Luận văn Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

pdf 91 trang vuhoa 25/08/2022 8560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_cong_chung_tu_thuc_tien_tinh_qu.pdf

Nội dung text: Luận văn Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN CAO NGUYÊN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN CAO NGUYÊN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, năm 2017
  3. LỜI AMC ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nêu trong luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác, số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác và trung thực. Vậy tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem xét cho phép tôi được bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Nguyễn Cao Nguyên
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG CHỨNG 7 1.1. Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về công chứng 7 1.2. Một số yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về công chứng 40 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG CHỨNG TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI 43 2.1. Một số yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về công chứng tại Quảng Ngãi 43 2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi 46 2.3. Đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi 56 CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG CHỨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 67 3.1. Các quan điểm và định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về công chứng 67 3.2. Các giải pháp hoàn thiện 68 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Lộ trình thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ Bảng 2.1. chức hành nghề công chứng giai đoạn 2011-2015 tại 49 tỉnh Quảng Ngãi Lộ trình thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ Bảng 2.2. chức hành nghề công chứng giai đoạn 2016 - 2020 tại 49 tỉnh Quảng Ngãi Kết quả thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ Bảng 2.3. chức hành nghề công chứng đến năm 2020 tại tỉnh 50 Quảng Ngãi Số công chứng viên đăng ký hành nghề tại từng tổ chức Bảng 2.4. 53 hành nghề công chứng
  6. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu Tên biểu đồ Trang đồ Thống kê số liệu hợp đồng, giao dịch công chứng từ Biểu đồ 2.1. 45 năm 2011-2016 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi Phát triển tổ chức hành nghề công chứng và công Biểu đồ 2.2. 52 chứng viên tại Quảng Ngãi
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công chứng là một trong những hoạt động bổ trợ tư pháp theo nghĩa rộng, cung cấp chứng cứ cho hoạt động của cơ quan tư pháp theo nghĩa hẹp, nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế và tổ chức xã hội, góp phần chủ động phòng ngừa các tranh chấp và hành vi vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu có giá trị chứng cứ phục vụ việc giải quyết các tranh chấp, xử lý hành vi vi phạm, duy trì kỷ cương pháp luật trong xã hội. Việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về công chứng trong tình hình hiện nay là yêu cầu cấp thiết của hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về công chứng nói riêng. Thực tiễn đã cho thấy công chứng có vai trò rất quan trọng đối với của sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nền kinh tế thị trường phát triển ở mức độ ngày càng cao, các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, đòi hỏi hoạt động công chứng cần phải đáp ứng kịp thời những yêu cầu đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Một trong các yêu cầu quan trọng của nội dung này là xác định đúng vai trò, chức năng của Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định vai trò của Nhà nước trong quản lý đối với dịch vụ công nhằm làm cho bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; đảm bảo sự phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong đó, có yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan tư pháp, khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu lợi ích của xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công ngày 1
  8. càng phát triển cùng với sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Trước yêu cầu trên, việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công chứng là một yêu cầu rất quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định “Hoàn thiện thể chế công chứng. Xác định rõ phạm vi công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này”. Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc khu vực Duyên hải nam trung bộ với diện tích rộng, dân cư đông, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2010-2015 tăng bình quân đạt 7,2% [16, tr.15], các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng sôi động và có xu hướng phức tạp. Theo Quyết định số 2104/QĐ- TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020” thì đến năm 2020 tỉnh Quảng Ngãi sẽ có 25 tổ chức hành nghề công chứng (Phòng công chứng và Văn phòng công chứng) được thành lập (giai đoạn 2011 - 2015 có 08 tổ chức hành nghề công chứng, giai đoạn 2016 - 2020 tiếp tục phát triển thêm 17 tổ chức hành nghề công chứng). Hiện nay, với 23 công chứng viên đăng ký hành nghề tại 10 tổ chức hành nghề công chứng đang hoạt động (01 Phòng công chứng và 09 Văn phòng công chứng). Vì vậy, vấn đề tăng cường công tác quản lý nhà nước về công chứng được đặt ra trên cả về phương diện về lý luận và thực tiễn. Là một công chức đang công tác tại địa phương, trước tình hình trên, học viên quyết định chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” để làm luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nội dung quản lý nhà nước về công chứng tại các nước phát triển trên thế 2
  9. giới đã được quy định khá rõ ràng và cụ thể trong các văn bản pháp luật thực định, hệ thống công chứng được thành lập, hoạt động từ rất lâu đời. Ở nước ta, công chứng với tư cách là một hoạt động bổ trợ tư pháp xuất hiện chưa lâu, tuy nhiên thời gian ở nước ta qua đã có một số đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này như: - Đề tài khoa học mang mã số 92-98-244 về “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam” do Bộ Tư pháp tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu vào tháng 5 năm 1993; - Luận án tiến sĩ “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay” của tác giả Đặng Văn Khanh năm 2000; - Luận án tiến sĩ luật học “Nghiên cứu pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay”, mã số: 62.38.01.01 của tác giả Tuấn Đạo Thanh năm 2008; - Luận văn thạc sĩ “Một số vấn đề công chứng các giao dịch về tài sản ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp” của tác giả Đỗ Xuân Hòa. - Luận văn thạc sĩ “Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta” của tác giả Trần Ngọc Nga. - Luận văn thạc sĩ “Xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Quang Minh năm 2009; - Luận văn thạc sĩ “Phân cấp quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực qua thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Phan Hải Hồ năm 2008; - Luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Trần Thị Hiền năm 2012; - Luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước về hoạt động công chứng trên địa bàn Thành phố Hà Nội” của tác giả Phạm Thị Phương Hiền; - Luận văn thạc sĩ “Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí 3
  10. Minh” của tác giả Vũ Thị Vân Anh; Nhìn chung các công trình trên đã có sự nghiên cứu chuyên sâu về công chứng. Tuy nhiên, sau khi Luật Công chứng năm 2014 ra đời thay thế Luật Công chứng năm 2006 thì vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu chuyên sâu về nội dung này. Luật Công chứng là cơ sở pháp lý quan trọng phục vụ cho công tác quản lý của Nhà nước, tuy nhiên hiện nay do biến động của tình hình thực tiễn, có nhiều vấn đề mà Luật Công chứng năm 2014 chưa tiên liệu được. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để hoạt động quản lý nhà nước về công chứng thời gian đến một cách hiệu quả, khoa học, đảm bảo ổn định và phát triển bền vững. Vì vậy, đây có thể được coi là công trình mới, nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về công chứng ở tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, để nghiên cứu thực hiện đề tài này, trong quá trình nghiên cứu tác giả cũng cần phải kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về công chứng ở Quảng Ngãi từ khi có Luật Công chứng (Luật Công chứng năm 2006 và Luật Công chứng năm 2014) đến nay, để xác định quan điểm, đề ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công chứng ở tỉnh Quảng Ngãi và cả nước; góp phần thực hiện mục tiêu cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây: - Làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp luật về công chứng, quản lý nhà 4
  11. nước về công chứng. - Đánh giá kết quả quản lý nhà nước về công chứng; phân tích các yêu cầu khách quan trong việc quản lý nhà nước về công chứng ở Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng; những tồn tại trong quản lý nhà nước về công chứng, nguyên nhân. - Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công chứng ở nước ta. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Hoạt động quản lý nhà nước về công chứng từ khi có Luật Công chứng năm 2006 và Luật Công chứng năm 2014 đến nay. Về không gian: Các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng, các tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan có liên quan trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, bổ trợ tư pháp nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả đã kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phổ biến của khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, cụ thể 5
  12. như: các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh; các phương pháp điều tra, khảo sát, phân tích thực tiễn tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ khi có Luật Công chứng đến nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn là công trình chuyên khảo đầu tiên, nghiên cứu có tính hệ thống, khảo sát, đánh giá toàn diện về thực trạng quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, luận văn sẽ cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm cũng như đưa ra các khái niệm, đặc điểm, phân tích các nội dung quản lý nhà nước về công chứng để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, phương pháp quản lý nhà nước về công chứng ở nước ta trong thời gian tới. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Như đã nói ở trên, luận văn là công trình chuyên khảo đầu tiên, nghiên cứu có tính hệ thống, khảo sát, đánh giá toàn diện về thực trạng quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Nội dung luận văn tập trung phân tích những kết quả, tồn tại và nguyên nhân thực trạng quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, từ đó có những đề xuất mới có giá trị tham khảo cho cơ quan quản lý nhà nước về công chứng ở tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và các địa phương khác ở nước ta nói chung trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công chứng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về công chứng. Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi. Chương 3. Hoàn thiện quản lý nhà nước về công chứng ở nước ta hiện nay. 6
  13. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG CHỨNG 1.1. Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về công chứng 1.1.1. Khái quát về công chứng 1.1.1.1. Khái quát các mô hình công chứng trên thế giới Theo Từ điển Luật học của Mỹ, công chứng (Notarial) là hoạt động của công chứng viên Công chứng viên, theo tiếng Latinh là “Notarius”. “Notarius” trong Luật Anh cổ là một người sao chép hay trích lục các loại văn bản, giấy tờ khác, người làm chứng. Trong Luật La Mã, là người ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của tòa án hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy chuyển nhượng sở hữu. Theo cách giải thích trên, xét về nguồn gốc, công chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài người (từ thời La Mã cổ đại), với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và làm chứng. Khởi đầu, công chứng là một nghề tự do trong xã hội, phục vụ cho nhu cầu tự nhiên, tự bảo vệ của dân chúng khi thiết lập các văn tự, khế ước. Trải qua những biến đổi cùng với những quan điểm, quan niệm về chứng cứ, các chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau thì tổ chức và hoạt động công chứng cũng thay đổi và được quy định khác nhau. Tuy nhiên, dù ở giai đoạn lịch sử nào, chế độ chính trị, kinh tế, xã hội nào thì công chứng cũng luôn khẳng định sự tồn tại và đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, được Nhà nước thừa nhận và trở thành hoạt động hỗ trợ đắc lực cho công dân và Nhà nước trên cả hai phương diện hỗ trợ hành pháp (quản lý nhà nước) và bổ trợ tư pháp. Cho đến nay, công chứng tồn tại ở hầu hết các quốc 7
  14. gia trên thế giới và chủ yếu hình thành nên ba hệ thống như sau: hệ thống công chứng Latinh; hệ thống công chứng Anglo-saxon; hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể). Mỗi hệ thống công chứng này có những đặc điểm cơ bản như sau: - Hệ thống công chứng Latinh: Tương ứng với hệ thống luật La Mã (còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự-Civil Law) Hệ thống này tồn tại ở hầu hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch và Vương quốc Anh); châu Phi (các nước thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ-Latinh, bang Quebec của Canada, bang Luisane của Hoa Kỳ, một số nước châu Á như: Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam Hiện nay, hệ thống công chứng Latinh đã hình thành tổ chức quốc tế của mình đó là Liên minh công chứng quốc tế Latinh (tên viết tắt là UINL) với 84 thành viên trong đó có Việt Nam (Theo quy định của UINL, một trong những điều kiện để công chứng của một quốc gia được xem xét gia nhập UINL là phải có Tổ chức xã hội-nghề nghiệp toàn quốc của các công chứng viên. Hiện nay, do Việt Nam chưa thành lập được Tổ chức xã hội-nghề nghiệp toàn quốc theo quy định của Luật Công chứng năm 2014 nên UINL đã đồng ý để Hội công chứng viên Thành phố Hồ Chí Minh đại diện cho các Hội công chứng viên cả nước gia nhập UINL và UINL yêu cầu Việt Nam phải sớm thành lập Tổ chức xã hội-nghề nghiệp toàn quốc để sớm trở thành thành viên đầy đủ của UINL theo quy định của Tổ chức). Đối với hệ thống này, phạm vi công chứng được pháp luật quy định cụ thể, chặt chẽ, việc nào bắt buộc phải công chứng, việc nào chỉ công chứng khi đương sự có yêu cầu. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng rất cao (có giá trị làm chứng cứ). Công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm, có thể là công chức hoặc không, nhưng để hành nghề công chứng thì họ phải được Nhà nước bổ nhiệm và hoạt động chuyên trách chứ không được kiêm nhiệm chức danh 8
  15. nào khác. Công chứng viên được Nhà nước uỷ thác một phần quyền lực và có con dấu riêng khắc tên công chứng viên đó hoặc tổ chức hành nghề công chứng đó. Với tư cách là uỷ viên công quyền, công chứng viên có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, thể hiện ở việc chính họ được người đứng đầu Nhà nước hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của các tổ chức, cá nhân và an toàn pháp lý của các quan hệ hợp đồng, giao dịch, đồng thời chịu trách nhiệm cá nhân và bồi thường thiệt hại do văn bản đã được mình công chứng gây ra nếu có lỗi. Công chứng viên là những nhà luật pháp, họ giúp mọi người lựa chọn và định đoạt tài sản của mình theo cách hợp lý nhất, đồng thời họ có nghĩa vụ tư vấn cho các bên giao kết hợp đồng một cách vô tư, không thiên vị, giải thích cho các bên về phạm vi, các hệ quả, rủi ro mà văn bản công chứng có thể làm phát sinh để bảo vệ lợi ích của tất cả các bên trong hợp đồng, dù đó là bên bán hay bên mua. Với nghĩa vụ tư vấn này, công chứng viên không chỉ làm nhiệm vụ cùng ký vào hợp đồng, xác nhận ý chí của các bên mà còn có nhiệm vụ giúp đỡ các bên thể hiện ý chí đó trong hợp đồng, lựa chọn các thể thức ký kết hợp đồng phù hợp tùy thuộc vào mục đích của hợp đồng, vào các quy định pháp luật áp dụng cho hợp đồng. Yêu cầu về bình đẳng là một yêu cầu rất quan trọng của các quan hệ mang tính dân sự. Do vậy, công chứng viên còn giữ vai trò là trọng tài và trung gian hoà giải đối với các bên. Hoạt động này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho các bên khi tham gia giao kết, làm cho ý chí của các bên xích lại gần nhau hơn và sớm đạt được sự thống nhất cao ngay khi ký kết, từ đó hạn chế đến mức thấp nhất việc xảy ra tranh chấp trong quá trình thực hiện. Đối với các văn bản công chứng, công chứng viên đem lại cho các văn 9
  16. bản này tính xác thực, có giá trị như văn bản do các cơ quan công quyền cấp, đảm bảo cho các văn bản công chứng sự an toàn trong mọi tình huống, hạn chế đến mức thấp nhất những tranh chấp có thể xảy ra, từ đó góp phần giảm bớt gánh nặng quá tải về xét xử cho Toà án. Điều này cho thấy công chứng viên giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo trật tự pháp lý, trật tự xã hội, đó là vai trò bổ trợ tư pháp như một thẩm phán về hợp đồng. Về phí công chứng, công chứng viên phải tuân thủ một mức phí bắt buộc do Nhà nước quy định, cả công chứng viên và khách hàng đều phải chấp hành. Mức phí này có chức năng phân phối lại và tạo điều kiện thuận lợi cho những người nghèo tiếp cận pháp luật và hưởng dịch vụ công chứng. Trong mọi trường hợp, công chứng viên phải lập văn bản công chứng dù cho đó là vụ việc có giá trị rất nhỏ, tiền phí ít, đó là một nghĩa vụ gắn chặt với nhiệm vụ vì lợi ích công của họ. Từ những đặc điểm nêu trên có thể nhận thấy hệ thống công chứng Latinh có những ưu điểm như: Tính quyền lực công được thể hiện rõ thông qua việc Nhà nước bổ nhiệm công chứng viên, trao cho họ quyền lực công và coi họ như công chức; cơ chế tự chủ về tài chính đã giảm được gánh nặng cho Nhà nước, huy động được nguốn vốn cá nhân để đầu tư phát triển, gắn trách nhiệm cá nhân với việc mua bảo hiểm nghề nghiệp và bồi thường trách nhiệm dân sự; phí công chứng do Nhà nước quy định đã tạo cho mọi công dân trên toàn lãnh thổ đều được quyền bình đẳng hưởng dịch vụ công chứng với mức phí như nhau; văn bản công chứng là chứng cứ viết được lưu giữ lâu dài, có giá trị làm chứng và không phải chứng minh trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu, đem lại an toàn pháp lý cho các bên khi tham gia giao dịch, đảm bảo tính hợp pháp, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, làm lành mạnh hoá các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại trong đời sống xã hội; các văn bản do công chứng viên lập ra mang tính kỹ thuật cao, 10
  17. viện dẫn các điều luật được áp dụng đối với từng chi tiết. Để đảm bảo tính xác thực, công chứng viên phải kiểm tra không chỉ các thông tin về khách hàng, mà cả hiện trạng pháp lý của đối tượng giao dịch. Đối với các bên tham gia giao dịch, họ luôn được bảo vệ lợi ích khi có sự hiện diện của một người chuyên nghiệp có trình độ pháp lý, được Nhà nước giao nhiệm vụ đem lại tính xác thực cho các giao dịch và đảm bảo sự an toàn cho các giao dịch đó, trong quá trình các bên tham gia giao dịch thì các bên sẽ dễ đi đến sự cân bằng của các thoả thuận và xác định ý chí đích thực của các bên giúp tránh xảy ra các tranh chấp về sau. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm thì hệ thống công chứng Latinh cũng có những hạn chế như: Tính hình thức của hệ thống luật viết làm cho nhiều quy định về thể thức được đặt ra buộc công chứng viên phải hoàn thành trước và sau khi ký nên làm cho các yêu cầu công chứng phải mất nhiều thời gian nhất là đối với khách hàng là doanh nhân thì nhiều khi họ có thể mất đi cơ hội kinh doanh. - Hệ thống công chứng Anglo-saxon: Tương ứng với hệ thống pháp luật Anglo-saxon (Common Law) Mô hình công chứng theo hệ thống này tồn tại ở các nước theo luật án lệ như: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang Luisane), Canada (trừ bang Quebec), Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Đài Loan Đối với mô hình công chứng Anglo-saxon thì phạm vi công chứng không được quy định rõ ràng; nội dung, hình thức văn bản không được pháp luật quy định chặt chẽ, thể chế công chứng hầu như không được thiết lập. Nhà nước không bổ nhiệm một chức danh hoạt động công chứng chuyên nghiệp và trao quyền năng để thay mặt Nhà nước đem lại tính xác thực cho những hợp đồng, văn bản. Ở các quốc gia này công chứng là một nghề tự do hoạt động kiêm nhiệm, 11
  18. tính chất chuyên nghiệp về nghiệp vụ công chứng ở quốc gia này không cao. Chức năng công chứng ở các nước theo hệ thống này được giao cho luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của nhà thờ thực hiện theo phương thức kiêm nhiệm. Tuy nhiên, đối với những người này thì trước khi được kiêm nhiệm chức năng công chứng, họ phải có thâm niên tối thiểu một số năm hành nghề luật sư thuộc Hiệp hội Luật sư hoặc đã có một thời gian làm hộ tịch viên hay cố vấn pháp lý của Giáo hội. Ngoài ra, một số nhân viên ngoại giao và lãnh sự cũng được giao thẩm quyền thực hiện một số việc công chứng ở nước ngoài. Khi thực hiện công chứng, các luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của Giáo hội chỉ chú trọng đến tính xác thực về mặt hình thức như: Nhận diện đúng khách hàng, xác định đúng thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi lại sự kiện pháp lý hoặc thoả thuận của các bên hoặc ý chí của người yêu cầu công chứng, không quan tâm đến việc xác định tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không cần biết thoả thuận có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không, không chịu trách nhiệm nếu có điều khoản nào đó trong hợp đồng bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba. Khi thực hiện công chứng, người thực hiện công chứng không có nghĩa vụ phải tư vấn vô tư và làm cân bằng lợi ích của các bên. Luật sư có thể tư vấn thiên vị cho một bên nào đó hoặc có thể từ chối thực hiện công chứng nếu thấy thù lao không thoả đáng. Mỗi bên tham gia hợp đồng được trợ giúp bởi cố vấn của mình, đều tìm kiếm lợi ích riêng của mình mà không cần quan tâm thật sự tới thiệt hại của đối phương. Do vậy, những hợp đồng, văn bản được lập và chứng nhận bởi những người kiêm nhiệm thực hiện công chứng mang lại sự an toàn pháp lý thấp, không được coi là chứng cứ xác thực, văn bản công chứng khi được coi là nguồn chứng cứ trước toà thì vẫn phải điều tra xác minh. Các văn bản công chứng của hệ thống này thường có tỷ lệ tranh chấp xảy ra nhiều hơn trong quá trình thực hiện. 12
  19. Từ những đặc điểm nêu trên có thể nhận thấy hệ thống công chứng Anglo-saxon có những ưu điểm như: Vì không nặng về tính hình thức như hệ thống luật viết nên hệ thống công chứng Anglo-saxon tạo ra một cơ chế thực dụng, rất mềm dẻo, dễ thích ứng với các hoàn cảnh cụ thể của từng hợp đồng, giao dịch; trình tự thủ tục đơn giản, các nhu cầu về công chứng nhanh chóng được giải quyết, hạn chế đến mức thấp nhất việc mất cơ hội kinh doanh của doanh nhân; tính năng động và quyền tự quyết của các bên trong hợp đồng, giao dịch được đề cao. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm thì hệ thống công chứng Anglo-saxon cũng có những hạn chế như: Vai trò của Nhà nước trong quản lý các hoạt động công chứng rất mờ nhạt; Nhà nước không quy định về mức phí mà khách hàng phải trả cho những người kiêm nhiệm chức năng công chứng mà do họ tự do thỏa thuận mức thù lao áp dụng cho từng vụ việc cụ thể; dịch vụ pháp lý trong trường hợp này được thực hiện như một sản phẩm của cơ chế thị trường vì vậy đã không tạo ra sự bình đẳng về quyền được hưởng dịch vụ công giữa người giàu và người nghèo trong xã hội; văn bản công chứng không đạt được yêu cầu chứng cứ không phải chứng minh; trách nhiệm vật chất của người thực hiện công chứng rất mờ nhạt; vì chỉ chú trọng đến tính xác thực về mặt hình thức nên mức độ an toàn pháp lý của văn bản công chứng thấp, tỷ lệ các tranh chấp trong quá trình thực hiện thường cao. - Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể): Tương ứng với hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa (Sovietique) Hệ thống công chứng Collectiviste tồn tại ở các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây và phát triển mạnh vào các năm 70 của thế kỷ XX đến trước năm 1990, bao gồm: Liên Xô, Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bungari, Hungari, Rumani, Cu Ba, Trung Quốc, Việt Nam. Hệ thống công chứng Collectiviste là một thể chế công chứng được tổ chức khá chặt chẽ, hoạt động 13
  20. chuyên nghiệp bằng sự bao cấp của Nhà nước thông qua việc cấp ngân sách hành chính để đầu tư cơ sở vất chất, trả lương và hoạt động. Đối với hệ thống công chứng này thì tổ chức công chứng là một loại hình cơ quan bổ trợ tư pháp trong bộ máy hành pháp, được lập ra theo đơn vị hành chính. Công chứng viên và hầu hết nhân viên đều là công chức, nhân viên Nhà nước, hưởng lương từ nguồn ngân sách quốc gia. Công chứng viên được bổ nhiệm để chứng nhận hợp đồng và văn bản, giúp đỡ pháp lý cho cá nhân, tổ chức, đem lại tính xác thực và tạo ra sự an toàn pháp lý cho các giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật. Nhà nước bảo đảm cơ sở vật chất của Phòng Công chứng như trụ sở, phương tiện, thiết bị văn phòng, kinh phí hoạt động bao gồm cả quỹ lương. Các Phòng Công chứng được đặt dưới sự quản lý song trùng trực thuộc: vừa đặt dưới sự quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan nhà nước ở Trung ương là Bộ Tư pháp, vừa đặt dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước ở địa phương là Sở Tư pháp hoặc Toà án địa phương. Ở các nước theo hệ thống công chứng Collectiviste, công chứng viên được tổ chức hành nghề dưới hình thức Phòng Công chứng nhà nước, vừa là người thảo hợp đồng, văn bản giao dịch, vừa là người tư vấn, là người hợp pháp hoá các giấy tờ, đồng thời vừa là người xác nhận bản sao, bản dịch, chữ ký của khách hàng và xác nhận một số sự kiện pháp lý khác. Từ những đặc điểm nêu trên có thể nhận thấy hệ thống công chứng Collectiviste có những ưu điểm như: Tính quyền lực công được thể hiện rất rõ thông qua việc Nhà nước bổ nhiệm công chức trong biên chế làm công chứng viên, Phòng Công chứng sử dụng con dấu mang biểu tượng cơ quan nhà nước, trụ sở và phương tiện làm việc là tài sản công; người muốn được bổ nhiệm làm công chứng viên chỉ cần đáp ứng được điều kiện và tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác pháp luật; 14
  21. phí công chứng do Nhà nước quy định và được thu nộp vào ngân sách Nhà nước, mọi công dân trên toàn lãnh thổ đều được quyền bình đẳng về hưởng dịch vụ công chứng với mức phí như nhau; văn bản công chứng là chứng cứ viết được lưu giữ lâu dài, có giá trị thi hành giữa các bên, đem lại an toàn cho các giao dịch, đảm bảo tính hợp pháp, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, làm lành mạnh hoá các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm thì hệ thống công chứng Collectiviste cũng có những hạn chế như: Mạng lưới Phòng Công chứng phát triển quá chậm không đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của kinh tế thị trường do bị ràng buộc về chỉ tiêu biên chế và kinh phí đầu tư cơ sở vất chất; công chứng viên là công chức Nhà nước thiếu đi sự năng động, sáng tạo, dễ quan liêu, cửa quyền trong quá trình thực thi nhiệm vụ; hoạt động tác nghiệp của công chứng viên chủ yếu là chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, xác định năng lực hành vi dân sự, tình trạng pháp lý của tài sản, ý chí của các bên không trái với pháp luật và đạo đức xã hội và là người ghi chép vào sổ những sự kiện đã thực hiện chứ chưa đạt tới khả năng làm trung gian hoà giải, tư vấn để cân bằng lợi ích của các bên; công chứng viên chứng nhận văn bản công chứng dựa trên cơ sở những giấy tờ do khách hàng cung cấp và khách hàng phải tự mình chứng minh nhân thân và tình trạng pháp lý của tài sản; tránh nhiệm dân sự của công chứng viên rất hạn chế đối với những thiệt hại do họ gây ra khi thực hiện công chứng. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu có những biến đổi về chính trị kéo theo sự biến đổi sâu sắc về kinh tế, văn hoá xã hội và pháp luật, đòi hỏi phải có những biến đổi phù hợp về thể chế các cơ quan Nhà nước trong đó có các cơ quan pháp luật, tư pháp và bổ trợ tư pháp. Cùng với chính sách phát triển kinh tế, các nước đã bắt đầu chương trình cải cách thể chế hệ thống tư pháp và pháp luật, xuất phát từ việc thừa nhận quyền sở hữu 15
  22. tư nhân và tư bản tư nhân đối với tài sản, đặc biệt là đối với bất động sản. Trong một môi trường mới, các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại đã nảy sinh và phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi sự an toàn pháp lý cao nên thể chế công chứng ở các nước này cũng phải nhanh chóng được cải cách cho phù hợp. Vì vậy, hệ thống công chứng Colectiviste cũng dần dần bị thu hẹp và trong xu thế đó công chứng Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ, song vẫn ít nhiều còn chịu sự ảnh hưởng của hệ thống công chứng Collectiviste. 1.1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển công chứng ở Việt Nam Hoạt động công chứng được hình thành khá sớm ở Việt Nam, kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (bấy giờ được gọi là chưởng khế). Hoạt động công chứng giai đoạn này được áp dụng theo mô hình công chứng Pháp, chủ yếu phục vụ cho chính sách cai trị của Pháp tại các nước Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Tiêu biểu là Sắc lệnh ngày 24/8/1931 của Tổng thống Cộng hòa Pháp về tổ chức công chứng (được áp dụng ở Đông Dương theo Quyết định ngày 7/10/1931 của Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquies). Theo đó, người thực hiện công chứng là công chứng viên mang quốc tịch Pháp do Tổng thống Pháp bổ nhiểm và giữ chức vụ suốt đời, hoạt động với tư cách là người thi hành công vụ và mang tính chất của người hành nghề tự do. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, bộ máy nhà nước thực dân phong kiến bị đập tan. Cùng với việc xây dựng bộ máy Nhà nước kiểu mới, ngày 01/10/1945, Chính quyền cách mạng đã bổ nhiệm ông Vũ Quý Vỹ là luật sư tập sự tại Tòa thượng thẩm Hà Nội làm công chứng viên tại Hà Nội thay thế cho công chứng viên người Pháp đã bị bãi chức là ông Deroche. Trong thời kì này hoạt động của công chứng viên phải chịu trách nhiệm và chịu sự kiểm tra, giám sát của Ủy ban hành chính các cấp. Đây được xem là tổ chức công chứng đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lần đầu tiên, bằng một văn 16