Luận văn Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp từ thực tiễn tại các tỉnh miền núi phía bắc

pdf 87 trang vuhoa 25/08/2022 7220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp từ thực tiễn tại các tỉnh miền núi phía bắc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_ly_lich_tu_phap_tu_thuc_tien_ta.pdf

Nội dung text: Luận văn Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp từ thực tiễn tại các tỉnh miền núi phía bắc

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ HƯƠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN THUẬN HÀ NỘI, 2017
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp từ thực tiễn tại các tỉnh miền núi phía Bắc” là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực, được trích dẫn từ các nguồn công khai, hợp pháp, không sao chép từ bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Thị Hương
  3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Số thứ tự Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ Gross Domestic Product 1 GDP Tổng sản phẩm quốc nội 2 HĐND Hội đồng nhân dân 3 LLTP Lý lịch tư pháp 4 NĐ – CP Nghị định của Chính phủ 5 STP Sở Tư pháp Thông tư liên tịch Bộ Tư pháp - TTLT - BTP - TANDTC - Tòa án nhân dân Tối cao - 6 VKSNDTC - BCA - BQP Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng Thông tư liên tịch Bộ Tư pháp - 7 TTLT-BTP-BCA Bộ Công an 8 UBND Ủy ban nhân dân
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 7 1.2. Nội dung, hình thức và phương pháp quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 17 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 27 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC 32 2.1. Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp trong điều kiện các tỉnh miền núi phía Bắc 32 2.2. Các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 34 2.3. Thực tiễn quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại các tỉnh miền núi phía Bắc 39 2.4. Đánh giá chung quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại các tỉnh miền núi phía Bắc 45 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC 59 3.1. Quan điểm quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 59 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 62 KẾT LUẬN 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72 PHỤ LỤC 76
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện chính sách tái hòa nhập cộng đồng của người phạm tội sau khi đã chấp hành xong bản án, theo đó, những người phạm tội sau khi đã chấp hành xong bản án được xã hội tạo điều kiện để tái hòa nhập cộng đồng trên cơ sở tôn trọng quyền con người. Pháp luật của nhiều nước và ở nước ta đều có quy định về vấn đề xóa án tích sau khi người phạm tội đã chấp hành xong hình phạt và đã qua thời gian thử thách theo quy định của pháp luật. Lý lịch tư pháp được xem như một yếu tố đảm bảo không có sự phân biệt đối xử đối với người phạm tội sau khi đã chấp hành xong bản án, điều này được thể hiện ở chỗ người đã từng bị kết án khi đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích hoặc đã được tòa án quyết định xóa án tích, thì được coi như chưa bị kết án. Trước yêu cầu nâng cao cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới. Để đáp ứng những yêu cầu đó, Luật Lý lịch tư pháp đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/06/2009, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2010, đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho vị thế của Lý lịch tư pháp. Cùng với đó, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 338/QĐ-Ttg ngày 19/02/2013 phê duyệt “Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030”.Việc ban hành Luật Lý lịch tư pháp đã góp phần thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Bên cạnh đó, Luật Lý lịch tư pháp cũng đặt ra những 1
  6. nhiệm vụ mới, phức tạp và khó khăn trong quản lý nhà nước. Việc thực hiện triển khai nhiệm vụ này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an, Quốc phòng, Tư pháp trong việc phối hợp tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp, phục vụ công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và cấp Phiếu Lý lịch tư pháp. Khu vực miền núi phía Bắc bao gồm 10 tỉnh (Bắc Kạn, Cao Bằng, Điện Biên, Hà Giang, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Sơn La, Tuyên Quang, Yên Bái) là nơi ít dân cư, chủ yếu là dân tộc thiểu số, chủ yếu giáp với biên giới Trung Quốc và Lào. Nhìn chung điều kiện kinh tế và trình độ dân trí ở khu vực này chưa cao nên việc truyền tải pháp luật đến cộng đồng dân cư gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Trong những năm gần đây với chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, đời sống ở các vùng miền núi phía Bắc. Do đó sẽ thúc đẩy tình trạng di dân để làm việc và sinh sống đến các khu vực này rất nhiều. Cũng trong khoảng thời gian gần đây nhu cầu Cấp phiếu Lý lịch tư pháp tại khu vực này có xu hướng tăng nhiều nhằm phục vụ những nhu cầu cá nhân như xuất khẩu lao động, xuất cảnh định cư, xin việc làm, cấp chứng chỉ hành nghề Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề còn tồn tại như kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế, trong công tác phối hợp liên ngành, công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, công tác Cấp phiếu Lý lịch tư pháp. Qua quá trình nghiên cứu và thực tiễn công tác, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp từ thực tiễn tại các tỉnh miền núi phía Bắc” cho luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp đóng vai trò và vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp quản lý nhà nước nói chung và về Lý lịch tư pháp nói riêng. Trong thời gian qua có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lý lịch tư pháp và việc thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp đã được công bố như sau: 2
  7. Trần Thất (năm 1996), Một số suy nghĩ bước đầu về quản lý Lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3, 4; Nguyễn Ngọc Anh (năm 2005), Lý lịch tư pháp, bí mật đời tư về tình trạng tiền án của cá nhân, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 6; Nguyễn Minh Phương (2008), Pháp luật về Lý lịch tư pháp của một số nước trên thế giới, Tạp chí nghiên cứu lập pháp; Đỗ Thị Thúy Lan (năm 2011), Thực hiện pháp luật về Lý lịch tư pháp ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học; Chủ biên Đặng Thanh Sơn (năm 2011), Một số nội dung cơ bản về Lý lịch tư pháp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; Chủ biên Đặng Thanh Sơn (năm 2012), Cẩm nang nghiệp vụ về Lý lịch tư pháp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; PGS.TS. Hà Hùng Cường (năm 2012), Nhìn lại thực tiễn hai năm thi hành Luật Lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật; Nguyễn Thị Thu Hằng (năm 2012), Phiếu lý lịch tư pháp và vấn đề quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Dân chủ và pháp luật; Đỗ Thị Thúy Lan (năm 2014), Thực tiễn công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật; Nguyễn Thị Minh Phương ( năm 2014), Thực tiễn công tác phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật; Nguyễn Thị Ngọc ( năm 2014), Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học; Nguyễn Thị Phương Anh ( năm 2015), Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp từ thực tiễn thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ luật học; Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đã phần nào khái quát chung nhất về Lý lịch tư pháp ở nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể đối với quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp từ thực tiễn tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Vì vậy, qua quá trình nghiên cứu, 3
  8. tham khảo, tác giả chọn đề tài luận văn thạc sĩ của mình là: “Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp từ thực tiễn tại các tỉnh miền núi phía Bắc”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích lý luận, ý nghĩa và vai trò của quản lý nhà nước đối với lý lịch tư pháp, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng. Qua đó, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn về quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp. - Phân tích, đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp trong khu vực miền núi phía Bắc. Qua đó tìm ra được những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng và quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp của cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tập trung nghiên cứu nội dung và phương pháp quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp và thực tiễn thực hiện quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp từ thực tiễn tại các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề cơ bản nhất về quản lý nhà nước đối với Lý lịch tư pháp, Luận văn không bao gồm quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp trên toàn quốc mà chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng về quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp từ thực tiễn tại các tỉnh miền núi phía Bắc; Cụ thể trong phạm vi về mặt không gian là 10 tỉnh: Bắc Kạn, Cao Bằng, Điện Biên, Hà Giang, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Sơn La, Tuyên Quang, Yên Bái; phạm vi 4
  9. về mặt thời gian: được tính từ khi luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực (01/07/2010) đến 31/12/2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về tuyên truyền, giáo dục thực hiện pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, như phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê nhằm thống kê số liệu trên thực tiễn về Lý lịch tư pháp làm cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, kết luận, kiến nghị hoàn thiện quy định quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp; Phương pháp so sánh nhằm đối chiếu, so sánh với một số tỉnh tiêu biểu của toàn quốc nhằm tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần hệ thống hóa các khái niệm, đặc điểm, đảm bảo thực hiện đối với lĩnh vực quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp. Luận văn có thể làm tài liệu cho những người quan tâm nghiên cứu về Lý lịch tư pháp. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp không chỉ trong khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc mà còn của cả nước nói chung. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 5
  10. Chương 1: Những vấn đề lý luận của Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp từ thực tiễn các tỉnh miền núi phía Bắc. 6
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 1.1.1.1. Khái niệm Lý lịch tư pháp Về mặt khái niệm thì thuật ngữ "Lý lịch tư pháp" không phải được sử dụng một cách giống nhau ở các nước khác nhau. Nhưng có thể nói rằng trong các thuật ngữ khác nhau theo cách gọi của mỗi nước đều hàm chứa những nội dung tương tự. Ở các nước Phương Tây, trong tiếng Anh, thuật ngữ Lý lịch tư pháp là "Criminal records", tiếng Pháp có từ "casier judiciaire". Các thuật ngữ này đều là ghi nhận thông tin về các chế tài, hình phạt mà cơ quan có thẩm quyền của nhà nước đã tuyên đối với một cá nhân mà nội dung chủ yếu là những thông tin liên quan đến bản án hình sự. Trong tiếng Pháp, là cụm từ ghép giữa từ “casier và judiciaire” trong đó từ "casier" có nghĩa là cái tủ hoặc cái giá nhiều ngăn, có thấy tính chất của công tác này là sắp xếp, phân bổ, phân chia theo thứ tự khác nhau. Như vậy, theo cách gọi của tiếng Pháp từ "Casier judiciaire" gợi cho ta hình dung về những ngăn tủ có chứa đựng những hồ sơ (những tập Fiche) về tư pháp. Nói một cách hình ảnh đó là nơi lưu trữ về án tích của những người đã can án. Tại Bỉ, Lý lịch tư pháp được hiểu là một hệ thống xử lý tự động, có nhiệm vụ đảm bảo việc đăng ký, lưu trữ và thay đổi các dữ liệu liên quan đến các bản án, quyết định trong lĩnh vực hình sự và quốc phòng. Trong khi đó ở Đức, Lý lịch tư pháp được hiểu là việc đăng ký, lưu trữ, xử lý các thông tin về bản án hình sự của toà án, thông tin liên quan đến quyết định của cơ quan hành chính và toà án về vi phạm trong công nghiệp và thương mại, các quyết định của cơ quan công tố hình sự về việc truy tố đang thực hiện đối với một người nào đó [21, tr.13]. 7
  12. Thời Trung cổ, luật hình của nhiều nước đã quy định việc ghi nhớ án tích bằng cách thích chữ vào mặt (điển hình là trường hợp của Lâm Xung, Địch Thanh thời nhà Tống-Trung Quốc), hoặc chặt các ngón tay, ngón chân hoặc cắt tai của kẻ phạm tội (cũng giống như một số hoạt động của giang hồ, xã hội đen) hay ở nước Pháp thì có hình thức thích dấu hoa huệ vào vai (như trường hợp của Milady trong tiểu thuyết Ba người lính ngự lâm), hoặc một số người bị phạm tội phải trở thành nô lệ thì cũng bị thích, xăm lên mình những con dấu nô lệ (đánh dấu) nói chung là tùy theo từng loại tội mà thực hiện việc lưu trữ trên. Theo quy định của pháp luật Phong kiến ở một số nước như Trung Quốc, Việt Nam , hình thức thích chữ vào mặt thường được áp dụng đối với tội đại hình với hình phạt lưu đày [21, tr.4]. Còn hình thức chặt ngón tay, ngón chân thường được áp dụng đối với loại tội như tội trộm cắp. Hình phạt này vừa có ý nghĩa là hình phạt vừa có ý nghĩa là để ghi nhớ án tích của kẻ phạm tội. Ở Việt Nam, từ thời Pháp thuộc, dân chúng đã biết đến "Tư pháp lý lịch" Qua đạo luật ngày 5-8-1899 "về Tư pháp lý lịch và phục quyền ". Sau đó, Tư pháp lý lịch đã được quy định khá đầy đủ và chi tiết trong dụ số 14 do Quốc trưởng Bảo Đại ký ngày 1-9-1951. Đây có thể được coi là đạo luật thành văn đầu tiên của Việt Nam về Lý lịch tư pháp thay thế cho hình thức ghi nhớ hình phạt như trên của thời trung cổ. Lý lịch tư pháp thành văn phổ biến nhất, đó là hình thức Sổ bộ ghi chép các bản án mà Toà án đã tuyên hàng năm. Căn cứ vào Sổ bộ của Toà án, người ta có thể truy tìm được án tích của một người nào đó. Tuy nhiên, hình thức sổ bộ vẫn còn những điểm hạn chế: Thứ nhất, Sổ bộ là cuốn sổ chung trong đó ghi chép án tích của nhiều người chứ không phải của riêng mỗi người. Hơn nữa, sổ bộ lại thay đổi theo từng năm (thường mỗi năm lại thay sổ mới). Vì vậy, khi muốn tra cứu án tích một người nào đó ta phải lần tìm trong tất cả những quyển sổ bộ xem có án tích của người đó hay không. Điều này lại càng phức tạp, khó khăn hơn khi đương sự thay đổi chỗ ở dẫn tới thay đổi toà án có thẩm quyên xét xử. Tóm lại, trong trường hợp này, muốn không bỏ 8
  13. sót án tích của một người thì phải tra cứu, tổng hợp có khi đến hàng trăm quyển Sổ bộ; Thứ hai, Sổ bộ thường chỉ ghi được những thông tin ban đầu (tức là những bản án và những quyết định ban đầu của Toà án) mà không có những thông tin bổ sung như: các quyết định về ân xá, xoá án tích, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án Nói cách khác, những thông tin trong sổ bộ không phản ánh được diễn biến của can phạm trong quá trình thi hành bản án. Mặt khác, thông tin về tiền án không phải chỉ cần cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm mà các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội cũng rất cần biết ở những mức độ khác nhau để hỗ trợ công tác nhân sự của cơ quan mình [21, tr.10]. Khắc phục những nhược điểm nói trên của hình thức Sổ bộ là sự ra đời của Luật Lý lịch tư pháp. Luật Lý lịch tư pháp đã được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/6/2009 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Tại Khoản 1 Điều 2 Luật lý lịch tư pháp 2009 quy định: “Lý lịch tư pháp là lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản”. Luật Lý lịch tư pháp là đạo luật quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền của công dân và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt Luật đã xác lập những nguyên tắc, nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, tạo cơ sở pháp lý có hiệu lực cao để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp ngày càng tăng của công dân, bảo đảm phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế. Hình thức của Lý lịch tư pháp được thể hiện qua Phiếu Lý lịch tư pháp, đó là một loại phiếu do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp và có giá trị chứng minh có hay không có án tích, bị cấm hay không bị cấm thực hiện các công việc hay đảm nhiệm một chức vụ, quyền hạn liên quan đến hoạt động 9
  14. kinh doanh do quyết định tuyên bố phá sản của tòa án. 1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp Khái niệm “quản lý” được hiểu là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan. Quản lý nhà nước là sự chỉ huy, điều hành xã hội của các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) để thực thi quyền lực nhà nước thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của công dân do các cơ quan trong hệ thống hành chính từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, duy trì trật tự an ninh, thoả mãn nhu cầu hằng ngày của người dân [19, tr.6]. Với cách tiếp cận đó, “Quản lý lý lịch tư pháp” là sự tác động có ý thức của các chủ thể được giao nhiệm vụ quản lý lý lịch tư pháp (mang tính quyền lực nhà nước) lên đối tượng quản lý (là cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực lý lịch tư pháp) nhằm chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của các chủ thể hướng đến mục đích quản lý lý lịch tư pháp và phù hợp với quy luật khách quan của các quan hệ lý lịch tư pháp. Theo quy định tại Điều 3 Luật Lý lịch tư pháp, mục đích quản lý lý lịch tư pháp là nhằm: “Đáp ứng yêu cầu cần chứng minh cá nhân có hay không có án tích, có bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản; Ghi nhận việc xoá án tích, tạo điều kiện cho người đã bị kết án tái hoà nhập cộng đồng; Hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự và thống kê tư pháp hình sự và Hỗ trợ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã”. Quản lý lý lịch tư pháp dựa trên ba nguyên tắc: Một là, Lý lịch tư pháp chỉ được lập trên cơ sở bản án, quyết định hình sự 10
  15. của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; quyết định của Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đã có hiệu lực pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của tổ chức và hoạt động lý lịch tư pháp. Lý lịch tư pháp của một người chỉ được lập khi người đó bị Tòa án kết án bằng bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, khi một người bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp trong quyết định tuyên bố phá sản, thì Lý lịch tư pháp của người đó sẽ được cơ quan có thẩm quyền lập trong trường hợp người đó chưa có Lý lịch tư pháp. Hai là, Bảo đảm tôn trọng bí mật đời tư của cá nhân. Thông tin lý lịch tư pháp là thông tin có liên quan đến quyền nhân thân và bí mật đời tư của cá nhân. Vì vậy, việc quản lý và sử dụng thông tin này phải bảo đảm tôn trọng bí mật đời tư của cá nhân. Nguyên tắc này được thể hiện rõ nét trong các quy định của Luật Lý lịch tư pháp về quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp, việc cung cấp, cập nhật, xử lý thông tin lý lịch tư pháp cũng như quy định về thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Ba là, thông tin lý lịch tư pháp phải được cung cấp, tiếp nhận, cập nhật, xử lý đầy đủ, chính xác theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Luật Lý tư pháp. Cơ quan cấp Phiếu lý lịch tư pháp chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin trong Phiếu lý lịch tư pháp. Lý lịch tư pháp là vấn đề quan trọng của mỗi con người, nhằm chứng minh cá nhân có hay không có án tích, có bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản. Do đó, việc cung cấp, tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin lý lịch tư pháp phải đầy đủ, chính xác theo đúng trình tự, thủ tục được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý lý lịch tư pháp. Cũng theo Luật Lý lịch tư pháp, cơ quan quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp bao gồm các cơ quan có thẩm quyền chung - quản lý theo lãnh thổ bao gồm Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) và các cơ quan có thẩm quyền riêng - quản lý theo ngành, lĩnh vực bao gồm Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp. Trong số các cơ quan đó, Chính phủ thống 11
  16. nhất quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp; Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm phối hợp với Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp; Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại địa phương (Điều 5). Để thực hiện chức năng giúp Chính phủ quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp, Bộ Tư pháp được giao các nhiệm vụ, quyền hạn như: a) Trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về lý lịch tư pháp; b) Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lý lịch tư pháp; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về lý lịch tư pháp; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức làm công tác lý lịch tư pháp; c) Quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia; d) Bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia; đ) Chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ về lý lịch tư pháp; e) Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp; g) Ban hành và quản lý thống nhất các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về lý lịch tư pháp; h) Triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu và quản lý lý lịch tư pháp; i) Thực hiện hợp tác quốc tế về lĩnh vực lý lịch tư pháp; k) Định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động quản lý Lý lịch tư pháp (khoản 3, Điều 9). Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại địa phương, UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn: a) Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lý lịch tư pháp; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về lý lịch tư pháp; b) Bảo đảm về biên chế, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho hoạt động quản lý lý lịch tư pháp tại địa phương; c) 12
  17. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp; d) Triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu và quản lý lý lịch tư pháp theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp; đ) Định kỳ hằng năm báo cáo Bộ Tư pháp về hoạt động quản lý lý lịch tư pháp tại địa phương (khoản 5, Điều 9). Ngoài ra, để phân biệt giữa cơ quan quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp với cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, Luật Lý lịch tư pháp còn quy định cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp bao gồm Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp (khoản 5, Điều 2). Về đối tượng quản lý lý lịch tư pháp, Luật Lý lịch tư pháp quy định bao gồm: a) Công dân Việt Nam bị kết án bằng bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam, Toà án nước ngoài mà trích lục bản án hoặc trích lục án tích của người bị kết án được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp theo điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự hoặc theo nguyên tắc có đi có lại; b) Người nước ngoài bị Toà án Việt Nam kết án bằng bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật và c) Công dân Việt Nam, người nước ngoài bị Toà án Việt Nam cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong quyết định tuyên bố phá sản đã có hiệu lực pháp luật (Điều 5). Ngoài ra, để bảo đảm cho các cơ quản quản lý nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp, Luật Lý lịch tư pháp quy định trách nhiệm của một số cơ quan chức năng trong việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp: “Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án dân sự, Cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công an, cơ quan thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin LLTP đầy đủ, chính xác, đúng trình tự, thủ tục cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật” (Điều 6). Đồng thời quy định về quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp, theo đó: các chủ thể sau đây được yêu 13
  18. cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp: a) Công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang cư trú tại Việt Nam có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp của mình; b) Cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử; c) Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 7). Với các nội dung trên đây cho thấy, quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp và quản lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp là hai hoạt động khác nhau, do các chủ thể khác nhau thực hiện. Quản lý nhà nước về cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp là hoạt động quản lý trong phạm vi hẹp, do các chủ thể xác định thực hiện (mà cụ thể là Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp); đối tượng quản lý là cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp, còn quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp là hoạt động quản lý chung, bao trùm các vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác Lý lịch tư pháp nói chung, trong đó có quản lý cơ sở Lý lịch tư pháp, do các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung – theo lãnh thổ (Chính phủ, UBND cấp tỉnh) và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng – theo ngành, lĩnh vực thực hiện (Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp) thực hiện. Quản lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp là hoạt động quản lý của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp đối với tập hợp các thông tin về án tích, tình trạng thi hành án; về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản được cập nhật và xử lý theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp. Còn quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp là hoạt động quản lý của cơ quan hành chính nhà nước đối với công tác Lý lịch tư pháp nói chung, trong đó có cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. 14
  19. 1.1.1.3. Đặc điểm quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp Hoạt động quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp mang đầy đủ những đặc điểm chung và có một số đặc điểm riêng. Quản lý nhà nước có các đặc điểm sau: a) Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước; b) Quản lý nhà nước mang tính tổ chức và điểu chình; c) Quản lý nhà nước mang tính khoa học, tính kế hoạch; d) Quản lý nhà nước mang tính ổn định và lâu dài; đ) Quản lý nhà nước mang tính tập trung dân chủ. Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp được điều chỉnh bằng pháp luật, vừa mang tính quyền lực, tính tổ chức cao, vừa mang tính đặc thù quản lý ngành. Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Có thể hiểu quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp là quá trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng quyền lực của mình tác động có tổ chức và điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động cung cấp, tiếp nhận, cập nhật thông tin Lý lịch tư pháp; Lập Lý lịch tư pháp; tổ chức và quản lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp; cấp phiếu Lý lịch tư pháp theo các nguyên tắc nhất định nhằm đạt được mục tiêu của quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp. Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp là cả một quá trình với nhiều hoạt động như ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về Lý lịch tư pháp; chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về Lý lịch tư pháp; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về Lý lịch tư pháp; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức làm công tác Lý lịch tư pháp; quản lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp; bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc; chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ về lý lịch tư pháp; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về Lý lịch tư pháp; ban hành và quản lý thống 15