướng dẫn đọc. Kinh nghiệm các nước tiên tiến cho thấy, mặc dù thư viện ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thư viện rất hiệu quả nhưng không thể thay thế được vai trò chủ đạo của cán bộ thư viện. Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến cuộc cách mạng thông tin đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Nó đang trực tiếp làm thay đổi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội của các nước trên thế giới, đưa loài người chuyển sang một xã hội mới - xã hội thông tin, một xã hội dựa trên việc sản xuất, phổ biến, truy nhập và sử dụng thông tin một cách rộng rãi. Trong bối cảnh đó, hoạt động thông tin - thư viện đứng trước một thách thức lớn: Làm thế nào để đáp ứng được nhu cầu thông tin ngày càng cao của xã hội?; Sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và kỹ thuật viễn thông đang tác động mạnh mẽ hoạt động Thông tin - Thư viện, nơi có nhiều ưu thế và thuận lợi trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý, lưu giữ, phổ biến rộng rãi thông tin tài liệu sách báo. Trong điều kiện hiện nay, việc trang bị vốn ngoại ngữ cần thiết cho đội ngũ cán bộ thư viện phải được ưu tiên giải quyết và phải có bước đi vững chắc, cụ thể. Cần có chế độ khuyến khích tinh thần vật chất cho những người có trình độ ngoại ngữ khá, sử dụng có hiệu quả trong công tác. Do đó trong nội dung quản lý nhà nước, ngành thư viện phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ cho những người làm công tác thư viện nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác Thông tin - Thư viện hiện nay. Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, thư viện – cơ quan văn hóa giáo dục và thông tin khoa học ngày càng chiếm vị trí quan trọng. Vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động thông tin – thư viện là mối quan tâm hàng đầu của những người làm công tác thư viện Việt Nam. Bởi vậy tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ trong lĩnh vực thư viện là một trong những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về thư viện; phải xác định những phương hướng, đề tài 15