Luận văn Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Cà Mau

pdf 88 trang vuhoa 25/08/2022 6640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_cuong_che_thi_hanh_an_dan_su_tu.pdf

Nội dung text: Luận văn Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Cà Mau

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Lê Hoàng Đảm QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Lê Hoàng Đảm QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LƯƠNG THANH CƯỜNG HÀ NỘI - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn không trùng lặp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố. Hà Nội, ngày 11 tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Lê Hoàng Đảm
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 8 1.1. Khái quát chung về cưỡng chế Thi hành án dân sự 8 1.2. Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự 13 1.3. Yêu cầu về tính hợp pháp, hợp lý của quản lý nhà nước về cưỡng chế Thi hành án dân sự 30 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH CÀ MAU 37 2.1. Thực trạng các yếu tố cấu thành quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau 37 2.2. Mức độ đáp ứng yêu cầu về tính hợp pháp, hợp lý của quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau 53 2.3. Nhận xét về quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau 55 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU 60 3.1. Định hướng bảo đảm quản lý nhà nước về cưỡng chế Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Cà Mau 60 3.2. Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về cưỡng chế Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Cà Mau 65 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCT: Bộ Chính trị BLDS: Bộ luật dân sự BLHS: Bộ luật hình sự BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự BMNN: Bộ máy Nhà nước BPCC: Biện pháp cưỡng chế BPCCTHADS : Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự BTP: Bộ Tư pháp CCTHADS: Cưỡng chế thi hành án dân sự CHV: Chấp hành viên KSV: Kiểm sát viên LHP: Luật hiến pháp LTHADS: Luật thi hành án dân sự NN và PL : Nhà nước và Pháp Luật TAND: Tòa án nhân dân TP : Thẩm phán TPL: Thừa phát lại THA: Thi hành án THADS : Thi hành án dân sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Biên chế cán bộ, công chức và người lao động của THADS toàn tỉnh Cà Mau từ năm 2013 đến năm 2017 40 Bảng 2.2: Trình độ công chức của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau từ năm 2013 đến năm 2017 42 Bảng 2.3: Quy trình, thủ tục cưỡng chế THADS tỉnh Cà Mau từ năm 2013 đến năm 2017 50 Bảng 2.4: Công tác giám sát tại tỉnh Cà Mau từ năm 2013 đến năm 2017 . 52 Bảng 2.5: Công tác kiểm sát tại tỉnh Cà Mau từ năm 2013 đến năm 2017 .54
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động thi hành án dân sự là giai đoạn cuối của quá trình tố tụng, đảm bảo cho Bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành và có hiệu lực trên thực tế nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Trong hoạt động tư pháp, việc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu tất yếu khách quan, là nguyên tắc hiến định chỉ đạo toàn bộ tổ chức và hoạt động thi hành án nói chung và hoạt động thi hành án dân sự nói riêng. Điều 106 Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [61]. Do vị trí, vai trò quan trọng của công tác thi hành án Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 đã đề ra nhiệm vụ chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án trên toàn quốc nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác này, bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước và mọi tổ chức công dân. Để triển khai thực hiện nhiệm vụ trên, Chính phủ giao Bộ Tư pháp tiến hành dự thảo Bộ Luật Thi hành án. Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước Quốc hội đã tách thành hai Luật riêng lẻ: Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Riêng việc thi hành án các bản án hành chính được quy định trong Luật Tố tụng hành chính năm 2010. Sau gần 10 năm thi hành, LTHADS đã có nhiều tác động tích cực và hiệu quả đối với đời sống kinh tế - xã hội và đời sống chính trị của đất nước. Đã tạo được hành lang pháp lý cơ bản, bảo đảm cho công tác thi hành án dân sự tiến hành có 1
  8. hiệu quả. Hệ thống tổ chức THADS được thành lập phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và tính chất đặc thù của THADS với mô hình: Tổng Cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện trực thuộc Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh. Việc tổ chức hệ thống thi hành án dân sự theo ngành dọc đã tăng cường vị thế cơ quan thi hành án dân sự, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, đồng thời tạo điều kiện cho việc quản lý, chỉ đạo chuyên ngành thống nhất từ Trung ương đến địa phương cấp huyện, nhưng không xa rời sự lãnh, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương với công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong thi hành án dân sự vẫn còn những bất cập chưa được giải quyết kịp thời như: Hệ thống văn bản pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật thi hành án dân sự nói riêng vẫn còn nhiều khoảng trống, chưa điều chỉnh hết các quan hệ phức tạp nảy sinh trong thực tiễn THADS; công tác quản lý Nhà nước về THADS còn nhiều bất cập, chưa phù hợp và không phát huy được hiệu quả, đặc biệt là trong công tác quản lý về CCTHADS còn nhiều hạn chế, thiếu sót gây hậu quả nghiêm trọng. Do đó, đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của thi hành án dân sự. Nhiều Bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng không được tổ chức thi hành dứt điểm, đặc biệt, tình trạng vi phạm pháp luật trong tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự vẫn diễn ra nhiều. Từ những phân tích trên cho thấy công tác quản lý về cưỡng chế thi hành án dân sự có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, là mối quan tâm của dư luận và toàn xã hội. Với những lý do trên, người viết quyết định chọn đề tài “Quản lý Nhà nước về cưỡng chế Thi hành án dân sự - từ thực tiễn tỉnh Cà Mau” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước tháng 7 năm 1993, hoạt động thi hành án dân sự chưa được nghiên cứu nhiều, chỉ có rất ít những công trình khoa học hay các bài nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này. Chỉ sau khi công tác THADS chuyển giao cho Chính phủ thống nhất quản lý, nhất là trong tiến trình cải cách tư pháp, thực tiễn đòi 2
  9. hỏi cần phải giải quyết, thì các vấn đề liên quan đến công tác THADS mới được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện. Trong các công trình nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án phải kể đến: - Đề tài cấp NN: “ Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động THA ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư pháp chủ trì, 1998 [9]. - Đề tài: “THADS, thực trạng và hướng hoàn thiện của dự án VIE/98/001” do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án, năm 2009 [10]. - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”, mã số 96-98-027/ĐT do Cục THADS và BTP chủ trì thực hiện năm 2010 [33]. - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ năm 2010: “Kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ THA để thực hiện có hiệu quả LTHA năm 2008”, do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện làm chủ nhiệm đề tài [53]. - Đề án nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định TPL”, mã số 95-98-114/ĐT do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện, 2010 [96]. - Đề án số: 02/ĐA-UBND ngày 01/11/2016 của UBND tỉnh Cà Mau: “Đề án thực hiện chế định thừa phát lại trên địa bàn tỉnh Cà Mau đến năm 2020”[88]. - Luận án Tiến sĩ của nghiên cứu sinh Nguyễn Thanh Thuỷ với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008 [76]. - Luận án Tiến sĩ của nghiên cứu sinh Nguyễn Quang Thái với đề tài “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008 [72]. - Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Công Long, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000 [52]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội” của tác giả Tăng Đình Năm, Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2006 [59]; 3
  10. - Luận văn thạc sỹ luật của tác giả Nguyễn Trọng Tân “Áp dụng pháp luật trong cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008 [71]. - Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Phan Thị Thu Hằng “Quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Học viện khoa học xã hội năm 2011 [47]. - Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Phạm Văn Hữu “ Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”, Học viện khoa học xã hội năm 2011 [48]. - Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Chiến “Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”, Học viện khoa học xã hội năm 2012 [34]. - Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Phạm Huy Ân “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, Học viện khoa xã hội năm 2012 [1]. - Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Trần Phi Hùng “Pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Học viện khoa học xã hội năm 2012 [51]. - Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Giáp Văn Bền “Quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”, Học viện khoa học xã hội năm 2013 [21]. - Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Trần Minh Nam “Tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Học viện khoa học xã hội năm 2013 [60]. Những công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về hiệu quả thực hiện pháp luật nói chung và hiệu quả THADS nói riêng ở nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực trạng hiệu quả công tác quản lý nhà nước về cưỡng chế trong THADS, lý giải các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về CCTHADS tại một địa phương cụ thể là tỉnh Cà Mau một cách toàn diện, chuyên sâu và trong điều kiện pháp luật THADS đã có nhiều thay đổi về căn bản như hiện nay. 4
  11. Để nghiên cứu và thực hiện đề tài “Quản lý Nhà nước về cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Cà Mau” Tôi đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố trên đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài là đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Cà Mau. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: - Phân tích cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về cưỡng chế trong THADS nói chung và quản lý nhà nước về cưỡng chế trong THADS từ thực tiễn tỉnh Cà Mau nói riêng. - Đánh giá đúng đắn, đích thực về thực trạng hiệu quả công tác quản lý nhà nước về CCTHADS, từ đó đi sâu phân tích những kết quả đã đạt được và những hạn chế, tồn tại trong việc nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, đặc biệt là khâu công tác quản lý nhà nước về cưỡng chế trong THADS ở tỉnh Cà Mau và làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước về CCTHADS từ thực tiễn tỉnh Cà Mau. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về CCTHADS ở tỉnh Cà Mau. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Từ thực tiễn áp dụng pháp luật trong CCTHADS ở tỉnh Cà Mau, luận văn nghiên cứu một cách tổng quát có hệ thống chế định quản lý nhà nước về CCTHADS hiện hành. Trong đó tập trung nghiên cứu phân tích thực trạng về hiệu quả công tác quản lý nhà nước về THADS nói chung và khâu công tác quản 5
  12. lý nhà nước về CCTHADS nói riêng; những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của nó, để từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong CCTHADS trong điều kiện hiện nay ở tỉnh Cà Mau. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc quản lý nhà nước về CCTHADS của Cục THADS tỉnh Cà Mau khi thực hiện công tác THADS trong 05 năm (2013-2017) và những văn bản quy phạm pháp luật về THADS nói chung và CCTHADS nói riêng trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2017. Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong khoảng không gian nhất định tại địa bàn tỉnh Cà Mau. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Chương 1 sử dụng phương pháp luận dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật và những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác THADS, về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và những nghiên cứu có liên quan đến áp dụng pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về CCTHADS nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự. Chương 2 sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế nhằm làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau. Chương 3 sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý luận và thực tiễn nhằm đưa ra những định hướng và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn Về lý luận, luận văn góp phần bổ sung, làm rõ lý luận về quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự, cụ thể: - Đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm quản lý nhà nước về cưỡng chế THADS; các yếu tố cấu thành quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự; yêu cầu về tính hợp pháp, hợp lý trong quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự. 6
  13. - Luận văn đánh giá, phân tích đúng thực trạng hiệu quả việc quản lý nhà nước về cưỡng chế trong THADS và đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khâu công tác quản lý nhà nước về cưỡng chế trong THADS ở tỉnh Cà Mau. Về thực tiễn, các đề xuất của luận văn có thể ứng dụng vào thực tiễn đề xuất định hướng đảm bảo tuân thủ pháp luật, bảo đảm, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân trong quá trình tổ chức CCTHADS; cải cách phương thức, thủ tục trong quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự theo hướng minh bạch, phục vụ, kiểm soát hiệu quả đối với công tác quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự và đưa ra những giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Cà Mau có hiệu quả. Học viên hy vọng kết quả nghiên cứu luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các cán bộ, CHV đang công tác tại các Cơ quan THADS, các cán bộ, Kiểm sát viên VKSND thực hiện công tác kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về CCTHADS được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 7. Cơ cấu của luận văn Nội dung của Đề tài được trình bày theo bố cục như sau: Lời nói đầu Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước về cưỡng chế Thi hành án dân sự Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau Chương 3. Định hướng, giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự - từ thực tiễn tỉnh Cà Mau 7
  14. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái quát chung về cưỡng chế Thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm cưỡng chế Thi hành án dân sự Để bảo đảm thực thi pháp luật mà mình ban hành ra, bất kỳ nhà nước nào cũng sử dụng sức mạnh cưỡng chế. “Cưỡng chế” là khái niệm thuộc phạm trù Nhà nước và Pháp luật, là hiện tượng gắn liền với nhà nước. Về thuật ngữ, hiểu theo nghĩa rộng, trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam do Nxb Văn hoá - Thông tin ấn hành 1998 nêu rõ: “cưỡng chế là bắt phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực” [77]. Còn theo cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam tập l xuất bản năm l995, thì khái niệm cưỡng chế là “dùng quyền lực nhà nước để bắt buộc người khác thực hiện những việc làm trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế là một trong những phương pháp chủ yếu của hoạt động quản lý nhà nước” [78]; Theo cuốn Từ điển Luật học do Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội xuất bản năm 1999 thì khái niệm cưỡng chế là “những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện và phục tùng một mệnh lệnh nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền do nhà nước quy định” [79]. Như vậy, cưỡng chế là một phương thức sử dụng và bảo đảm cho quyền lực nhà nước. Tuỳ từng chế độ chính trị và điều kiện phát triển của kinh tế - xã hội cụ thể, mà ở từng nhà nước khác nhau, phương pháp cưỡng chế được sử dụng ở các phạm vi, mức độ và cách thức khác nhau. Ngoài ra, các hình thức và các biện pháp cũng được sử dụng tuỳ từng quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh. Nhưng nhìn chung bất cứ lĩnh vực nào mà pháp luật điều chỉnh cũng đều cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành. Trong hoạt động tư pháp, để bảo đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết định nhà nước phải định ra các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc bảo đảm cho việc thi hành. Thực ra khi Toà án ra bản án, quyết định thì bản thân sự phán quyết đó đã thể hiện quyền lực đặc biệt của nhà nước, thể hiện sự cưỡng chế của nhà nước. Chính vì vậy ở khía cạnh nào đó, nói đến thi hành án cũng có nghĩa là nói đến cưỡng chế. 8
  15. Theo quyết định của Toà án, người bị kết án phải chịu một hình phạt nhất định, hoặc một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đó phải gánh chịu một nghĩa vụ tài sản hay thực hiện một công việc vì lợi ích của người khác. Các chế tài này hiển nhiên là hoàn toàn trái với ý muốn của những người đó. Khó có thể hy vọng vào sự tự “trừng phạt” hoặc sự tự nguyện tuyệt đối của người phải thi hành án. Việc pháp luật quy định các biện pháp nhằm bảo đảm việc thực thi các bản án, quyết định của Toà án là tất yếu; Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật có được thi hành nghiêm chỉnh, dứt điểm hay không; kỷ cương pháp luật có được tôn trọng, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tập thể, của các tổ chức xã hội và mọi công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc nhiều vào kết quả thi hành án; trong thi hành án dân sự các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thoả thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án. Tự nguyện thi hành án đã trở thành một nguyên tắc, biện pháp quan trọng được Đảng và Nhà nước ta tập trung chỉ đạo tăng cường thường xuyên trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước. Làm tốt công tác động viên tự nguyện thi hành án một mặt giúp các cơ quan thi hành án dân sự đạt được số vụ việc thi hành xong mà không phải tốn kém kinh phí của ngân sách Nhà nước, không cần phải huy động lực lượng và các nguồn lực khác để tổ chức cưỡng chế; tự nguyện thi hành án tốt giúp giải tỏa mâu thuẫn, cũng cố tình làng, nghĩa xóm, thắt chặt tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Giải thích, thuyết phục để các bên tự nguyện thi hành án dân sự là nhiệm vụ của chấp hành viên, của cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi hành án; Còn thuyết phục trong thi hành án dân sự bắt nguồn từ việc các bên đương sự có quyền tự nguyện thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định ghi nhận, thể hiện ý chí của các bên đương sự nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Tuy vậy, khi người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục, mặc dù có điều kiện thi hành án mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh để không tự nguyện thi hành, thì buộc cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức cưỡng chế thi hành án. Cưỡng chế thi hành án thể hiện quyền năng của cơ quan thi hành án, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, nhằm đảm bảo bản án, quyết định được thi hành nghiêm chỉnh, đúng pháp luật. 9
  16. Cưỡng chế nhà nước là dùng quyền lực nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức thực hiện hoặc không thực hiên một công việc nhất định trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là phương pháp thường xuyên được áp dụng trong quản lý nhà nước. Cưỡng chế nhà nước có nhiều lĩnh vực như: Cưỡng chế hành chính, hình sự, dân sự, thi hành án dân sự Tuy Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) không định nghĩa cưỡng chế trong thi hành án dân sự nhưng tại khoản 2 Điều 9 lại quy định: “người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”[68]. Theo đó, người phải thi hành án sẽ phải tự nguyện thi hành án khi có điều kiện, nếu không thực hiện thì người có thẩm quyền thi hành án tiến hành cưỡng chế. Theo pháp luật hiện hành thì người có thẩm quyền trực tiếp thi hành án và áp dụng biện pháp cưỡng chế bao gồm chấp hành viên và thừa phát lại (sau đây gọi chung là người có thẩm quyền thi hành án). Nói tóm lại cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thể có thẩm quyền dùng quyền lực nhà nước thực hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm thi hành trên thực tế quyền, nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Cưỡng chế thi hành án dân sự có thể được xem xét dưới góc độ là một quan hệ pháp luật, một chế định pháp luật hoặc một hoạt động áp dụng pháp luật trong thực tiễn. 1.1.2. Điều kiện cưỡng chế Thi hành án dân sự Để áp dụng được biện pháp cưỡng chế thi hành án, cần phải hội đủ các điều kiện sau đây: Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải thực hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ được áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ và hành vi phải thực hiện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, nhất là có thái độ và hành vi không tự nguyện thi hành án khi người phải thi 10
  17. hành án có điều kiện thi hành án. Theo khoản 6, Điều 3 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, có điều kiện thi hành án là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án [68]. 1.1.3. Nguyên tắc cưỡng chế Thi hành án dân sự Cưỡng chế thi hành án dân sự là một biện pháp nghiêm khắc nhất, do đó, chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án không được áp dụng một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc đó là: 1.1.3.1. Chỉ người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền áp dụng biện pháp thi hành án dân sự Theo PL hiện hành thì chỉ có cơ quan thi hành án dân sự và Văn phòng thừa phát lại mới được nhà nước trao cho quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền và chỉ người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền quyết định biện pháp cưỡng chế. Ngoài ra các chủ thể khác, bằng sức mạnh của mình, bắt buộc người khác phải thi hành án đều trái pháp luật. 1.1.3.2. Chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự khi hết thời gian tự nguyện thi hành trừ trường hợp áp dụng cưỡng chế ngay Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Tuy nhiên, để đảm bảo công tác thi hành án thật sự hiệu quả, với mục đích ngăn chặn những hành vi tẩu tán tàn sản, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của đương sự trong thời gian tự nguyện thi hành án thì chủ thể có thẩm quyền vẫn được áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại chương IV Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) [68]. 1.1.3.3. Không được cưỡng chế thi hành án trong thời gian mà pháp luật quy định không được cưỡng chế thi hành án Xuất phát từ mục đích nhân đạo đối với người phải thi hành án, pháp luật quy định không tổ chức cưỡng chế trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày 11
  18. hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt như 15 ngày trước và sau tết nguyên đán, các ngày truyền thống của các đối tượng chính sách [22]. 1.1.3.4. Chỉ được áp dụng 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được quy định theo pháp luật Để tránh sự lạm quyền của các chủ thể trong việc cưỡng chế thi hành án dân sự, pháp luật quy định người có thẩm quyền thi hành án chỉ có thể áp dụng trong 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì người có thẩm quyền thi hành án vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để thi hành án. 1.1.3.5. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải đảm bảo và tôn trọng quyền con người, quyền công dân và tính nhân đạo Thi hành án dân sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền con người đã được Hiến pháp quy định. Vì vậy, chỉ trong trường hợp cần thiết mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế, còn lại cần tôn trọng sự tự nguyện và thỏa thuận của các bên tham gia vào quan hệ pháp luật trong thi hành án dân sự; đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, kê biên để thi hành án, pháp luật chỉ cho phép kê biên những tài sản đủ để thi hành án và thanh toán chi phí về việc thi hành án chứ không kê biên tất cả tài sản của người phải thi hành án. Đồng thời, khi kê biên tài sản, chấp hành viên không được kê biên những thứ cần thiết tối thiểu cho cuộc sống và của gia đình người phải thi hành án. Yêu cầu đặt ra đối với Cán bộ, Chấp hành viên trong công tác tiếp dân, tiếp đương sự tham gia giải quyết liên quan đến thi hành án dân sự cần có sự mẫu mực, công tâm khách quan, tôn trọng đúng mức; cần có sự bảo vệ và tôn trọng tuyệt đối các quyền công dân, quyền con người, các lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi người khi tham gia vào các công việc liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự. 12
  19. 1.1.3.6. Việc tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết khác Chấp hành viên phải ước tính giá trị tài sản để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án (khoản 1, Điều 13 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ) [22]. 1.1.3.7. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về mặt chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo đức Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án có thuận lợi hay không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bàn xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy thuộc vào việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế của Chấp hành viên. 1.2. Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về cưỡng chế Thi hành án dân sự Quản lý xã hội nói chung là quá trình tổ chức điều hành các hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên những quy luật khách quan [37]. Bản chất của quản lý nhà nước là quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được ghi nhận, củng cố bằng pháp luật và được thực hiện bởi bộ máy nhà nước với cơ sở vật chất tài chính to lớn, bằng phương pháp thuyết phục và cưỡng chế. Quản lý nhà nước hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ mọi hoạt động của nhà nước nói chung, mọi hoạt động mang tính chất nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước.[37] Quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp là hoạt động quản lý do một loại cơ quan đặc biệt thực hiện mà Hiến pháp và pháp luật nước ta gọi là các cơ quan hành chính 13
  20. nhà nước, còn gọi là hoạt động chấp hành và điều hành nhà nước, hay thường gọi đơn giản là hoạt động chấp hành và điều hành.[37] Thi hành án dân sự với tính cách là hoạt động mang tính chất hành chính – tư pháp, trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay và các quyết định của trọng tài thương mại, cơ quan thi hành án, trực tiếp là cá nhân Chấp hành viên, thay mặt nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức thi hành bản án, quyết định đó, cũng cần phải có sự quản lý chặt chẽ để đảm bảo cho quyền lực đó được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Từ khái niệm thi hành án dân sự, khái niệm về quản lý nhà nước nêu trên, có thể hiểu quản lý nhà nước trong lĩnh vực cưỡng chế thi hành án dân sự là một bộ phận của quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính – tư pháp. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực cưỡng chế thi hành án dân sự là thông qua hoạt động tổ chức, điều hành của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được nhà nước giao quyền nhằm tổ chức và phối hợp những cố gắn chung của toàn xã hội để giải quyết những nhiệm vụ của công tác quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự, mà cụ thể là đảm bảo các yếu tố vật chất, tinh thần, pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự đem lại hiệu quả cao nhất góp phần hoàn thiện cải cách nền hành chính nhà nước trong tình hình hiện nay. Quá trình quản lý nhà nước trong lĩnh vực cưỡng chế thi hành án dân sự là chấp hành luật pháp, ban hành các văn bản, cụ thể hóa các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; tổ chức điều hành để đưa các văn bản, cụ thể hóa các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; tổ chức điều hành để đưa các văn bản quy phạm pháp luật đó vào thực tiễn cưỡng chế thi hành án dân sự; tổ chức bộ máy thi hành án; đào tạo quản lý nguồn nhân lực phục vụ hoạt động cưỡng chế thi hành án; tiến hành kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự; kịp thời uốn nắn và xử lý các vi phạm trong hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự; bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện cho 14