Luận văn Quản lý nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn tỉnh An Giang
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn tỉnh An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_ho_tich_tu_thuc_tien_tinh_an_gi.pdf
Nội dung text: Luận văn Quản lý nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn tỉnh An Giang
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN DUY THỤY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN DUY THỤY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH AN GIANG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ THƯ HÀ NỘI - 2017
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH 7 1.1. Khái niệm và vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch 7 1.2. Nội dung và hình thức, phương pháp quản lý nhà nước về hộ tịch 14 1.3. Các nhân tố tác động đến quản lý nhà nước về hộ tịch 17 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH TẠI TỈNH AN GIANG 23 2.1. Khái quát chung về tỉnh An Giang 23 2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở An Giang 24 2.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước về hộ tịch hiện nay 43 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH 61 3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch hiện nay 61 3.2. Quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch hiện nay 62 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch ở tỉnh An Giang 65 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 PHỤ LỤC
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hộ tịch là những sự kiện xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến lúc chết. Các sự kiện này bao gồm: sinh; tử; kết hôn/công nhận việc kết hôn; giám hộ, thay đổi/chấm dứt giám hộ; cha/mẹ nhận con hoặc con nhận cha/mẹ; thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch (thay đổi, cải chính, bổ sung thông tin về nhân thân), xác định lại dân tộc; nuôi con nuôi/chấm dứt việc nuôi con nuôi; xác định cha, mẹ, con theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền); xác định lại giới tính; ly hôn/hủy việc kết hôn trái pháp luật; tuyên bố/hủy tuyên bố mất tích hoặc chết hoặc mất/hạn chế năng lực hành vi dân sự. Quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng luôn được các quốc gia quan tâm thực hiện. Thông qua hoạt động này, nhà nước xác lập cơ sở pháp lý để công nhận và bảo hộ các quyền cơ bản của con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, đồng thời có biện pháp quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ thiết thực cho việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước. Tại hầu hết các nước, tất cả các sự kiện hộ tịch của con người từ khi sinh ra đến khi chết đều được đăng ký. Ở nước ta, vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử từ khá lâu (thời nhà Trần). Thời kỳ phong kiến, thực dân, bên cạnh vấn đề quản lý đất đai (“điền”), thì vấn đề quản lý hộ tịch - con người (“đinh”) là vấn đề trọng yếu của nhà nước, luôn được quan tâm quản lý, thực hiện. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ý thức được tầm quan trọng của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, Nhà nước ta đã chú trọng vấn đề quản lý nhà nước về hộ tịch. Tại Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến Bản Điều lệ hộ tịch năm 1956 ban hành kèm theo Nghị định số 764/TTg ngày 08/5/1956 của Chính phủ; tiếp theo đó là Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961 ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961. Trong những năm gần đây, căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự (1995, 2005, 2015), Luật hôn nhân và gia đình (1986, 2000, 2014) và các văn bản liên quan khác, đến trước năm 2015, Chính phủ đã ban hành tổng cộng 08 Nghị định 1
- điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch, cả việc hộ tịch trong nước và việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Thực hiện các văn bản nêu trên, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở nước ta đã có những bước phát triển ổn định, đạt được những kết quả quan trọng, hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch và đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch từ Trung ương đến cơ sở được củng cố, kiện toàn, hoạt động dần đi vào nề nếp, tương đối hiệu quả, giải quyết được cơ bản yêu cầu đăng ký hộ tịch của người dân, trong đó nhiều việc có yếu tố nước ngoài. Trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch từng bước được đơn giản hóa, tạo thuận lợi cho người dân; dữ liệu hộ tịch được hình thành với hệ thống sổ sách hộ tịch được lưu trữ, sử dụng lâu dài; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch được triển khai ở nhiều địa phương Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ở mức độ cao hơn, thì công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, gây khó khăn, phiền hà cho người dân. Mặt khác, làm giảm hiệu quả quản lý dân cư, quản lý nhà nước và xã hội, ảnh hưởng đến vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ, trình Quốc hội khóa XIII thông qua Luật Hộ tịch tại kỳ họp thứ 8 ngày 20/11/2014. Đây là lần đầu tiên có văn bản ở tầm Luật quy định riêng về lĩnh vực đăng ký, quản lý hộ tịch sau hơn 60 năm thực hiện bằng các văn bản dưới Luật do Chính phủ ban hành. Luật có nhiều quy định mới, mang tính đột phá, “cách mạng” về: thẩm quyền đăng ký hộ tịch, phương thức đăng ký, quản lý hộ tịch, cải cách mạnh thủ tục hành chính Trong đó, có quy định mới, cụ thể về vai trò của ủy ban nhân dân các cấp, Sở Tư pháp cấp tỉnh đối với hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch. Nhưng, quản lý nhà nước về hộ tịch vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả. Từ những trình bày trên, học viên chọn Đề tài “Quản lý Nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn tỉnh An Giang” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật. Qua nghiên cứu thực tiễn quản lý hộ tịch ở một địa phương, luận văn cố gắng rút ra những kết 2
- luận, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý hộ tịch trên địa bàn tỉnh. 2. T nh h nh nghi n c u đề tài Có thể khẳng định quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động khó khăn và phức tạp đòi hỏi nhà quản lý phải có hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực chuyên môn và cần thiết hơn đó là sự thông thạo về đặc điểm dân cư, tập quán, truyền thống, văn hóa, trình độ phát triển của địa phương thực hiện hoạt động quản lý. Có như vậy nhà quản lý mới có thể áp dụng pháp luật một cách linh hoạt, và đưa ra được những quyết định quản lý phù hợp, mang lại hiệu quả cao. Đề tài hộ tịch và pháp luật về hộ tịch từ lâu đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học cũng như những nhà quản lý chuyên môn trong công tác hộ tịch. Đề tài này được khai thác ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau qua các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: - Hoàng Anh, “Các quy định về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam” [2]. - Lê Viết Thiện, “Vai trò của công chức Tư pháp - hộ tịch xã trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật ở Việt Nam hiện nay” [44]. - Lê Thị Minh Hiếu, “Thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay” [20]. - Bùi Thị Tư, “Quản lý hộ tịch - Qua thực tiễn ở Hải Phòng” [48]. - Nguyễn Thị Lài, “Quản lý nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” [25]. - Trương Thị Vân Anh, “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, thực tiễn ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội” [3]. Và một số bài viết, công trình nghiên cứu khác được đăng trên các ấn phẩm báo chí như: Lê Thị Minh Long, “Một số ý kiến về việc triển khai thi hành Luật hộ tịch” [28]. 3
- Nguyễn Công Khanh, “Triển khai thi hành Luật hộ tịch một trong những biện pháp quan trọng bảo đảm thực thi quyền con người theo Hiến pháp năm 2013” [24]. Đinh Ngọc Giang, “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện nay” [19]. Cục lãnh sự Bộ ngoại giao, “Kinh nghiệm thực tiễn và một số kiến nghị về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài” [17]. Nguyễn Ngọc Bích, “Thẩm quyền đăng kí hộ tịch theo Luật Hộ tịch và vấn đề thực hiện” [6] Tóm lại, thông qua những công trình nghiên cứu chính nêu trên, có thể thấy các công trình nghiên cứu đã nhấn mạnh những khía cạnh pháp lý liên quan đến quản lý hộ tịch. Những phân tích, đánh giá của các tác giả là những kinh nghiệm quý báu cho việc hoàn thiện pháp luật quản lý nhà nước về hộ tịch. Tuy nhiên, tất cả các bài nghiên cứu cũng như công trình nêu trên đều dưới dạng công trình định hướng nghiên cứu từ lý luận cho đến thực tiễn, từ tổng thể cho đến từng khía cạnh liên quan đến quản lý hộ tịch, chưa có một công trình nghiên cứu thực tiễn về quản lý hộ tịch trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn trước và sau khi có Luật Hộ tịch. Việc phân tích và nhận định sâu hơn các vấn đề quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn cụ thể là tỉnh An Giang hiện nay là vấn đề cần được khai thác, nghiên cứu và thực hiện một cách hợp lý, linh hoạt nhằm đạt được hiệu quả thực hiện công tác quản lý hộ tịch tại tỉnh An Giang nói riêng và trên cả nước nói chung một cách tốt nhất. Điều này cho phép tác giả có cơ sở khẳng định tính cấp thiết của vấn đề này trong đề tài luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghi n c u 3.1. Mục đích Mục đích của đề tài là dựa trên kiến thức lý luận để nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến quản lý hộ tịch, tìm hiểu thực tiễn áp dụng luật thực định về quản lý hộ tịch trên địa bàn tỉnh An Giang. Từ đó, tìm hiểu những quy định bất cập, chưa cụ thể, trên cơ sở đó có những nhận xét, kiến nghị về hướng giải quyết các vấn 4
- đề pháp lý về quản lý hộ tịch cũng như giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hộ tịch tại tỉnh An Giang. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có những nhiệm vụ cụ thể sau: - Xác định nội dung và làm rõ một số vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm có liên quan tới hoạt động quản lý hộ tịch như: Khái niệm hộ tịch, khái niệm và đặc điểm về quản lý nhà nước về hộ tịch; Vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch và các vấn đề lý luận chung khác. - Phân tích, làm rõ các hạn chế, bất cập, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch tại tỉnh An Giang. - Từ những vướng mắc, bất cập giữa lý luận và thực trạng về quản lý hộ tịch tại An Giang để đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Hộ tịch ở Việt Nam trong thời gian tới cũng như nâng cao hiệu quả quản lý hộ tịch tại tỉnh An Giang nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghi n c u Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là cơ chế quản lý hộ tịch của Nhà nước ta, những quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình quản lý về hộ tịch, được áp dụng trên thực tiễn tại các cơ quan có thẩm quyền thuộc các cấp hành chính của tỉnh An Giang. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Về phạm vi không gian luận văn nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về Hộ tịch tại các cấp hành chính thuộc địa bàn tỉnh An Giang. Về phạm vi thời gian luận văn tập trung phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật và thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch tại tỉnh An Giang từ năm 2011 đến 6 tháng đầu năm 2016 (thời điểm Luật Hộ tịch có hiệu lực được 6 tháng). 5
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghi n c u Luận văn nghiên cứu dựa trên các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối liên hệ biện chứng. Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, được hình thành từ một cơ sở hạ tầng phù hợp. Pháp luật được coi là tấm gương phản chiếu xã hội, còn về phần mình, xã hội được coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật. Về lý thuyết và thực tiễn cho thấy, các quy định của pháp luật phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thì mới có tính khả thi trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật; từ đó tạo cơ sở cho xã hội ổn định và phát triển. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu phổ biến như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch là một hình thức hoạt động của quản lý nhà nước do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân góp phần phục vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương và đất nước. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn được kết cấu thành 3 chương, cụ thể: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về hộ tịch. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch tại tỉnh An Giang. Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về hộ tịch. 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH 1.1. Khái niệm và vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quản lý nhà nước về hộ tịch 1.1.1.1. Khái niệm hộ tịch Trong khoa học pháp lý một số nước trên thế giới, có thể nhận thấy khái niệm về hộ tịch đã được đề cập, cụ thể như theo tiếng Anh, thuật ngữ “Civil registration” được hiểu là việc đăng ký đúng thời hạn các sự kiện sinh, tử, kết hôn với chính quyền trong thời hạn quy định. Hiện nay, trong Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp không đưa ra khái niệm riêng về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm “Chứng thư hộ tịch”; nhưng trong tiếng Pháp thì từ “register d etat civil” cũng được hiểu là việc đăng ký dân sự của cá nhân. Như vậy, cả hai khái niệm nêu trên đều có thể hiểu nghĩa đó là việc “đăng ký tình trạng dân sự của cá nhân”. Các nước có hệ thống pháp luật theo truyền thống là luật thành văn (còn gọi là hệ thống luật lục địa) với đại diện tiêu biểu nhất là Pháp thì khái niệm này thường gắn liền với khái niệm “Thân trạng” và được hiểu là “căn cước, tình trạng dân sự của một cá nhân” (tiếng Pháp là état des personnes). Còn hiện nay, theo các tài liệu đã được Liên hiệp quốc công nhận và chính thức sử dụng thường xuyên thì khái niệm “Civil registration” có nghĩa là: “Đăng ký hộ tịch là việc ghi nhớ liên tục đặc điểm về sự tồn tại và tình trạng dân sự của mỗi cá nhân liên quan đến dân số được quy định bởi sắc lệnh, luật hoặc điều lệ phù hợp với yêu cầu của pháp luật mỗi quốc gia”. Như vậy, có thể thấy rằng về mặt ngôn ngữ học, từ Hộ tịch đang được sử dụng trong pháp luật Việt Nam hiện hành đều có sự tương đồng về ngữ nghĩa với các khái niệm của pháp luật về hộ tịch của nước ngoài. Xét từ góc độ ngôn ngữ học, “hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán, được ghép bởi hai thành tố có nghĩa độc lập, trong đó “tịch” là thành tố chính. Xét về mặt từ loại thì đây là một danh từ thuộc nhóm danh từ chỉ khái niệm trừu tượng [41, tr. 211]. Theo đó, từ “hộ” khi sử dụng là danh từ có nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có một nghĩa trực tiếp là “dân cư” 7
- hoặc “nhà ở”, hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý dân số, gồm những người cùng ăn ở với nhau”. Tương tự từ “tịch” có nghĩa là “sổ sách” hoặc là “sổ sách đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Gốc từ là vậy, nhưng nội hàm khái niệm này lại được giải nghĩa có thể hơi khác nhau: “Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và tịch quán của từng người” [1, tr. 384].“Hộ tịch: Sổ sách ghi chép, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã phường” [27, tr. 296].“Hộ tịch: Quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của mọi người trong một địa phương” [26, tr. 321].“Hộ tịch: Sổ của cơ quan dân chính đăng ký cư dân trong địa phương mình theo đơn vị hộ” [30, tr. 442].“Hộ tịch: các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý của pháp luật” [52, tr. 835].“Hộ tịch là những sự kiện cơ bản về đời sống của mỗi người được đăng ký vào sổ hộ tịch để làm căn cứ xác định các quyền và nghĩa vụ dân sự, quyền và nghĩa vụ công dân” [42, tr. 31]. Mỗi cách giải thích đứng từ góc nhìn khác nhau, thể hiện sự vận động nhận thức về khái niệm ở các thời kỳ khác nhau, nhưng điểm chung của chúng là đều liên quan đến sự ghi nhận cái thuộc về nhân thân con người. Nhưng ngày nay, nhận thức chung của xã hội về hộ tịch thì hộ tịch được hiểu là những sự kiện sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch, tử xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Quan niệm hộ tịch này đã được thể hiện tại Điều 2 Luật Hộ tịch 2014. Các sự kiện hộ tịch có thể phân chia thành 02 nhóm có tính chất tương đối như sau: - Nhóm thứ nhất gồm: Các sự kiện sinh (ngày, tháng, năm sinh); quan hệ gia đình (cha, mẹ, con); sự kiện tử (ngày, tháng, năm chết, nơi chết, nguyên nhân chết). Đây là các sự kiện hộ tịch không bao giờ thay đổi. - Nhóm thứ hai gồm: họ tên, dân tộc, giới tính, quốc tịch. Đây là nhóm các sự kiện hộ tịch có thể thay đổi và việc thay đổi sẽ được tiến hành theo trình tự, thủ tục được quy định rất chặt chẽ. Tóm lại, Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân theo quy định là căn cứ pháp lý để xác nhận các sự kiện hộ tịch của cá nhân đó 8
- và mỗi sự kiện hộ tịch đều được cơ quan đăng ký hộ tịch ghi nhận bằng giấy tờ hộ tịch. Theo quy định tại Điều 6 Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy định giá trị pháp lý của giấy khai sinh như sau: Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung về họ, chữ đệm, tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với giấy khai sinh của người đó. 1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về hộ tịch Quản lý là hoạt động mang tính chất đặc thù trong đời sống xã hội, là sự tác động có mục đích của các chủ thể quản lý đối với các đối tượng quản lý. Quản lý xuất hiện ở bất kỳ nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó có hoạt động chung của con người. Mục đích và nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của con người, phối hợp riêng lẻ của từng cá nhân thành hoạt động chung thống nhất của cả tập thể và hướng hoạt động chung đó theo phương hướng thống nhất, nhằm đạt được mục tiêu đã được định trước. Từ những quan niệm nêu trên, có thể xác định quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch của nhà nước gắn với các sự kiện: sinh, tử, kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, nhận cha, mẹ, con, thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch. Thông qua việc đăng ký nhà nước quản lý để nắm được tình hình biến động dân cư, giúp nhà nước có cơ sở để hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng cũng như hoạch định các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Ngày 08 tháng 5 năm 1956, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 764/TTg kèm theo Bản Điều lệ hộ tịch. Ngày 16 tháng 01 năm 1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 04/CP, kèm theo Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch mới thay thế. Theo quy định tại hai Bản Điều lệ này, thì Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) được giao nhiệm vụ thống nhất chỉ đạo, tổ chức quản lý hộ tịch; việc đăng ký hộ tịch do Ủy ban hành chính xã, thị trấn, thị xã, khu phố phụ trách. Ngày 20 tháng 11 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số 219/HĐBT về việc chuyển giao công tác đăng ký hộ tịch ở 9
- Trung ương từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp. Từ thời điểm này, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch trên phạm vi cả nước. Quản lý nhà nước về hộ tịch là một hình thức hoạt động của nhà nước, do các chủ thể có thẩm quyền (trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền) thực hiện trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch, góp phần vào bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý nhà nước về hộ tịch khác với khái niệm là quản lý hộ khẩu. Hộ khẩu là “người ở trong một hộ” [52, tr.441]. Đăng ký hộ khẩu: “Biện pháp quản lý hành chính của nhà nước nhằm xác định việc cư trú của công dân, bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân, tăng cường quản lý xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc đăng ký và quản lý hộ khẩu do Bộ Công an phụ trách” [36, tr.231]. Theo quy định của Luật Cư trú được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2007 quy định: “Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú” [36, tr.8]. Đăng ký và quản lý hộ khẩu là biện pháp quản lý hành chính của nhà nước để xác định việc cư trú của công dân. Vì vậy, cần phân biệt hai khái niệm giữa quản lý hộ khẩu và quản lý hộ tịch ở những điểm cơ bản sau: Một là, quản lý hộ khẩu là hoạt động chuyên môn của ngành Công an còn quản lý hộ tịch là hoạt động chuyên môn của ngành Tư pháp. Hai là, đối tượng quản lý của hộ tịch rộng hơn đối tượng quản lý của hộ khẩu. Ba là, tính chất của quản lý hộ khẩu có tính động còn quản lý hộ tịch có tính bền vững hơn. Bốn là, về cách thức quản lý thì theo quy định tại khoản 3 Điều 4 của Luật Hộ tịch, quy định: “Sổ hộ tịch là sổ giấy được lập và lưu giữ tại cơ quan đăng ký hộ tịch để xác nhận hoặc ghi các sự kiện hộ tịch” [38]. 10
- Năm là, mục đích quản lý của quản lý hộ tịch và quản lý hộ khẩu cũng khác nhau: quản lý hộ tịch là phương tiện để kiểm tra việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân còn quản lý hộ khẩu là để nắm được việc biến động về nơi thường trú, tạm trú của công dân. Tóm lại, các vấn đề về hộ tịch và hộ khẩu có những đặc điểm khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ gắn bó mật thiết với nhau, trong đó hoạt động đăng ký hộ tịch luôn là cơ sở, căn cứ làm phát sinh hoạt động đăng ký hộ khẩu và nó cũng là cơ sở, điều kiện để xem xét đăng ký hộ khẩu. 1.1.1.3. Đặc điểm quản lý nhà nước về hộ tịch Quản lý nhà nước đối với hộ tịch là một lĩnh vực quản lý thân trạng của công dân và thực trạng của từng gia đình với những nét chính yếu nhất. Vì vậy, hoạt động quản lý hộ tịch có những đặc điểm sau: Một là, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động mang tính quyền lực. Quyền lực trong quản lý nhà nước đối với hộ tịch thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng được sử dụng là Luật Hộ tịch. Hai là, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch có tính chấp hành và điều hành. Trên cơ sở quy định pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp luật. Tính chấp hành và điều hành của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch thể hiện trong việc những hoạt động này được tiến hành theo quy định pháp luật và nhằm mục đích thực hiện pháp luật, cho dù đó là hoạt động chủ động sáng tạo của chủ thể quản lý thì cũng không được vượt quá khuôn khổ pháp luật, điều hành cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn. Ba là, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính thống nhất, được tổ chức chặt chẽ và mang tính liên tục Công tác quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động mang tính thống nhất, bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về hộ tịch được tổ chức từ Trung ương tới địa phương, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn kịp 11
- thời, thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nước, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả nước, tránh được sự cục bộ phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền khác nhau. Chính đặc điểm đặc thù này được coi là cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ chức bộ máy quản lý hộ tịch gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội ngũ công chức năng động sáng tạo và chịu trách nhiệm đối với hoạt động của mình. Bốn là, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động được tiến hành bởi những chủ thể có quyền năng hành pháp là các công chức trong bộ máy nhà nước. Chủ thể chủ yếu thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch là các cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Cụ thể như sau: + Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch. + Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm vi cả nước. + Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Tư pháp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài. + Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ ngoại giao và các bộ, ngành liên quan tham mưu giúp Chính phủ bảo đảm kết nối, an ninh, an toàn thông tin Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử theo quy định. + Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch theo quy định. + Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương mình. Phòng Tư pháp giúp ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch theo phân cấp. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm về công tác đăng ký và quản lý hộ tịch của địa phương. + Ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương và thực hiện đăng ký các việc hộ tịch thuộc thẩm quyền của Ủy ban 12
- nhân dân cấp xã theo quy định. Cán bộ Tư pháp hộ tịch có trách nhiệm giúp ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nói trên trừ trường hợp giải quyết tố cáo. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm về tình hình đăng ký và quản lý hộ tịch của địa phương. 1.1.2. Vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch Trong xã hội hiện nay, khi quyền con người luôn được nhận thức như một giá trị cốt lõi của nhân loại thì cùng với nó, hầu hết các quốc gia đều nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của quản lý hộ tịch. Nếu như quản lý dân cư được coi là nội dung hàng đầu trong quản lý xã hội thì quản lý hộ tịch chính là khâu trung tâm của hoạt động quản lý dân cư. Hoạt động quản lý hộ tịch là cơ sở pháp lý để nhà nước ghi nhận và bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cho nên, quản lý hộ tịch luôn được Đảng và nhà nước ta đặc biệt chú trọng, là lĩnh vực có mối liên hệ mật thiết với hiệu quả của việc quản lý dân cư nói chung. Theo đó, vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch được thể hiện trên các mặt cơ bản sau: 1/ Hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch thể hiện tập trung nhất, sinh động sự tôn trọng và bảo đảm của Nhà nước đối với việc thực hiện một số quyền nhân thân cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và Bộ luật Dân sự hiện hành. Ở phương diện này, Đăng ký hộ tịch chính là phương tiện để người dân thực hiện, hưởng các quyền nhân thân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và trong Bộ luật Dân sự 2015 như: quyền đối với họ tên, quyền xác định lại dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền kết hôn, quyền được nuôi con nuôi Các dữ liệu về tình trạng nhân thân của mỗi cá nhân thể hiện trên các giấy tờ hộ tịch là sự khẳng định địa vị pháp lý của mỗi cá nhân, thể hiện khả năng, điều kiện cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật. 2/ Quản lý hộ tịch góp phần khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm trật tự xã hội. Hệ thống sổ bộ hộ tịch có thể giúp việc truy nguyên nguồn gốc của cá nhân một cách dễ dàng. Các giấy tờ hộ tịch do cơ quan có thẩm quyền cấp 13
- được lập theo trình tự và thủ tục chặt chẽ là sự khẳng định chính thức của nhà nước về giá trị pháp lý để cá nhân thực hiện các quan hệ trong gia đình và xã hội. 3/ Quản lý hộ tịch là cơ sở để nhà nước hoạch định chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách đó. Các dữ liệu hộ tịch được thống kê đầy đủ, chính xác, cập nhật thường xuyên, kịp thời và có hệ thống là nguồn thông tin hết sức quý báu hỗ trợ đắc lực cho việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng địa phương, từng giai đoạn phát triển, giúp tiết kiệm chi phí xã hội. Với ý nghĩa quan trọng như vậy nên trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, vấn đề xây dựng hệ thống quản lý hộ tịch và khai thác để phục vụ mục đích quản lý xã hội trên mọi lĩnh vực đời sống luôn được quan tâm, chú trọng. 1.2. Nội dung và h nh th c, phương pháp quản lý nhà nước về hộ tịch 1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch Quản lý nhà nước là việc tổ chức thực hiện pháp luật trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội, nên tương xứng với mỗi lĩnh vực có nội dung quản lý khác nhau. Nội dung của quản lý nhà nước rất đa dạng và phong phú, được tiến hành trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng Đối tượng của quản lý nhà nước về hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận và quản lý việc xác nhận các sự kiện hộ tịch như: sinh, tử, kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, nhận cha, mẹ, con, thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch Còn nội dung quản lý tập trung chủ yếu vào các hoạt động: Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch; xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, kế hoạch, định hướng về hoạt động hộ tịch; phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch; thực hiện đăng ký hộ tịch; quản lý hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động hộ tịch; đào tạo, bồi dư ng, hướng dẫn nghiệp vụ về hộ tịch; kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động hộ tịch; bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện cho một số hoạt động hộ tịch; hợp tác quốc tế về hộ tịch; thống kê 14
- nhà nước về hộ tịch; tổng kết hoạt động hộ tịch; báo cáo cơ quan nhà nước cấp trên về hoạt động hộ tịch. 1.2.2. Hình thức quản lý nhà nước về hộ tịch Quản lý nhà nước về hộ tịch thông qua các hình thức sau đây: - Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch (Ban hành luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư ); - Áp dụng pháp luật về hộ tịch trong các trường hợp cụ thể; - Áp dụng các biện pháp tổ chức trực tiếp như tổ chức việc rà soát, thống kê, yêu cầu các cá nhân thực hiện quy định pháp luật về hộ tịch; - Thực hiện những hoạt động mang tính chất pháp lý khác như tuyên truyền, giáo dục pháp luật về hộ tịch, tổ chức hội nghị về công tác hộ tịch, tập huấn cho cán bộ, công chức về công tác hộ tịch; - Thực hiện những tác động nghiệp vụ - kỹ thuật (ghi chú, lưu trữ sổ sách, số liệu về hộ tịch, viết báo cáo ) 1.2.3. Phương pháp quản lý nhà nước về hộ tịch 1.2.3.1. Khái niệm và phân loại phương pháp quản lý hành chính nhà nước Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là cách thức giải quyết những vấn đề cụ thể phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước và cũng là cách thức tổ chức hoạt động của chính chủ thể quản lý. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước vừa là cách thức thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương và cũng vừa là cách thực tác động của chủ thể quản lý hành chính nhà nước lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích quản lý và hành vi xử sự cần thiết của cá nhân trong xã hội. Tóm lại, phương pháp quản lý hành chính nhà nước vừa là cách thức tác động của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích quản lý và hành vi xử sự cần thiết vừa là cách thức thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước. Chính vì vậy trên thực tế phương pháp quản lý hành chính có thể tác động đến hai khả năng sau: 15