Luận văn Quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_lao_dong_trong_cac_doanh_nghiep.pdf
Nội dung text: Luận văn Quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN CÔNG NGUYÊN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2016
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN CÔNG NGUYÊN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật Hiên pháp và Luật Hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, năm 2016
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa học và Luận văn Thạc sĩ của mình, trước hết em xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám đốc, các khoa, phòng, thầy cô giáo Học viện Khoa học Xã hội đã nhiệt tình truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn Thạc sỹ. Em xin trân trọng cám ơn GS.TSVõ Khánh Vinh - Thầy đã hướng dẫn khoa học, đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành Luận văn này.
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ Luật học “Quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa – từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS.Võ Khánh Vinh. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Trần Công Nguyên
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 7 1.1. Quan niệm quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp 7 1.2. Nội dung quản lý nhà nước về lao động trong các nhỏ và vừa 13 1.3. Vai trò quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa 18 Kết luận Chương 1 19 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LAO ĐỘNGTRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 21 2.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế - xã hội và lực lượng lao động thành phố Đà Nẵng 21 2.2. Xây dựng hệ thống pháp luật lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay 25 2.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và việc thực hiện pháp luật về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở thành phố Đà Nẵng hiện nay 29 2.4. Hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước đối với người lao động và doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Đà Nẵng hiện nayo 34 2.5. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động trong các nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay 36 Kết luận Chương 2 37
- CHƯƠNG 3. TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LAO ĐỘNGTRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 39 3.1. Sự cần thiết tăng cường quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng 39 3.2. Quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay 41 3.3. Các giải pháp tăng cường QLNN về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng 50 Kết luận Chương 3 62 KẾT LUẬN 63 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DNNVV : Doanh nghiệp nhỏ và vừa QLNN : Quản lý nhà nước NXB : Nhà xuất bản
- DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Giá trị GDP(giá so sánh 2010) và kim ngạch xuất khẩu của 2.1. 22 Đà Nẵng Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tác động chuyển dịch cơ cấu 2.2. 23 LĐ Quy mô lực lượng lao động và cơ cấu lao động tham gia 2.3. hoạt động kinh tế chia theo ngành kinh tế ở Đà Nẵng 2005 24 – 2013
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lao động là tài sản quý giá của mỗi quốc gia. Không quốc gia nào trên thế giới từ bỏ quyền quản lý lao động của mình, trong đó có lao động trong các doanh nghiệp - khu vực đóng góp phần lớn thu nhập quốc dân và làm ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội của các nước công nghiệp hóa ngày nay. Do vậy, QLNN về lao động trong doanh nghiệp luôn được sự quan tâm của các nhà xây dựng và thực thi pháp luật cũng như của các nhà nghiên cứu. Ở Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng, những đổi mới trong thời gian vừa qua đã đánh dấu sự chuyển biến về nhận thức và thực tiễn xây dựng pháp luật, hoàn thiện QLNN theo hướng phù hợp với điều kiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động QLNN cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém đòi hỏi các cơ quan QLNN phải xác định rõ phạm vi và nội dung QLNN về kinh tế, xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển của giai đoạn mới; xác định rõ phạm vi và nội dung QLNN về kinh tế, xã hội của cơ quan công quyền các cấp. Những năm qua, chúng ta chú trọng nhiều đến số vốn đầu tư vào nền kinh tế, số doanh nghiệp thành lập, số lao động được giải quyết việc làm, nhưng lại chưa quan tâm thích đáng cải thiện và nâng cao điều kiện lao động, bảo đảm hài hòa quyền lợi của các bên, thực hiện an sinh xã hội và tiến bộ xã hội. Hiện tồn tại hàng loạt vấn đề liên quan đến lao động trong các doanh nghiệp đang rất cần tác động của “bàn tay nhà nước".Dự báo những năm tới sẽ phát sinh nhiều vấn đề đòi hỏi trách nhiệm trước hết, cao nhất không phải ai khác ngoài Nhà nước. Do vậy, yêu cầu có tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay, như Nghị quyết số 20/NQ-TW ngày 28/01/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra, là phải “đổi mới, nâng cao hiệu lực QLNN về lao động trong các doanh nghiệp”. Đà Nẵng hiện nay có 12.295 doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do vậy, nghiên cứu để đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả 1
- QLNN về lao động trong các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về lý thuyết, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu vấn đề “QLNN về lao động trong các doanh nghiệp” trong đó có cả trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, tùy từng góc độ tiếp cận, các nghiên cứu đã làm rõ nhiều nội dung khác nhau của QLNN, xác định mức độ can thiệp của nhà nước vào các quan hệ xã hội, trong đó có vấn đề lao động trong các doanh nghiệp. Nó bao gồm các nghiên cứu lý luận QLNN và các nghiên cứu lý luận QLNN về lao động, lao động trong các doanh nghiệp. Thứ nhất,đối với nghiên cứu về lý luận quản lý nhà nước. Các nghiên cứu đã làm rõ được những nội dung cơ bản như: nhà nước là chủ thể quản lý nhiều mặt của đời sống xã hội; hoạt động QLNN không xuất phát từ ý chí chủ quan mà phải tôn trọng quy luật khách quan của đời sống xã hội; cơ sở lý luận của quản lý xã hội của nhà nước; nội dung, phương thức quản lý nhà nước Có thể liệt kê một số nghiên cứu có tính chất cơ sở đó là: công trình nghiên cứu của các đơn vị nghiên cứu, giảng dạy chuyên sâu về quản lý, quản lý hành chính công, nhà nước và pháp luật như: Giáo trình “Quản lý xã hội của Trường Đại học Kinh tế quốc dân (NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội 2005), Giáo trình “Quản lý nhà nước’" của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2007), Giáo trình “Luật hành chính Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội (NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2005), Đề tài khoa học trọng điểm cấp nhà nước (KX01.09) phục vụ xây dựng Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001): “Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”; Thứ hai, những nghiên cứu QLNN về lao động, lao động trong các doanh nghiệp. 2
- Về vấn đề này, các nghiên cứu đã chỉ ra cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, vai trò, nội dung và quyền quản lý lao động, trong đó có lao động trong các doanh nghiệp, của nhà nước như: Giáo trình “Luật Lao động Việt Nam”của Trường Đại học Luật Hà Nội, Luận án tiến sĩ luật học “Cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động”của nghiên cứu sinh Nguyễn Xuân Thu; đề tài khoa học cấp bộ “Các giải pháp xây dựng quan hệ lao động hài hòa trong các doanh nghiệp nhằm hạn chế tranh chấp lao động và đình công” (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2008, Đề án số 87/TLHN ngày 02/01/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng Nghị quyết Trung ương sáu (khóa X) về “ Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đề tài khoa học cấp nhà nước “Xâydựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020”thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước (KX.04.15/06-10) phục vụ sửa đổi, phát triển Cương lĩnh năm 1991 và các dự thảo Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011. Về tổng quan tình hình nghiên cứu ở ngoài nước. Quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp là vấn đề từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm. Cũng đã có nhiều nghiên cứu về QLNN bằng pháp luật, về pháp luật lao động, quản lý lao động trong các doanh nghiệp ở Việt Nam và ở các nước như: Nghiên cứu của James A. Gross (Hoa Kỳ) “Quyền của người lao động cũng là Nhân quyền”(Workers’ rights as human’s rights), Nghiên cứu của các chuyên gia Tổ chức Lao động quốc tế, Bernard Gemigon, Alberto Odero, Horacio Guido, về “Quan điểm Tổ chức Lao động quốc tế về quyền đình công” (ILO principles concerning the Right to Strike) năm 2002 Tuy nhiên, điểm qua các nghiên cứu về QLNN về lao động nói chung tuy nhiều nhưng riêng đối với vấn đềQLNN về lao động trong các doanh nghiệp nói riêng ở nước ta cũng như ở thành phố Đà Nẵng hiện nay là còn ít. Các nghiên cứu này chưa đủ để hình dung một cách trọn vẹn hoạt động QLNN về lao động trong các DNNVVtrên địa bàn thành phố Đà Nẵng 3
- 3. Mục đích nghiên cứuvà nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn nhằm nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về QLNN về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa; đánh giá thực trạng và chỉ ra những mặt tích cực, mặt yếu kém của QLNN về lao động trong DNNVV ở thành phố Đà Nẵng hiện nay; qua đó, đề xuất giải pháp tăng cườngQLNN về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừad trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết một số nhiệm vụ chính sau đây: - Làm rõnhững cơ sở lý luận, xác định vai trò, đặc điểm, nội dung của QLNN về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. - Phân tích, đánh giá thực trạng, những kết quả đạt được và chưa được và tìm ra những nguyên nhân gây ra những yếu kém, bất cập trong QLNN về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua. - Đề xuất các giải pháp tăng cường QLNN về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tướng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến hoạt động QLNN về lao động trong các DNNVV. 4.2.Phạm vi nghiên cứu - Phạm vị nội dung: là công tác QLNN về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần sở hữu khác nhau và chủ yếu là của cơ quan hành chính nhà nước (không bao gồm cơ quan tư pháp) - Phạm vi không gian: trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 4
- - Phạm vị thời gian: từ năm 2000 đến 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật. Trên cơ sở tiếp cận từ góc độ lý luận nhà nước - pháp luật, kinh tế - chính trị, kinh tế - xã hội; giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể, hiệu quả QLNN; từ thực tiễn của địa phương và kinh nghiệm một số tỉnh khác trong nước để từ đó xây dựng các giải pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: Phương pháp lịch sử, phương pháp lô-gích, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp chuyên giađể lấy ý kiến 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Làm rõ thêm một số vấn đề về quản lý, QLNN về lao động trong các doanh nghiệp; quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với QLNN về lao động trong các doanh nghiệp, trong đó có DNNVV; đổi mới QLNN đối với lao động trong các doanh nghiệp trong tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Đóng góp những giải pháp để tăng cường hiệu quả của QLNN đối với lao động trong các DNNVV ở thành phố Đà Nẵng đáp ứng yêu cầu phát triển trong các DNNVV thành phố trong những năm đến, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ, nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, đồng thời tăng cường khả năng hội nhập quốc tế. - Là tài liệu nghiên cứu, tham khảo về QLNN về lao động trong các 5
- DNNVVđể Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thành phố tham mưu cho UBND thành phố những chính sách về lao động và giúp UBND thành phố QLNN về lao động trong các DNNVV trên địa bàn có hiệu quả. 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục đề tài chia làm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận củaquản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp; Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; Chương 3. Giải pháp tăng cườngquản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. 6
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.1. Quan niệm quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp Quản lý nhà nước,hiểu theo nghĩa rộng thì,là phần quản lý xã hội do nhà nước đảm nhận, là sự tác động của chủ thể mang quyền lực nhà nước tới đối tượng quản lý nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Hiểu theo nghĩa hẹp thì,quản lý nhà nướclà quản lý hành chính nhà nước - quản lý nhà nước trên lĩnh vực hành pháp và chủ yếu được giao cho các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. [12, tr.125-126], [23, tr.12]. Trước tiên, nói về quản lý nhà nước và quản lý xã hội nói chung, khi xã hội loài người hình thành, nhu cầu quản lý, định hướng sự phát triển xã hội trở thành yêu cầu mang tính khách quan. Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, đã có nhiều học giả trong, ngoài nước đưa ra giải thích về “quản lý”. Theo Henry Fayol (1841-1925): Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh nghiệp, chính phủ) đều có. Nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra. Như vậy, chức năng quản lý chỉ tác động đến con người, là tác động của tổ chức xã hội đến con người (không trực tiếp tác động thiết bị, nguyên vật liệu .) Còn đối với Harold Koontz: Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã đề ra.Đối vớiPeter Ferdinand Drucker: Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự lôgích mà là ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích [22]. Ở Việt Nam hiện nay, trong nghiên cứu lý luận nhà nước và pháp luật, phần lớn đều xuất phát từ khái niệm chung của “quản lý” để lý giải các khái niệm khác có liên quan. Hiểu theo cách chung nhất, quản lý là sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với 7
- những quy luật nhất định[12, tr.105-109]. Quản lý do nhiều chủ thể khác nhau cùng tiến hành với những mục tiêu cụ thể khác nhau. Một trong những đặc trưng cơ bản của quản lý đó là sử dụng quyền lực để “bắt buộc” đối tượng quản lý phục tùng nhằm mục tiêu thiết lập trật tự chung, mang lại lợi ích cho một tập thể, một cộng đồng nhất định. Tuy nhiên, quan niệm này chưa thể hiện hết được mục tiêu của quản lý nhà nước. Bởi lẽ, nó mới chỉ dừng lại ở mục tiêu vì bản thân nhà quản lý, vì bộ máy nhà nước mà chưa đề cập mục tiêu cao hơn của QLNN là vì người dân, vì đối tượng quản lý và vì xã hội. Trong xã hội văn minh, luật pháp - công cụ QLNN chủ yếu - không là công cụ để cai trị xã hội, mà phải là phương tiện để bảo vệ các quyền công dân, quyền con người, bảo vệ xã hội. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên. Theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa thì có quy định các tiêu chí của DNNVV như sau: Doanh nghiệp Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa siêu nhỏ Khu vực Tổng Số lao Tổng nguồn nguồn Số lao động Số lao động động vốn vốn I. Nông, lâm 10 người 20 tỷ từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên 200 nghiệp và trở xuống đồng trở người đến đồng đến người đến thủy sản xuống 200 người 100 tỷ đồng 300 người II. Công 10 người 20 tỷ từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên 200 nghiệp và trở xuống đồng trở người đến đồng đến người đến xây dựng xuống 200 người 100 tỷ đồng 300 người III. Thương 10 người 10 tỷ từ trên 10 từ trên 10 tỷ từ trên 50 mại và dịch trở xuống đồng trở người đến đồng đến người đ vụ xuống 50 người 50 tỷ đồng 8
- 1.1.1. Phạm vi, phương thức quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa Phạm vi quản lý của nhà nước là khoảng giới hạn mà nhà nước xác định cần có sự tác động của mình - tức cần sự tác động bằng quyền lực nhà nước [30, tr.738, 764]. Phạm vi quản lý nhà nước chính là những quan hệ xã hội mà nhà nước quản lý bằng pháp luật: “bất kỳ một quan hệ pháp luật cũng là quan hệ xã hội nhưng không phải bất kỳ một quan hệ xã hội nào cũng là quan hệ pháp luật. Điều này cũng chính là giới hạn của sự tác động pháp luật"[11, tr.399]. Như vậy, có thể hiểu, phạm vi quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp là trả lời câu hỏi: nhà nước quản lý về lao động trong doanh nghiệp, quản lý tới đâu? Phương thức quản lýnhà nước được hiểu lànhững hình thức quản lý nhà nước, là hệ thống các cách mà nhà nước sử dụng để tiến hành quản lý xã hội[30, tr.103, 763, 793]. Nó trả lời câu hỏi: Nhà nước quản lý bằng cách thức nào và phương pháp gì?Những phương thức QLNN phổ biến, điển hình có thể kể ra là: phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục [11], [12]. Phương pháp hành chính là phương thức tác động trực tiếp đến đối tượng quản lý thông qua những quy định nghĩa vụ mà đối tượng quản lý bắt buộc phải thực hiện. Nhà nước ban hành các văn bản, các quy định pháp luật, quy định rõ tiêu chuẩn, điều kiện, các cơ chế kiểm tra các chế tài còn các doanh nghiệp, lao động trong các doanh nghiệp có nghĩa vụ phải chấp hành. Nếu lao động và các doanh nghiệp vi phạm thì sẽ bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính bởi các cơ quan nhà nước. Phương pháp kinh tế hay còn gọi là phương pháp tác động đến lợi ích của đối tượng quản lý. Đó là phương thức tác động gián tiếp đến hành vi của đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng đòn bẩy kinh tế tác động đến lợi ích của đối tượng quản lý, kích thích sự quan tâm của họ đến kết quả cuối cùng của hành vi, nhờ đó mà đạt được kết quả quản lý mà nhà nước mong đợi. Đối với quản lý nhà nước về lao động trong doanh nghiệp, nhà nước ban hành các chính sách về kinh tế như: chính sách thu nhập, bảo hiểm, thời giờ làm việc, chế độ nghỉ ngơi, thai sản để 9
- khuyến khích, động viên và bảo đảm các quyền lợi của lao động. Hoặc nhà nước ban hành các chính sách về đất đai, về thuế, về tín dụng để hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp tăng năng suất lao động, bảo đảm tạo điều kiện doanh nghiệp phát triển. Phương pháp giáo dục là cách thức tác động vào nhận thức, tâm lý, tình cảm của con người thuộc đối tượng quản lý nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình của họ trong việc thực hiện nghĩa vụ. Nhà nước, chủ thể quản lý, tổ chức tuyên truyền, vận động, thuyết phục doanh nghiệp chấp hành tốt các quy định của pháp luật, đảm bảo các chế độ, chính sách cho lao động, xây dựng môi trường làm việc an toàn, quan hệ lao động hài hòa, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho lao động trong doanh nghiệp .Đối với lao động thì giáo dục, vận dộng chấp hành tốt pháp luật lao động, nội quy lao động, kỷ luật lao động, khuyến khích sáng tạo nhằm tăng năng suất lao động. Ngoài ra, một trong những “phương thức” tác động được nhắc đến nhiều hiện nay, nhất là đối với các doanh nghiệp, đó là đòi hỏi thực hiện “trách nhiệm xã hội doanh nghiệp”. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là những cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào sự phát triển bền vững, hợp tác với người lao động, gia đình, cộng đồng địa phương và xã hội để cải thiện chất lượng cuộc sống của họ sao cho vừa có lợi cho doanh nghiệp vừa có ích cho sự phát triển [20]. Nghĩa là, ngoài trách nhiệm phải thực hiện như tuân thủ đầy đủ pháp luật thì nhà nước còn “thuyết phục, yêucầu” doanh nghiệp thực hiện tốt hơn đòi hỏi của pháp luật đối với nhà nước, người lao động, cộng đồng dân cư, với môi trường, với xã hội và đất nước. 1.1.2. Đặc điểm, yêu cầu của quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa Trên cơ sở phân tích thuộc tính của QLNN, xem xét các khía cạnh chung của QLNN về lao động cho thấy, QLNN về lao động trong doanh nghiệp mang những yếu tố vừa là yêu cầu và cũng vừa là những đặc điểm cơ bản của nó. Một là, QLNN về lao động trong các DNNVV bao gồm nhiều nhóm nội dung khác nhau và có sự khác biệt với các dạng QLNN về lao động khác. Nhìn một cách tổng quát, QLNN về lao động có thể quy về các nội dung cơ 10
- bản là [24, tr.127]: (1) Xây dựng pháp luật và tổ chức, hướng dẫn thi hành pháp luật liên quan đến việc làm, thị trường lao động, tiền lương và thu nhập của người lao động, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội; (2) Thực hiện sự điều hành cả ở tầm vĩ mô và vi mô đối với quá trình quản lý lao động; và (3) Tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật lao động và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình lao động. Hai là, QLNN về lao động trong các doanh nghiệp là nhằm bảo vệ quyền lợi và hỗ trợ cho các chủ thể tham gia quan hệ lao động, bảo đảm lợi ích của nhà nước và xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ lao động được hiểu theo nghĩa chung nhất là quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động (quan hệ hai bên). Nó bao gồm: (1) quan hệ giữa cá nhân người lao động và cá nhân người sử dụng lao động; (2) quan hệ giữa tập thể giữa tổ chức đại diện người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở các cấp. Quan hệ lao động trong DNNVV có những tính chất, đặc điểm nhất định. Điểm đặc biệt ở đây chính là “khế ước” giữa người sử dụng lao động (doanh nghiệp) hoặc tổ chức đại diện của người sử dụng lao động với người lao động hoặc với đại diện của người lao động. Đó thực chất là hoạt động trao đổi, mua bán loại hàng hóa đặc biệt “sức lao động”, cho nên nó có đặc trưng riêng so với các loại khế ước dân sự khác khi mua bán hàng hóa, dịch vụ thông thường.Xuất phát từ tính chất đó, QLNN về lao động trước tiên phải bảo vệ quyền làm việc và các quyền lợi khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hòa, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động, của người quản lý lao động. Mặt khác, hoạt động QLNN về lao động không phải là để “làm khó”, gây cản trở mà phải tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia quan hệ lao động; không can thiệp trực tiếp vào quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp; không can thiệp trực tiếp vào quyền thương lượng, tự định đoạt của các bên trong quan hệ lao động nhưng cũng không được buông lỏng quản lý. 11
- Ba là, QLNN về lao động trong các DNNVV phải giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội của quốc gia. Thông qua hoạt động QLNN về lao động nói chung, lao động trong các DNNVV nói riêng, nhà nước thể hiện bản chất của mình. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau, nhà nước phải giải quyết hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Do vậy, nhà nước luôn phải coi chính sách xã hội là động lực để phát triển kinh tế, nhưng đồng thời lại phải coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội. Bốn là, QLNN về lao động trong các DNNVV có quan hệ mật thiết với quyền quản lý của doanh nghiệp, sự tham gia của tổ chức đại diện người lao động, người sử dụng lao động Quản lý lao động trong các DNNVV do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện với những mục đích khác nhau. Hoạt động QLNN về lao động trong các DNNVV là hoạt động quản lý có những ưu thế vượt trội của nó. Tuy nhiên, nhà nước cũng cần xem xét đến tính hiệu quả và vai trò của các thiết chế tự quản của người lao động, người sử dụng lao động. Nó là một kênh quản lý quan trọng, mang lại hiệu quả quản lý tốt nếu nhà nước tạo cơ sở pháp lý phù hợp. Ví dụ, người sử dụng lao động quản lý lao động theo cách của mình nhằm khai thác có hiệu quả nhất cho mình nguồn nhân lực mà họ đã bỏ tiền ra thuê; tổ chức đại diện của người lao động, người sử dụng lao động tham gia quá trình quản lý lao động thông qua việc góp ý kiến, thể hiện ý chí, nguyện vọng với nhà nước trong quá trình xây dựng pháp luật. Trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp, cũng có thể tồn tại những hình thức tự quản khác nhau. Từ những phân tích nêu trên, có thể quan niệm rằng: Quản lý nhà nước về lao động trong các DNNVV là hoạt động quyền lực nhà nước và chủ yếu sử dụng pháp luật để tác động định hướng lên người lao động, doanh nghiệp và các chủ thể liên quan nhằm điều chỉnh và hướng hành vi của các chủ thể này diễn ra phù hợp với lợi ích chung trên cơ sở bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động. 12
- 1.2. Nội dung quản lý nhà nước về lao động trong các nhỏ và vừa Căn cứ hoạt động quản lý của nhà nước cho thấy nội dung QLNN về lao động trong các DNNVV được thể hiện ở những nội dung: 1.2.1. Thiết lập và duy trì bộ máy quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa Ngày nay, vấn đề QLNN về lao động trong các doanh nghiệp nói chung được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của bộ máy QLNN của các quốc gia công nghiệp hóa, có nền kinh tế thị trường phát triển. Các quốc gia đều phải chú trọng tới việc phải bảo đảm việc tổ chức và hoạt động có hiệu quả hệ thống quản lý lao động, với nhiệm vụ và trách nhiệm được phối hợp một cách hợp lý. Hệ thống quản lý lao động sẽ chịu trách nhiệm về việc xây dựng, thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc gia; việc làm và phát triển nguồn nhân lực; khảo sát, nghiên cứu và thống kê về lao động; cung cấp sự hỗ trợ cho quan hệ lao động. Phải có đội ngũ cán bộ quản lý đủ mạnh, có trình độ, có chức danh, địa vị, nguồn lực tài chính cần thiết cho hoạt động nghiệp vụ đạt hiệu quả. Ngoài ra, hoạt động của bộ máy quản lý này phải bảo đảm sự tham gia của người lao động, người sử dụng lao động và những đại diện của họ. Tổ chức Lao động quốc tế cũng đưa ra khuyến cáo: Ở các quốc gia, thông thường hoạt động quản lý (hành chính) nhà nước về lao động được giao cho các cơ quan hành chính nhà nước. Chính phủ thống nhất QLNN về lao động trong cả nước. Hệ thống cơ quan QLNN về lao động thuộc quyền chỉ đạo của chính phủ bao gồm hai loại: hệ thống cơ quan chuyên ngành (cơ quan lao động) và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương. Cơ quan lao động là cơ quan QLNN về lao động chuyên ngành, được tổ chức, chỉ đạo thống nhất từ trung ương tới địa phương, với chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định. Như vậy, việc thiết lập và duy trì một hệ thống cơ quan QLNN có cơ cấu tổ chức hợp lý, được đầu tư thỏa đáng về con người và những nguồn lực khác, với sự tham gia của người lao động, người sử dụng lao động và các tổ chức của họ, là yêu cầu đặc biệt quan trọng, đóng vai trò quyết định tới hiệu quả của hoạt động QLNN về 13
- lao động trong các doanh nghiệp ở mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang theo đuổi thực hiện công nghiệp hóa và phát triển nền kinh tế thị trường như Việt Nam. 1.2.2. Xây dựng hệ thống pháp luật về lao động trong các DNNVV Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, cái gốc của quan hệ lao động chính là quan hệ kinh tế - dân sự với nguyên tắc tối cao “thỏa thuận và tự nguyện”. Nhà nước định ra tiêu chuẩn lao động và tạo ra cơ chế, hành lang pháp lý để các bên thỏa thuận.Về nguyên tắc: vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế thì nên giao cho thị trường điều tiết, nhà nước là người tạo hành lang pháp lý để thị trường vận hành hiệu quả; trái lại, vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội - đặc biệt là vấn đề về an ninh xã hội, an sinh và an toàn xã hội - nhà nước phải trực tiếp quản lý và quy định. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay ở nước ta vẫn còn lẫn lộn giữa hai vấn đề này. Ngoài ra, theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế, các quốc gia cần ban hành pháp luật nhằm thể hiện những tiêu chuẩn lao động cơ bản nhất [18, tr.98] - nhà nước cần luật hóa và có những quy định bắt buộc; nhà nước cần quản lý chứ không thể để cho thị trường điều chỉnh. Như vậy, có sự khác biệt cả về hiện tượng, tính chất và bản chất của vấn đề: ban hành - thực thi các tiêu chuẩn lao động và ban hành - thực thi hành lang, điều kiện pháp lý để thị trường điều tiết và các bên đối thoại. Đây là hai vấn đề cần có những luật riêng: luật về tiêu chuẩn lao động và luật về quan hệ lao động. Theo những phân tích đã nêu ở trên cho thấy: (1) Với nhóm quan hệ, vấn đề có tính kinh tế, có tính thị trường, nhà nước để thị trường điều tiết bằng cách nhà nước xác định giới hạn cho các bên thương lượng, thỏa thuận theo cơ chế thị trường - đó chính là quan hệ lao động. Nhà nước đưa ra nguyên tắc khống chế và “vạch ra giới hạn” cho thị trường điều tiết. Nhà nước thực hiện vai trò trọng tài và tiến hành kiểm tra sử dụng công cụ kinh tế là chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ này; (2) Với quan hệ, vấn đề có tính xã hội, có nội dung an sinh xã hội, nhà nước cần quy định quyền - nghĩa vụ cụ thể để các bên thực hiện - đó chính là tiêu chuấn lao động. Nhà nước là người kiểm tra và xử lý vi phạm. Nhà nước sử dụng phương pháp hành chính là chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ này. 14