Luận văn Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

pdf 89 trang vuhoa 24/08/2022 9961
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_dao_tao_nghe_cho_lao_dong_nong.pdf

Nội dung text: Luận văn Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

  1. VIỆN HÀN LẦM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ___ NGUYỄN MINH TRIỆU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2020
  2. VIỆN HÀN LẦM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ___ NGUYỄN MINH TRIỆU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ANH HÙNG HÀ NỘI - NĂM 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công bố. Bình Định, ngày tháng năm 2020 Tác giả Nguyễn Minh Triệu
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn 8 1.2. Hình thức và nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn 17 1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn 27 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH 31 2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước đào tạo nghề cho lao động nông thôn 31 2.2. Khái quát về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định 45 2.3. Đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định 56 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH 67 3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định 67 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn 70
  5. KẾT LUẬN 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 CBCC Cán bộ, công chức 2 CCHC Cải cách hành chính 3 ĐTN Đào tạo nghề 4 HCNN Hành chính nhà nước 5 HĐND Hội đồng nhân dân 6 LĐ Lao động 7 LĐNT Lao động nông thôn 8 NĐ Nghị định 9 NQ Nghị quyết 10 QLNN Quản lý nhà nước 11 QĐ Quyết định 12 QPPP Quy phạm pháp luật 13 TTg Thủ tướng 14 UBND Ủy ban nhân dân 15 XHCN Xã hội chủ nghĩa
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề trên địa bàn 2.1 50 huyện Phù Mỹ Mức độ hài lòng thí điểm chính sách xuất khẩu lao 2.2 động đối với LĐNT năm 2018 của huyện Phù Mỹ, tỉnh 57 Bình Định DANH MỤC CÁC HÌNH Số hiệu Tên hình Trang hình Tỉ lệ học nghề theo phân loại nghề nông nghiệp và phi 2.1 nông nghiệp so với số người được đào tạo tại huyện 53 Phù Mỹ giai đoạn 2016 -2019 Kết quả dạy nghề đào tạo so với kế hoạch ba năm tại 2.2 54 huyện Phù Mỹ giai đoạn 2016 -2019 Tỷ lệ người có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ 2.3 có năng suất, thu nhập cao hơn huyện Phù Mỹ giai 55 đoạn 2016 -2019
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đào tạo nghề cho lao động nông thôn (ĐTN cho LĐNT) đã được Đảng và Nhà nước ta lồng ghép vào Chương trình mục tiêu QG về xây dựng nông thôn mới (NTM). Nhờ đó, kể từ ngày 27 tháng 11 năm 2009 có Quyết định số 1956/QĐ-TTg về Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu của công tác đào tạo nghề nhằm phục vụ nhân lực cho xây dựng NTM, đồng thời phục vụ nhân lực cho tái cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp. 10 năm thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, các địa phương trong cả nước đã tích cực triển khai các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Nhận thức của các cấp chính quyền và người dân với công tác ĐTN cho LĐNT có nhiều thay đổi theo hướng tích cực hơn. Nhiều địa phương đã huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các nguồn lực xã hội đầu tư cho công tác đào tạo nghề và hỗ trợ, tạo điều kiện giúp người sau học nghề tổ chức sản xuất, kinh doanh. “Mặc dù đạt được những kết quả nhất định nhưng công tác ĐTN cho LĐNT vẫn gặp nhiều khó khăn như: “Công tác ĐTN cho LĐNT chưa được coi trọng đúng mức; nhiều bộ, ngành, địa phương, cán bộ và xã hội nhận thức chưa đầy đủ về ĐTN cho LĐNT, coi đào tạo nghề chỉ là cứu cánh, có tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ thống; hiệu quả ĐTN cho LĐNT không đồng đều giữa các vùng trong cả nước; hoạt động đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề cho các trung tâm cấp huyện chưa được quan tâm; việc xác định danh mục nghề đào tạo cho lao động nông thôn vẫn còn dàn trải, nhất là danh mục nghề nông nghiệp; một số địa phương chưa xây dựng, phê duyệt định mức chi phí đào tạo, xây dựng, phê duyệt chuẩn đầu ra cho các nghề đào tạo Bên cạnh đó, nhiều lao động nông thôn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của đào tạo nghề; đối tượng lao động nông thôn sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm còn rất hạn chế nên việc phát huy hiệu quả học nghề chưa cao. Lao động học một số nghề phi nông nghiệp chưa tìm được việc làm, do thị trường tại chỗ không có nhu cầu và do tay 1
  9. nghề của người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế; một số lao động học nghề nông nghiệp, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ rất khó khăn Công tác dự báo nhu cầu đào tạo nghề, hỗ trợ việc làm và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân chưa tốt. Chưa có cơ chế, chính sách gắn kết chặt chẽ các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, người sử dụng lao động. Nguồn kinh phí dành cho đào tạo nghề ít, giải ngân chậm, chưa lồng ghép tốt giữa các chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư cho nông dân và nông thôn” [13;tr.21]. Đặc biệt, huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định. “Phù Mỹ giáp các huyện Hoài Nhơn phía bắc, nam và tây nam giáp Phù Cát,tây bắc giáp Hoài Ân và biển đông ở phía đông. Theo thống kê năm 2005 thì huyện Phù Mỹ có diện tích là 548,9km2 với dân số khoảng 188.000 người, trong đó riêng số nữ chiếm tới 96.700 người. Mật độ dân số là 342 người/ km2” [20;tr.5]. Huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định thực hiện tốt kế hoạch đã được phê duyệt; đổi mới mạnh mẽ các hoạt động phục vụ công tác ĐTN cho LĐNT. Trong đó, “cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp tục thực hiện tốt kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo Quyết định 1956/QĐ-TTg và Quyết định số 971/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các bộ, ngành, địa phương chủ động sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (Khóa XII) về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”; đổi mới công tác quản lý, tăng cường các điều kiện bảo đảm chương trình ĐTN cho LĐNT gắn với chương trình xây dựng NTM; lựa chọn nghề đào tạo phải gắn với giải quyết việc làm. Chú trọng hơn nữa công tác quản lý chất lượng đào tạo nghề; bổ sung danh mục nghề; hoàn thiện chương trình đào tạo nghề hiện có và xây dựng một số chương trình đào tạo nghề phi nông nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao phù hợp với từng đối tượng người học, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động”. Do vậy, tác giả/học viên chọn: “Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định" làm đề tài cho luận văn của mình. 2
  10. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến thời điểm hiện tại, vấn đề Quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định vẫn còn là vấn đề rất mới mẻ đối với khoa học pháp lý, công tác quản lý nhà nước, học viên và các chủ thể áp dụng pháp luật khi thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT. Bởi lý do là tác giả có tìm hiểu các công trình nghiên cứu về đào tạo nghề có liên quan đến đối tượng là lao động nông thôn ở vài góc độ khác nhau, cụ thể đó là: - Phạm Trường Giang (2010), Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đào tạo nghề lao động nông thôn Việt Nam. Luận án Tiến sĩ Quản lý công, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Luận án đã nghiên cứu sự phối hợp giữa các bộ phận trong hệ thống quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT, tham khảo mô hình quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT ở một số nước phát triển và đề xuất giải pháp thích hợp hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT tại Việt Nam. - Nguyễn Hữu Vinh ( năm 2010), Giải pháp nhằm hạn chế lao động chưa qua đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Hà Nội. Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành kinh tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. Luận văn đã phân tích nguyên nhân làm giảm ĐTN cho LĐNT và kiến nghị các giải pháp đảm bảo về ĐTN cho LĐNT. - Đề án khoa học (2010 - 2012), Xây dựng quy định quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Chủ nhiệm đề án: Trần Thị Hoa, Bộ LĐXH. Đề án đã nghiên cứu và đánh giá tình hình quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT trong thời gian 03 năm 2010 - 2012, xác định những nguyên nhân khách quan, chủ quan đồng thời đề xuất các giải pháp quản lý có hiệu quả nhằm quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT như: + Hoàn thiện Luật và các văn bản hướng dẫn có liên quan, giao thẩm quyền quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT. + Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương trong công tác ĐTN cho LĐNT. 3
  11. + Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT Bên cạnh đó, có đề tài như Cơ sở khoa học hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn (Chủ nhiệm đề tài: Tiến sỹ Dương Xuân Triệu, Giám đốc Trung tâm Thông tin Khoa học BLĐXH, năm 1999, Đề tài khoa học); Thực trạng đào tạo nghề cho lao động nông thôn và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hiện nay (Nông Hữu Tùng, Học viện Hành chính Quốc gia, 2015, Luận văn thạc sĩ Luật học); Hoàn thiện quản lý quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam (Trần Quốc Túy, Luận văn thạc sĩ luật học ĐH Luật tp.HCM, năm 2015); Hoàn thiện công tác quản lý đào tạo nghề cho lao động khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Gia Lai (Trần Ngọc Tuấn, Đại học Đà Nẵng, 2017, Luận văn thạc sỹ); Công tác quản lý quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp (Lại Hữu Hiệp, Đại học Công đoàn, 2013, Chuyên đề tốt nghiệp); Hoàn thiện công tác quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Bình Định (Võ Năm, Đại học Đà Nẵng, 2016, Luận văn thạc sỹ). Các công trình nghiên cứu khoa học kể trên hầu hết đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT trên phương diện kinh tế lao động, hành chính công Tuy nhiên, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT trên phương diện luật học, các công trình kể trên đều có đề cập phần nào và đưa ra một số đánh giá, nhận định về ưu, nhược điểm của các quy định của pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT. Qua khảo sát, có rất ít các nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp về quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn của một huyện như huyện Phù Mỹ (Bình Định). Do vậy, trên cơ sở thực tiễn công tác, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định" để nghiên cứu sâu vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 4
  12. Thông qua việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về pháp luật quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT. Qua đó, phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định và xác định nguyên nhân của hạn chế và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đặt ra, tác giả thực hiện những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu những khái niệm cơ bản và phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định pháp luật quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT; - Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT gắn với thực tiễn ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định và hệ thống pháp luật có liên quan hiện nay. - Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật. - Đưa ra phương hướng và một số đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định hiện nay . 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Các quan điểm, các quy định về pháp luật quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định và các yếu tố có liên quan tới pháp luật quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT và thực tiễn tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định hiện nay . 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu về không gian: Thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu có đề cập một số tình hình, kết quả thực hiện giai đoạn 2015 đến tháng 6 năm 2020 theo nhiệm kỳ Đại hội Đảng các cấp và chiến lược phát triển KT-XH của huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định cũng như tỉnh Bình Định hiện nay. 5
  13. Phạm vi nghiên cứu thời gian: Từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Muốn đáp ứng mục tiêu đề tài này, luận văn cần thực hiện từ cơ sở phương pháp duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước - pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng ta và Nhà nước ta. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài này, luận văn cố gắng kết hợp việc sử dụng một số phương pháp chủ yếu gồm có: - Phương pháp phân tích - tổng hợp: được sử dụng trong hầu hết các nội dung của luận văn nhằm phân tích làm rõ các khái niệm, làm rõ quy định của pháp luật, dẫn chứng các số liệu cần phân tích, - Phương pháp thống kê - so sánh: nhằm làm rõ các quy định của luật pháp có liên quan, thể hiện nội dung của Chương 2 luận văn. - Phương pháp diễn giải và quy nạp: để diễn giải những nội dung và các số liệu trích dẫn nhằm làm rõ các vấn đề nghiên cứu của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần vào việc xây dựng luận cứ khoa học trong quá trình hoàn thiện pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. - Góp phần giúp chính quyền và các cơ quan ban ngành nghiên cứu hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong gian đoạn tới. 7. Kết cấu của luận văn Bên cạnh mục mở đầu, mục kết luận và mục tài liệu cần tham khảo, Luận văn có kết cấu cơ bản với nội dung có ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT. 6
  14. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT. 7
  15. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn 1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn ĐTN cho LĐNT giữ vị trí, vai trò quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Chất lượng nguồn nhân lực cho LĐNT sẽ là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh và sự thành công của mỗi quốc gia như một quốc gia nông nghiệp, nông thôn như Việt Nam. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho LĐNT, tạo ra người lao động có kỹ năng nghề, có khả năng thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của công nghệ thì đào tạo nghề được xem là một trong những đích đến quan trọng. Với ý nghĩa đó, lao động nông thôn đã được thừa nhận trong hành lang pháp lý quốc tế và trong hệ thống pháp luật quốc gia của các nước. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ban hành rất nhiều văn bản điều chỉnh mối quan hệ liên quan đến đào tạo nghề như: Công ước số 168 về xúc tiến việc làm và bảo vệ việc chống lại thất nghiệp; Công ước số 122 năm 1964 về chính sách việc làm; Công ước số 142 năm 1974 về vai trò của hướng nghiệp và đào tạo nghề trong việc khai thác tài nguyên nhân lực; Công ước số 140 năm 1974 về nghỉ việc để học tập có hưởng lương; Công ước số 159 năm 1983 về tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của những người có khuyết tật; Khuyến nghị số 83 về tổ chức dịch vụ việc làm; Khuyến nghị số 136 về những chương trình đặc biệt về việc làm và đào tạo cho thanh niên nhằm mục đích phát triển; Khuyến nghị số 169 năm 1964 về chính sách việc làm; Khuyến nghị số 189 năm 1998 về các điều kiện chung khuyến trợ tạo việc làm tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ Đặc biệt là Công ước 142 năm 1974 về vai trò của hướng nghiệp và đào tạo nghề trong việc khai thác tài nguyên nhân lực. Công ước này là một văn kiện pháp 8
  16. lý quan trọng quy định về trách nhiệm Nhà nước trong việc chấp thuận và triển khai các chính sách, chương trình hoàn chỉnh, có phối hợp về hướng nghiệp, ĐTN, mối liên hệ chặt chẽ giữa hướng nghiệp, ĐTN với giải quyết việc làm cho người lao động. Ngoài ra, Công ước cũng quy định việc hoàn thiện những hệ thống ĐTN, mở rộng hệ thống hướng nghiệp và hệ thống thông tin truyền thông về việc làm. Công ước cũng nhấn mạnh vai trò của thông tin và hướng nghiệp, mối quan hệ của người sử dụng lao động và người lao động trong thực hiện chính sách ĐTN. “Trong hành lang pháp lý của các quốc gia, ĐTN cho LĐNT có thể được các quốc gia ghi nhận rõ trong Bộ luật Lao động như Philippin, Pháp, Trung Quốc, Indonexia hoặc được quy định thông qua Luật đơn hành như Nhật Bản (Luật An ninh về việc làm năm 1974); Trung Quốc (Luật xúc tiến việc làm năm 2007); Mỹ (Luật việc làm và ĐTN cho LĐNT năm 1973); Ba Lan (Luật việc làm và thất nghiệp năm 1991) Pháp luật của Indonesia quy định, ĐTN cho LĐNT là tất cả các hoạt động nhằm cung cấp cho người lao động/công nhân hoặc nhân công tiềm năng có điều kiện và định hướng để tiếp thu, nâng cao và phát triển năng lực nghề, năng suất, kỷ luật, tinh thần, thái độ lao động, đạo đức nghề đạt đến một mức độ nhất định về kỹ năng, trình độ chuyên môn phù hợp với yêu cầu, tiêu chuẩn của một vị trí công tác hay một công việc” [9,tr.52]. “Ngoài ra, pháp luật Indonesia cũng quy định về năng lực nghề của người học nghề. Theo đó, năng lực nghề được xác định là khả năng của mỗi cá nhân về các mặt kiến thức chuyên môn, kỹ năng, tinh thần, thái độ làm việc tương ứng với các chuẩn mực đã định. Pháp luật của Philipin cũng quy định về ĐTN cho LĐNT, trong đó ĐTN cho LĐNT nhằm giúp nhu cầu của nền kinh tế về nhân lực đã qua đào tạo và thiết lập một chương trình quốc gia về học nghề thực hành với sự tham gia của người sử dụng lao động, người lao động và các cơ quan Chính phủ và phi Chính phủ, thiết lập các tiêu chuẩn học nghề thực hành để bảo vệ người học nghề thực hành. Khái niệm ĐTN cho LĐNT được định nghĩa dưới hình thức là học nghề thực hành. Theo đó, học nghề thực hành được hiểu là đào tạo thực hành tại chỗ, vừa 9
  17. học vừa làm, có bổ sung sự hướng dẫn lý thuyết liên quan. Đề cập đến ĐTN cho LĐNT, pháp luật của Lào lại quy định về xây dựng và phát triển các kỹ năng lao động. Theo đó, xây dựng các kỹ năng lao động được hiểu là cung cấp đào tạo nghiệp vụ cơ bản cho người lao động chưa từng được đào tạo nhằm xây dựng năng lực làm việc cho họ. Việc xây dựng và phát triển các kỹ năng lao động được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: học tập tại trường, đào tạo tại các trung tâm phát triển kỹ năng lao động, đào tạo thực hành nghề, khảo sát thực tế, các bài học trao đổi và các hoạt động khác trong việc nâng cao các kỹ năng lao động” [32;tr.41]. Đối với Việt Nam, thuật ngữ ĐTN cho LĐNT được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt, “đào tạo” được hiểu là làm cho trở thành người có năng lực, có khả năng làm việc theo những tiêu chuẩn nhất định.“Khái niệm nghề cũng được Từ điển Tiếng Việt định nghĩa. Qua đó xác định rằng, nghề có thể được hiểu là chuyên làm công việc nào đó trên cơ sở phân công lao động xã hội. Khái niệm nghề cũng được quan niệm là “những chuyên môn có những đặc điểm chung, gần giống nhau được xếp thành một nhóm chuyên môn. Nghề vốn dĩ là tập hợp của một nhóm chuyên môn có cùng loại. Với thuật ngữ chuyên môn dung để chỉ một dạng lao động đặc trưng mà con người sử dụng sức mạnh của mình nhằm tác động các đối tượng cụ thể để làm thay đổi nó theo hướng phục vụ yêu cầu, mục đích cũng như lợi ích mang lại. Nghề là khái niệm dùng để chỉ một dạng xác định hoạt động trong hệ thống phân công lao động xã hội của một người lao động, bao gồm sự hiểu biết kiến thức, có kỹ năng cần thiết nhất định” [15;tr.24] Theo đó, ĐTN cho LĐNT là quá trình hoạt động định hướng, chỉ dẫn giúp cho người lao động nông thôn có kiến thức và năng lực, kỹ năng cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội nhất định. ĐTN cho LĐNT cũng được hiểu là quá trình trang bị cho người lao động các kiến thức, kỹ năng cần thiết để người lao động thực hiện được một công việc đáp ứng yêu cầu chuyên môn. 10
  18. Dưới góc độ pháp lý, ĐTN cho LĐNT được hiểu là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học. Từ đây, đào tạo nghề cho lao động nông thôn được hiểu là hoạt động dạy - học để trang bị cho người học sau tốt nghiệp đã có các kiến thức và kỹ năng căn bản cùng tác phong, thái độ nghề nghiệp cần thiết nhằm tìm kiếm được việc làm hoặc tự tạo việc làm để sinh kế. Xuất phát từ quan niệm đó, cần có sự quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT. Quản lý nhà nước với đặc trưng là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan hành chính nhà nước và một số tổ chức được nhà nước ủy quyền quản lý theo luật định nhằm thi hành luật để thực hiện chức năng quản lý và tổ chức, điều hành của nhà nước đối với quá trình kinh tế - xã hội. Đối với quản lý hành chính nhà nước đó là quản lý của khối hành pháp nhà nước trong quan hệ chấp hành, điều hành trên mọi lĩnh vực theo thẩm quyền nhà nước. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, gồm có: Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương các cấp (mà không kể các tổ chức thuộc nhà nước nằm trong cơ cấu nhà nước ví như doanh nghiệp). QLNN được hiểu là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhằm điều chỉnh những hành vi của con người do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, để thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người cũng như duy trì môi trường xã hội ổn định và phát triển. ĐTN đối với LĐNT là một trong các hoạt động của ngành giáo dục - đào tạo. Quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là một hiện tượng gắn liền với xã hội khi xuất hiện có thị trường lao động, xuất hiện ở đâu và khi nào mà ở đó lao động xã hội đã đạt đến một trình độ xã hội hóa tương đối cao. Quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT xuất hiện và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy nhà nước, là sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nghề cho LĐNT. Theo cách 11
  19. hiểu này, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nước là các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ Trung ương tới địa phương được giao nhiệm vụ QLNN về ĐTN cho LĐNT theo quy định của pháp luật; chủ thể quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là các cơ quan, công chức trong bộ máy nhà nước được trao quyền lực công; đối tượng quản lý của nhà nước là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia khi tham gia vào quan hệ pháp luật về ĐTN cho LĐNT theo tinh thần Luật Giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13 và Nghị định 48/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Giáo dục nghề nghiệp đã quy định rõ về tổ chức bộ máy QLNN về ĐTN, theo đó Chính phủ thống nhất thực hiện công tác QLNN về ĐTN trên cả nước; quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT có tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao và mục tiêu của quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển bền vững trong xã hội. Quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT ở nghĩa hẹp chủ yếu đó là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với quá trình hoạt động kinh tế - xã hội và các hành vi của con người theo luật định để đạt các mục tiêu và yêu cầu nhiệm vụ của quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT. Ngoài ra, cơ quan nhà nước về cơ bản là thực hiện những hoạt động chấp hành, điều hành với tính chất hành chính nhà nước để xác lập tổ chức bộ máy, củng cố chế độ nội bộ trong công tác của mình Ví như, việc ra quyết định chia tách, thành lập, sáp nhập đối với những tổ chức thuộc bộ máy của mình; quy hoạch, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức Theo cách hiểu này, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành chính nhà nước. Đây là một dạng đặc trưng trong hoạt động mang tính quyền lực nhà nước về đào tạo nghề, chúng được tiến hành bởi các chủ thể có quyền năng về hành pháp – với đặc trưng hoạt động chấp hành và điều hành được tổ chức thống nhất, chặt chẽ. Trên cơ sở các chủ thể có thẩm quyền và chủ thể tham gia theo nghĩa hẹp của quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT, ta có thể hiểu: quản lý nhà nước về ĐTN cho 12
  20. LĐNT là hoạt động quản lý theo ngành do các cơ quan chức năng thực hiện, sử dụng quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động ĐTN cho LĐNT nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra. Theo đó, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là những quy tắc xử sự điều chỉnh về các nguyên tắc, hệ thống cơ quan pháp lý và nội dung quản lý đối với ĐTN cho LĐNT. 1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn Thứ nhất, về chủ thể quản lý NHà nước là các cơ quan trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT theo quy định của pháp luật. Thứ hai, đối tượng quản lý Nhà nước là mọi hoạt động của quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT ở tất cả các cơ sở đào tạo nghề. Theo quy định pháp luật hiện hành thì cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trường trung cấp, và trường cao đẳng. Trong đó, đối với giáo dục nghề nghiệp lại là một bậc học căn bản của hệ thống giáo dục quốc dân để đào tạo cho người lao động đạt ở các cấp trình độ như: sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và những chương trình đào tạo nghề nghiệp khác, nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực để phục vụ trực tiếp trong hoạt động SX-KD và dịch vụ. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp được thực hiện dưới hai hình thức, đó là: đào tạo thường xuyên và đào tạo chính quy. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014 thì cơ sở giáo dục nghề nghiệp được tổ chức theo các loại hình sau đây: - Cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc khu vực công lập đó chính là cơ sở giáo dục nghề nghiệp do Nhà nước sở hữu, được nhà nước đầu tư và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật; - Cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục là cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc sở hữu của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân 13
  21. hoặc cá nhân, do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất; - Cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm cơ sở giáo dục nghề nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; cơ sở giáo dục nghề nghiệp liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Thứ ba, mục tiêu quản lý là đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp cho LĐNT. “Khu vực nông thôn nước ta chiếm khoảng 70% dân số và hơn 50% lực lượng lao động xã hội. LĐNT chủ yếu làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; hằng năm cung cấp nguồn lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Tuy nhiên, LĐNT trình độ nghề nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. LĐNT chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu lao động cả nước và có vị trí trọng tâm trong phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Do đó, ĐTN cho LĐNT là một nhiệm vụ quan trọng” [14,tr.48]. Mục tiêu quản lý là đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp cho LĐNT góp phần nâng cao chất lượng lao động, tạo cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập. Đồng thời, góp phần thay đổi vị thế của người lao động ở nông thôn nước ta bởi LĐNT vốn không được đánh giá cao về vị thế chính trị - xã hội, do chủ yếu sản xuất dựa trên cách thức lạc hậu, manh mún nên họ không đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Trong quá trình ĐTN, người lao động được trang bị kiến thức về sản xuất các ngành nghề, kiến thức về khoa học - công nghệ, thị trường, hội nhập Đó là những tri thức quan trọng giúp người nông dân từng bước cải tiến phương thức sản xuất theo hướng tiên tiến, hiện đại; từ đó thay đổi vị thế chính trị - xã hội của mình. 1.1.3. Ý nghĩa quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn Thứ nhất, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là một nhu cầu khách quan của hoạt động quản lý nhà nước về nguồn nhân lực. “Không phải đến bây giờ vấn đề ĐTN cho LĐNT, học nghề mới được đề cập đến mà theo một tư liệu nước ngoài từ thế kỷ XVIII trước công nguyên, chế độ 14
  22. ĐTN cho LĐNT đã được ghi nhận trong Bộ luật của Vương quốc Babilon. Ở Hy Lạp và La Mã cổ đại, chế độ ĐTN cho LĐNT đã được luật hoá và áp dụng tương đối phổ biến. Thời trung cổ ở Châu Âu các hang hội đã áp dụng một loạt các chế độ ĐTN cho LĐNT nhằm bồi dưỡng kỹ năng sản xuất, tri thức nghiệp vụ cho người làm công trong thực tế sản xuất và công tác” [14,tr.9]. Ở Việt Nam, ĐTN cho LĐNT đang trong quá trình phát triển. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đã và đang hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu và thực hiện Chính sách ĐTN cho LĐNT được triển khai nhất quán từ TW đến các địa phương, trên cơ sở các văn bản về chủ trương của Đảng và chính sách cụ thể của nhà nước như: Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của BCH Trung ương Đảng, Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án ĐTN cho LĐNT đến năm 2020, Quyết định 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/6/2010 phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 -2020” với các nhiệm vụ, mục tiêu trên tất cả các lĩnh vực về kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng ; trong đó có việc tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động ở vùng nông thôn vì vậy nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ phổ thông cũng như lao động trình độ cao khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nước ta là rất lớn nên hoạt động ĐTN cho LĐNT diễn ngày một quy mô với số lượng các trung tâm, trường ĐTN cho LĐNT và doanh nghiệp ĐTN cho LĐNT mở rộng. Việt Nam là một quốc gia có lực lượng lao động trẻ, trình độ lao động chưa đồng đều tại các khu vực đô thị khác nhau cũng như các khu kinh tế, khu chế suất, khu công nghiệp. Do đó, sự phát triển của hoạt động ĐTN cho LĐNT là một xu hướng khách quan, phổ biến, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường lao động. Hoạt động ĐTN cho LĐNT theo sự phát triển gắn với nhu cầu xã hội và thị trường lao động, nhất là các ngành trọng điểm đang là vấn đề được nhà nước ta quan tâm. Phát triển ĐTN cho LĐNT được xem là “xương sống” để phát triển nguồn nhân lực. Phát triển ĐTN cho LĐNT là nội dung quan trọng của chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia. Chính vì vậy, ĐTN cho LĐNT gắn với yêu cầu thực tế là 15