Luận văn Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_an_toan_thuc_pham_tu_thuc_tien.pdf
Nội dung text: Luận văn Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ BÍCH LY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC ĐÀ NẴNG - 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ BÍCH LY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. THÁI THỊ TUYẾT DUNG ĐÀ NẴNG - 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các tài liệu, số liệu trong luận văn là trung thực và chính xác, những kết quả nghiên cứu của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác nếu có sự gian dối, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Bích Ly
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM 8 1.1. Khái niệm, tầm quan trọng của an toàn thực phẩm 8 1.2. Chủ thể, nội dung, đối tượng của quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm 13 1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm 20 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TẠI QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 22 2.1. Các yếu tố đặc thù của quận Ngũ Hành Sơn có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm 22 2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn 24 2.3. Đánh giá về công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm 42 CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM HIỆN NAY 51 3.1. Định hướng và mục tiêu hoàn thiện về quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn 51 3.2. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn 53 3.3. Kiến nghị hoàn thiện 62 KẾT LUẬN 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ATTP : An toàn thực phẩm Nxb : Nhà xuất bản QLNN : Quản lý nhà nước UBND : Ủy Ban nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Nguồn nhân lực tham gia công tác đảm bảo ATTP của quận 31 Bảng 2.2: Số liệu về công tác tuyên truyền các quy định pháp luật về ATTP trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn giai đoạn 2016-2018 35 Bảng 2.3: Số liệu về cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP của quận Ngũ Hành Sơn giai đoạn 2016-2018 37 Bảng 2.4: Số liệu công tác kiểm tra việc thực hiện chính sách ATTP trên địa bàn quận giai đoạn 2016-2018 41 Bảng 2.5: Nội dung vi phạm về ATTP trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn 47 Bảng 2.6: Kinh phí đầu tư công tác đảm bảo ATTP quận 2016-2017 49
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực phẩm là một nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể, tạo ra năng lượng giúp cơ thể hoạt động và làm việc một cách hiệu quả. Tuy nhiên, thực phẩm cũng là một mối rủi ro có thể mang tới cho cơ thể nguồn bệnh khác nhau khi không đảm bảo chất lượng ATTP. Thực phẩm mang tới nguồn công dụng rất lớn nhưng chỉ khi mọi thứ được đảm bảo về chất lượng, nguồn gốc, vệ sinh trong sản xuất và chế biến. Cho thấy vai trò của ATTP rất lớn đối với sức khỏe con người. Những năm gần đây, công tác đảm bảo an toàn thực phẩm, phòng, chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm ngày càng được mọi tầng lớp xã hội quan tâm. Vấn đề bảo đảm an toàn thực thẩm trong thời gian qua đang được cấp ủy Đảng, chính quyền quanh tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đạt kết quả nhất định. Nhận thức của nhà quản lý, người sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm và người tiêu dùng về an toàn thực phẩm bước đầu có chuyển biến. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý an toàn thực phẩm đã được xây dựng và từng bước được hoàn thiện. Bộ máy tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm từ trung ương đến địa phương đang được kiện toàn, thực hiện phân công, phân cấp, công tác phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương bước đầu có hiệu quả. Tuy nhiên an toàn thực phẩm trong cả nước nói chung và ở thành phố Đà Nẵng nói riêng đang là mối lo của các cấp chính quyền và mọi tầng lớp nhân dân. Gần đây, nhiều sự việc liên tục xảy ra xoay quanh vấn đề vệ an toàn thực phẩm như: sử dụng hóa chất cấm trong nuôi trồng, chế biến nông sản, thủy sản, thực phẩm, việc sản xuất sản phẩm kém chất lượng hoặc quy trình chế biến không đảm bảo đã gây ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và tiêu dùng. Ở Việt Nam, theo tài liệu của Cục an toàn thực phẩm của Bộ Y tế, số lượng các vụ ngộ độc thực 1
- phẩm cũng như số người nhiễm độc thực phẩm còn khá cao. Theo thống kê của Bộ Y tế, tính đến hết tháng 10/2018 cả nước đã xảy ra 91 vụ ngộ độc thực phẩm khiến hơn 2.010 người ngộ độc trong đó có 15 trường hợp tử vong [33] . Hầu hết các bệnh nhân bị ngộ độc do ăn phải thức ăn nhiễm vi sinh vật, cùng với đó là một số trường hợp bị ngộ độc do hấp thụ phải hóa chất tồn dư trong thực phẩm. Tại thành phố Đà Nẵng, du khách ngộ độc thức ăn không phải là câu chuyện mới. Thống kê cho thấy, năm 2017, trên địa bàn thành phố đã diễn ra nhiều vụ ngộ độc liên quan đến an toàn thực phẩm. Điển hình, vụ 09 du khách trong đoàn 50 người từ Quảng Ninh du lịch Đà Nẵng bị ngộ độc sau khi ăn trưa tại một nhà hàng ở Đà Nẵng (tháng 9/2017). Hậu quả, nhiều người bị đau bụng, buồn nôn phải nhập viện. Đặc biệt, trước đó, cuối tháng 7/2017, khoa Cấp cứu Bệnh viện Đa khoa Hoàn Mỹ (Đà Nẵng) cũng đã tiếp nhận 46 nạn nhân là du khách đến từ Lào, nhập viện với biểu hiện ngộ độc thực phẩm như: đau bụng, đau đầu, sốt, nôn, sau khi ăn uống tại một nhà hàng trên địa bàn Đà Nẵng. Kết quả xét nghiệm cho thấy, 46 người đều ngộ độc thức ăn, có biểu hiện nhiễm trùng, nhiễm độc [25]. Riêng đối với Quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, trong 09 tháng đầu năm 2016 đã lập biên bản xử lý, xử phạt hơn 20 cơ sở vi phạm an toàn thực phẩm, thu hồi, tiêu hủy nhiều mặt hàng không rõ nguồn gốc, xuất xứ, không đảm bảo an toàn thực phẩm; “ đột kích” các điểm giết mổ gia cầm, gia súc không đúng quy định, phát hiện, xử phạt 05 điểm giết mổ chui; số lượng các cơ sở kinh doanh ăn uống, cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm ngày càng nhiều, ý thức vệ sinh an toàn thực phẩm của một bộ phận người dân chưa có chuyển biến đáng kể. Điều đó tạo ra cho chính quyền quận Ngũ Hành Sơn nhiều thách thức trong công tác quản lý về an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra ATTP tại quận Ngũ Hành Sơn còn 2
- bộc lộ nhiều yếu kém, vấn đề chỉ đạo điều hành chưa khả thi, đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất còn hạn hẹp, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa đồng bộ và niềm tin của người dân đối với cơ quan QLNN về ATTP chưa cao [25]. Xuất phát từ những lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm từ thực tiễn tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” nhằm phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng hiệu quả. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài An toàn thực phẩm đã và đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Có rất nhiều công trình nghiên cứu đề tài quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Một số công trình, bài viết đã được nghiên cứu như: Chu Thế Vinh (2013), Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm ở các cơ sở ăn uống và công tác quản lý tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng”; Trần Thị Khúc (2014), Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội; Ngô Thị Xuân (2014), Quản lý nhà nước về về sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội; Nguyễn Lê Uyên (2011), Quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Các bài viết, các công trình nghiên cứu đã không còn tính thời sự, phần lớn nội dung của các bài viết chỉ mang tính định hướng hoàn thiện một cách chung chung mà không đi sâu vào phân tích các vấn đề có tính hệ thống về mặt lý luận và chỉ ra từng hạn chế, để từ đó đưa ra hướng hoàn thiện của chế 3
- định này. Bên cạnh đó, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp lĩnh vực quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Do đó, đề tài nghiên cứu “Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” giúp có cái nhìn tổng quát hơn, toàn diện hơn công tác quản lý nhà nước lĩnh vực an toàn thực phẩm trên địa bàn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đề ra phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về ATTP tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện ,mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Hệ thống hóa cơ sở lý luận QLNN về ATTP. - Phân tích thực trạng QLNN về ATTP tại quận Ngũ Hành Sơn. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về ATTP trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động QLNN về lĩnh vực ATTP. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Không gian: đề tài nghiên cứu về hoạt động QLNN về ATTP trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Thời gian: từ năm 2016 đến năm 2019. 4
- 5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mac – Lenin, những luận điểm quản lý hành chính nhà nước Việt Nam về ATTP. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin ngoài ra đề tài còn sử dụng một số phương pháp sau: Phương pháp thu thập dữ liệu: - Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: Luận văn thu thập tài liệu về thực trạng, chính sách QLNN về ATTP như: các đề tài tham khảo, các luận văn, các văn bản pháp luật về ATTP như: Luật, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết, Thông tư liên quan đến ATTP. Ngoài ra, luận văn còn khai thác và sử dụng số liệu trên internet của Bộ Y tế, Cục an toàn thực phẩm, các tổ chức Chính phủ, của Tổng Cục thống kê, các đánh giá, quan điểm, nhận định của chuyên gia, báo cáo của các cơ quan có liên quan đối với hoạt động QLNN về ATTP: - Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp: gồm phương pháp điều tra và phương pháp quan sát Phương pháp điều tra: là phương pháp nhằm thu thập dữ liệu nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu bằng việc xây dựng bảng hỏi. Thông qua điều tra, phỏng vấn sẽ thu thập dữ liệu sơ cấp để làm cơ sở đánh giá, nhận xét một cách chủ quan thực trạng QLNN về ATTP trên địa bàn Quận Ngũ Hành Sơn cũng như để biết được hệ thống chính sách pháp luật, công tác chỉ đạo, sự phối hợp và nguồn lực phục vụ công tác QLNN về ATTP cũng như đánh giá mức độ hiểu biết của người tiêu dùng về vấn đề ATTP, mối quan tâm của 5
- họ đến vấn đề ATTP và mức độ tin tưởng của người tiêu dùng đến thực phẩm hiện nay như thế nào và việc đánh giá sự hài lòng của người tiêu dùng, cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm về công tác QLNN về ATTP hiện nay và thông qua điều tra để biết được việc chấp hành các quy định về ATTP, kiến thức về ATTP của các cơ sở sản xuất, kinh doanh như thế nào. Đối tượng phỏng vấn: - Cơ quan QLNN về ATTP: cán bộ quản lý, chuyên viên phụ trách công tác QLNN về ATTP trên địa bàn quận (phòng Y tế, phòng Kinh tế, Trung tâm Y tế dự phòng ). - Chủ cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh. - Người tiêu dùng. Phương pháp quan sát trực quan: là phương pháp thu thập dữ liệu đơn giản, dễ thực hiện. Người quan sát có thể sử dụng trực tiếp tai, mắt để nghe, để nhìn sự vật, hiện tượng. Phương pháp này được sử dụng để quan sát điều kiện đảm bảo ATTP của các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm và cách thức QLNN về ATTP của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn quận. Phương pháp phân tích dữ liệu gồm: - Phương pháp thống kê: Thống kê là một hệ thống các phương pháp (thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu và tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu) nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và ra quyết định. Thống kê chia ra làm hai lĩnh vực là thống kê mô tả và thống kê suy luận. Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả về bộ máy QLNN về ATTP, số lượng cán bộ, kết quả hoạt động của cơ quan quản lý” kết quả thanh tra, kiểm tra ATTP, số lượng đơn vị vi phạm về điệu kiện ATTP Sử dụng phương pháp thống kê suy luận: các dữ liệu sơ cấp thu thập 6
- được sẽ được xử lý và tổng hợp phân tích bằng các phương pháp thống kê, khái quát số liệu từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá chung cho vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, để đánh giá công tác QLNN về ATTP trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Hệ thống hóa cơ sở lý luận và tầm quan trọng của việc đánh giá thực tiễn hoạt động QLNN đối với ATTP. 6.1. Ý nghĩa thực tiễn Giúp địa phương có cái nhìn tổng quát hơn về thực trạng QLNN đối với lĩnh vực ATTP trên địa bàn quận, từ đó đề ra các giải pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với lĩnh vực ATTP nhằm thay đổi hành vi của con người, cải thiện chất lượng cuộc sống, bảo vệ sức khỏe người dân, phòng ngừa ngộ độc do thực phẩm gây ra. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn. Chương 3: Hoàn thiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở nước ta hiện nay. 7
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM 1.1. Khái niệm, tầm quan trọng của an toàn thực phẩm 1.1.1. Khái niệm an toàn thực phẩm (ATTP), quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm Theo tiêu chuẩn thực phẩm Quốc tế (Codex): Thực phẩm là tất cả các chất đã hoặc chưa chế biến nhằm sử dụng cho con người bao gồm đồ ăn, uống, nhai, ngậm, hút và các chất được sử dụng trong sản xuất, chế biến hoặc xử lý thực phẩm, nhưng không bao gồm mỹ phẩm và những chất chỉ định được dùng như dược phẩm [18]. Theo Luật An toàn thực phẩm số 55/2010/QH12 ngày 17 tháng 06 năm 2010 của Quốc hội, thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm. Theo định nghĩa của Tổ chức Nông – Lương thế giới (FAO) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì “ An toàn thực phẩm (ATTP) là việc bảo đảm thực phẩm không gây hại cho sức khỏe, tính mạng người sử dụng, bảo đảm thực phẩm không bị hỏng, không chứa các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hoặc tạp chất quá giới hạn cho phép, không phải là sản phẩm của động vật, thực vật bị bệnh có thể gây hại cho sức khỏe người sử dụng [13]. Theo quy định của Luật An toàn thực phẩm năm 2010, ATTP là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người. Vậy, ATTP là tất cả các điều kiện, biện pháp cần thiết từ khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng nhằm đảm bảo cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức khỏe, tính mạng người 8
- tiêu dùng. Như vậy, ATTP là công việc đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm như nông nghiệp, thú y, cơ sở chế biến thực phẩm, y tế, người tiêu dùng. Để nghiên cứu khái niệm QLNN, trước hết cần làm rõ khái niệm “quản lý”. Thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác khác nhau tùy theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới góc độ riêng của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng những phương tiện khác nhau nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Nhà nước là thiết chế quyền lực công, đại diện cho toàn thể nhân dân quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Nhà nước có những quyền lực đặc biệt, nắm trong tay những công cụ quản lý đặc biệt, đảm bảo thực hiện quyền lợi của giai cấp thống trị và quyền lợi của toàn xã hội. Quản lý nhà nước là một lĩnh vực quản lý đặc biệt. Đó là loại quản lý gắn liền trực tiếp với hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy quyền lực nhà nước; gắn liền với việc sử dụng quyền lực nhà nước – một loại quyền lực đặc biệt, khác hẳn với các loại quyền lực khác [14]. Như vậy, QLNN là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. QLNN được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội. Quản lý ATTP: được định nghĩa là hoạt động điều khiển có tính bắt buộc của các cơ quan chức năng quốc gia (cấp Trung ương) hoặc địa phương nhằm tạo nên sự bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo rằng tất cả các loại thực phẩm trong khi sản xuất, vận chuyển, lưu kho, chế biến và phân phối đều an 9
- toàn, lành mạnh (không độc hại) và thích hợp cho tiêu thụ ở người; phù hợp với các yêu cầu về an toàn và chất lượng; được dán nhãn một cách trung thực và chuẩn xác như đã được quy định bởi pháp luật. Trách nhiệm trên hết của hoạt động QLNN về ATTP là việc triển khai các văn bản quy phạm pháp luật cũng như hướng dẫn các quy định về quản lý thực phẩm an toàn và bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng [13]. Hay, QLNN về ATTP là hoạt động có tổ chức của nhà nước thông qua các văn bản pháp luật, các công cụ, chính sách của nhà nước sẽ tác động đến tình hình thực hiện ATVSTP của đơn vị sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng nhằm định hướng , dẫn dắt các chủ thể này thực hiện tốt các vấn đề về ATTP. QLNN về ATTP bao gồm một số các hoạt động chủ yếu: Công tác hoạch định và ban hành các văn bản, chính sách, các chiến lược, kế hoạch có liên quan đến vấn đề ATTP và công tác tổ chức thực thi các văn bản gồm một số công việc cụ thể: tổ chức giáo dục tuyên truyền, công tác thanh tra, xử lý vi phạm, công tác phối hợp liên ngành trong quản lý. 1.1.2. Tầm quan trọng của an toàn vệ sinh thực phẩm - Đối với sức khỏe: Trước mắt, thực phẩm là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể, đảm bảo sức khỏe con người song cũng là nguồn gốc gây bệnh nếu không đảm bảo vệ sinh ATTP. Không có thực phẩm nào được coi là quý báu dinh dưỡng nếu nó không an toàn cho cơ thể. Vì vậy thực phẩm rất quan trọng đối với cơ thể của chúng ta. Về lâu dài, thực phẩm chẳng những có tác động lớn đối với sức khỏe của mỗi con người mà còn ảnh hưởng lâu dài đến nòi giống của dân tộc. Sử dụng các sản phẩm không đảm bảo chất lượng có thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu chứng dễ nhận thấy, nhưng sự nguy hiểm lâu dài là sự tích lũy dần các chất độc hại ở một số cơ quan trong cơ thể sau một thời gian mới phát 10
- bệnh hoặc có thể gây các khuyết tật, dị dạng cho thế hệ mai sau. Những ảnh hưởng tới sức khỏe đó phụ thuộc vào các tác nhân gây bệnh. Những trẻ suy dinh dưỡng, người cao tuổi, người bệnh càng nhạy cảm với các bệnh do thực phẩm không an toàn nên càng có nguy cơ suy dinh dưỡng và bệnh nhiều hơn [11]. - Đối với kinh tế: Đối với nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực thực phẩm là một loại sản phẩm chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị, rất quan trọng. Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thực phẩm chẳng những cần được sản xuất, chế biến, bảo quản phòng tránh ô nhiễm các loại vi sinh vật mà còn không được chứa các chất hóa học tổng hợp vượt quá mức quy định cho phép theo quy định quốc tế hoặc nhà nước, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Những thiệt hại khi thực phẩm không an toàn thành nhiều hậu quả khác nhau, bệnh cấp tính, mãn tính đến tử vong, cụ thể [13]: - Thiệt hại chính do các bệnh gây ra từ thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám bệnh, hồi phục sức khỏe, chi phí do phải chăm sóc người đau yếu, bị mất. - Lương do phải nghỉ làm - Đối với nhà sản xuất, đó là những chi phí do phải thu hồi, bảo quản sản phẩm tiêu hủy sản phẩm, những thiệt hại đó làm mất lợi nhuận của nhà sản xuất và tổn thất nặng nề nhất là mất lòng tin của người tiêu dùng. - Ngoài ra còn có các thiệt hại khác như phải điều tra, khảo sát, phân tích, thẩm tra độc hại, giải quyết hậu quả Do đó, đảm bảo ATTP để phòng các bệnh gây ra từ thực phẩm có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế, môi trường sống của 11
- các nước đã và đang phát triển, cũng như nước ta. Mục tiêu hàng đầu của ATTP là đảm bảo cho người ăn tránh bị ngộ độc, thực phẩm phải đảm bảo lành và sạch. 1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm Quản lý ATTP đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm nguồn cung ứng thực phẩm an toàn, chất lượng và bổ dưỡng cho cộng đồng. Mặt khác, bảo đảm chất lượng, ATTP còn là một trong những điều kiện tiên quyết, thiết yếu để thúc đẩy sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm phát triển ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu, góp phần phát triển kinh tế quốc gia và quốc tế. Gần đây, sự bùng phát bệnh tật do thực phẩm gây ra đã trở nên báo động, gây nên những mối lo ngại về hiệu quả của hệ thống kiểm soát ATTP. Theo kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019, 1/3 trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, thấp còi [33]. Thiếu dinh dưỡng không chỉ là kết quả của nguồn cung ứng thực phẩm không đầy đủ, nó còn gây ra do sự tiêu thụ các loại thức ăn còn hạn chế, không an toàn và kém chất lượng. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm toàn cầu xảy ra khoảng 40 triệu vụ ngộ độc. Một nửa số ca tử vong trên thế giới có liên quan tới lương thực, thực phẩm. Ở các nước đang phát triển, ước tính mỗi năm có 1/3 dân số bị ảnh hưởng bởi các bệnh do thực phẩm không an toàn gây ra, trong đó tiêu chảy do thực phẩm và nước bị ô nhiễm là nguyên nhân gây tử vong hằng năm cho khoảng 2,2 triệu người trong đó hầu hết là trẻ em [27]. Bên cạnh đó, trong môi trường toàn cầu mới, cả các nước xuất nhập khẩu thực phẩm đều đang đẩy mạnh hệ thống kiểm soát thực phẩm của mình, thực hiện và tuân thủ các chiến lược kiểm soát thực phẩm dựa trên đánh giá nguy cơ nhằm vừa bảo đảm quyền lợi, sức khỏe người tiêu dùng, vừa tạo điều kiện thúc đẩy thương mại thực phẩm phát triển. Điều quan trọng đối với các nước đang phát triển đó là thực hiện và thi hành một hệ thống kiểm soát 12
- ATTP dựa trên khái niệm hiện đại về đánh giá các mối nghi. Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc hoạch định các chính sách và tạo khung pháp lý nhằm giảm thiểu những rủi ro, những mối nguy đối với ATTP hay đề ra những quy định mà các nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải đáp ứng để bảo đảm thực phẩm an toàn từ khâu sản xuất tới lưu thông.Tại Việt Nam, Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua từ năm 2003. Để nâng cao tính hiệu quả và đồng bộ trong công tác quản lý về ATTP, Luật An toàn thực phẩm (Luật số 55/2010/QH12) đã được Quốc hội thông qua năm 2010. Tới nay nhiều văn bản pháp lý khác đã và đang được xây dựng, triển khai nhằm tạo lập một hệ thống kiểm soát thực phẩm đồng bộ từ quá trình sản xuất tới lưu thông, phân phối. Nhìn chung, quản lý ATTP không những là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cấp, ngành chức năng mà còn cần sự đóng góp của toàn xã hội, đặc biệt là sự tham gia tích cực từ phía người sản xuất, người kinh doanh và người tiêu dùng nhằm mục đích bảo đảm sức khỏe cho người tiêu dùng và mang lại quyền lợi cho chính mình [33]. 1.2. Chủ thể, nội dung, đối tượng của quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm Chủ thể quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm Chủ thể quản lý: Là các cá nhân, tổ chức có một quyền lực nhất định buộc các đối tượng quản lý phải tuân thủ các quy định do mình đề ra để đạt được những mục tiêu đã định trước. Chủ thể quản lý nhà nước: Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước Luật An toàn thực phẩm năm 2010 đã chuyển hoạt động quản lý về ATTP sang cơ chế quản lý theo nhóm sản phẩm. Theo đó, việc phân công 13
- trách nhiệm QLNN về an toàn vệ sinh thực phẩm được xác định theo hướng quản lý theo nhóm sản phẩm thay vì quản lý theo phân khúc sản xuất, kinh doanh thực phẩm với hi vọng khắc phục sự chồng chéo trong QLNN về ATTP của các Bộ, ngành đồng thời xác định rõ hơn trách nhiệm các Bộ, ngành trong lĩnh vực QLNN về ATTP ( giảm số bộ tham gia QLNN về ATTP từ 08 Bộ theo Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 còn 03 Bộ). Tại Điều 62, Điều 63, Điều 64 quy định: Tại tuyến Trung ương: Chính phủ: quản lý ATTP trên phạm vi cả nước, trên cơ sở đó giao nhiệm vụ quản lý trên một số lĩnh vực cụ thể: Bộ Y tế: quản lý ATTP trong suốt quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, nước uống đóng chai, nước khoáng thiên nhiên, thực phẩm chức năng và các thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ; Quản lý ATTP đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: quản lý ATTP trong suốt quá trình sản xuất, thu gom, giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với ngũ cốc, thịt và các sản phẩm từ thịt, thủy sản và sản phẩm thủy sản; rau, củ, quả và sản phẩm rau, củ, quả; trứng và các sản phẩm từ trứng; sữa tươi nguyên liệu, mật ong và các sản phẩm từ mật ong, thực phẩm biến đổi gen, muối và các nông sản thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ; Quản lý ATTP đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý. Bộ Công thương: quản lý ATTP trong suốt quá trình sản xuất, chế biến, 14
- bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với các loại rượu, bia, nước giải khát, sữa chế biến, dầu thực vật, sản phẩm chế biến bột và tinh bột và các thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ; Quản lý ATTP đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý. Tại tuyến địa phương: Thực hiện Quyết định số 809/QĐ-TTg ngày 30/05/2011 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án tăng cường năng lực quản lý chất lượng nông, lâm, thủy sản và muối đến nay đã có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Chi cục quản lý chất lượng nông lâm và thủy sản. Ngoài ra các Chi cục thú y, bảo vệ thực vật, thủy sản cũng tham gia triển khai quản lý, kiểm tra chất lượng ATTP nông, lâm, thủy sản theo phân công của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Một số Chi cục quản lý chất lượng nông, lâm, thủy sản địa phương đã được thành lập Trạm kiểm nghiệm hoặc các đơn vị sự nghiệp trực thuộc về kiểm nghiệm và tư vấn đảm bảo chất lượng, ATTP nông, lâm, thủy sản. Trong lĩnh vực y tế, tại tuyến tỉnh, thực hiện Nghị định 79/2008/NĐ-CP của Chính phủ, đến nay đã có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Chi cục ATVSTP trực thuộc Sở Y tế với trung bình khoảng 11 biên chế hành chính. Tại cấp huyện và cấp xã các địa phương, theo báo cáo của UBND các tỉnh, tại cấp huyện và cấp xã đã bố trí cán bộ làm công tác ATTP. Tại cấp huyện, công tác quản lý về ATTP giao cho Phòng Kinh tế hoặc Phòng Kinh tế - Nông nghiệp, Phòng Y tế hoặc Trung tâm Y tế huyện đảm nhiệm. Tuy nhiên, ở những quận hoặc thành phố thuộc tỉnh, do không có Phòng Nông nghiệp, công tác quản lý về ATTP giao cho Phòng Y tế hoặc Trung tâm Y tế thực hiện. Tại cấp xã, có 01 cán bộ y tế kiêm nhiệm vụ giúp UBND về 15
- ATTP. UBND xã, phường có Ban Chỉ đạo vệ sinh ATTP do Phó Chủ tịch UBND xã, phường làm Trưởng ban, Phó ban là Trạm trưởng Trạm Y tế; các thành viên khác gồm cán bộ công an, tư pháp, văn hóa xã hội, tài chính, an ninh trật tự Nội dung quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm Xây dựng và ban hành pháp luật về an toàn thực phẩm Bất kỳ một xã hội nào cũng có trật tự riêng của nó, trật tự đó phải được giữ vững bằng pháp luật, không thể chỉ bằng tập tục hoặc chỉ bằng những quy tắc có tính chất xã hội. Trong xã hội có rất nhiều vấn đề nhưng không phải loại vấn đề nào cũng đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật nhưng có một số vấn đề xã hội nhất thiết phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Trong đó có vấn đề về ATTP bởi tính chất phức tạp của nó. Để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý nhà nước, các chủ thể quản lý sử dụng nhiều hình thức hoạt động khác nhau nhưng hình thức cơ bản và quan trọng nhất là xây dựng và ban hành pháp luật. Việc quản lý xã hội phải bằng pháp luật thì mục đích việc quản lý mới đạt được và có hiệu quả cao. Pháp luật có vai trò và vị trí quan trọng đặc biệt đối với các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nó chính là phương tiện ghi nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ngoài ra, pháp luật do nhà nước ban hành để quản lý xã hội nhưng nhà nước cũng sẽ bị hạn chế bởi chính pháp luật, chịu sự phục tùng và phải thi hành pháp luật do chính mình đặt ra, có như vậy mới đảm bảo được quyền của công dân, tránh sự lạm quyền, đảm bảo sự công bằng và sự phát triển bình thường của xã hội Chính sách ATTP được hiểu là tổng thể những nguyên tắc thể hiện tư tưởng của Nhà nước về đường lối, phương hướng xây dựng và QLNN về ATTP. Chính sách đặt ra các nguyên tắc chung sao cho phù hợp với mục tiêu của đất nước. Chính sách có ý nghĩa quan trọng trong công tác QLNN về 16
- ATTP, song chính sách không thể thiếu pháp luật. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về ATTP nhằm đảm bảo vệ sinh ATTP, phòng chống ngộ độc thực phẩm, bảo vệ sức khỏe, tính mạng người dân. Chằng hạn, Nhà nước ban hành Luật An toàn thực phẩm năm 2010, Nghị định 178/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP, Tổ chức thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm Quản lý xã hội bằng pháp luật không có nghĩa là nhà nước chỉ ban hành pháp luật mà bao gồm cả tổ chức thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội, đưa pháp luật vào đời sống của từng người dân và của toàn xã hội. Hoạt động ban hành và xây dựng pháp luật là hết sức cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là nó phải được thực thi trong thực tế, sự quan trọng của pháp luật không phải ở chỗ chúng được ghi trên giấy, mà là ở chỗ được đem ra thi hành và mang lại hiệu quả. Việc tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về ATTP bao gồm: Công bố văn bản quy phạm pháp luật quy định về ATTP thông qua việc tổ chức công bố, đăng công báo, niêm yết văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, truyền thông về việc ban hành và nội dung của văn bản quy phạm pháp luật; ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện các điều kiện bảo đảm thi hành văn bản quy phạm pháp luật như tập huấn nghiệp vụ, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất; theo dõi, đánh giá hiệu quả thi hành văn bản quy phạm pháp luật Hệ thống chính sách, văn bản pháp luật, kế hoạch phải đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, rõ ràng và phải được phổ biến, thông tin đại chúng. Chất lượng của công cụ kế hoạch hóa, chính sách và bộ máy tổ chức trong QLNN về ATTP sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sản 17