Luận văn Quan hệ giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

pdf 94 trang vuhoa 25/08/2022 8760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quan hệ giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_quan_he_giua_co_quan_dieu_tra_va_vien_kiem_sat_tron.pdf

Nội dung text: Luận văn Quan hệ giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LANG VĂN BẢO QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 CHUYÊN NGÀNH : LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ : 5 . 05 . 14 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2005
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LANG VĂN BẢO QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 CHUYÊN NGÀNH : LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ : 5. 05. 14 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - NĂM 2005
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 3 Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 9 1.1. Cơ sở lý luận quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 9 1.1.1. Cơ sở pháp luật 9 1.1.2. Cơ sở thực tiễn 17 1.2. Lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam về quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 19 1.2.1. Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát giai đoạn 1960 - 1988 19 1.2.2. Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát giai đoạn 1989 - 2002 24 1.3. Các hình thức quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 28 1.3.1. Quan hệ phối hợp 29 1.3.2. Quan hệ chế ước 31 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 35 2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 35 2.1.1. Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 35 1
  4. 2.1.2. Quan hệ chế ước lẫn nhau giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 38 2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 41 2.2.1. Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 41 2.2.2. Quan hệ chế ước lẫn nhau giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 50 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 60 3.1. Thực trạng quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 60 3.1.1. Một số nét chính về tình hình tội phạm năm 2003 và năm 2004 60 3.1.2. Nhận xét về những ưu điểm, tồn tại trong quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra 67 3.1.2.1. Những ưu điểm 67 3.1.2.2. Những tồn tại 73 3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 76 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan 77 3.2.2. Hoàn thiện về tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát 80 3.2.3. Nâng cao trình độ, năng lực của Điều tra viên, Kiểm sát viên 81 3.2.4. Kiểm tra, giám sát hoạt động của Điều tra viên, Kiểm sát viên 83 KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 2
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết Trong những năm qua, Quốc hội nước ta đã tiến hành sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật cơ bản, quan trọng như Hiến pháp 1992, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi công cuộc đổi mới mọi mặt kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, trong đó có chương trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phù hợp với xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay. Đặc biệt, việc sửa đổi, bổ sung toàn diện, cơ bản Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 1989, thay thế bằng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 có hiệu lực thi hành đi vào thực tiễn đời sống, một mặt đã thể chế hóa những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo, định hướng về cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; mặt khác đã tạo ra sự chuyển biến quan trọng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, đảm bảo cho các cơ quan này kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những người có hành vi phạm tội, bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, trước khi Bộ luật tố tụng hình sự 2003 có hiệu lực thi hành thì trong hoạt động tố tụng hình sự vẫn còn xảy ra khá nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, bắt, giam, giữ, truy tố oan sai người vô tội. Thực trạng đó đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của các cơ quan tư pháp, trước hết là Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát - là những cơ quan tiến hành tố tụng cùng xuất hiện đồng thời ngay từ các giai đoạn đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án hình sự là khởi tố, điều tra vụ án, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật. Nguyên nhân để xảy ra tình trạng nêu trên có thể được lý giải từ nhiều khía cạnh khác nhau như sự bất cập, hạn chế của những quy định pháp luật 3
  6. về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tố tụng còn chưa cụ thể, rõ ràng, các quy định pháp luật còn chồng chéo lẫn nhau hoặc do trình độ, năng lực hạn chế của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Song, có thể nói yếu tố chủ quan cơ bản là thông qua các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát chưa quan tâm chú trọng duy trì thường xuyên quan hệ hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, chưa tuân thủ đầy đủ, nghiêm túc quy định pháp luật tố tụng hình sự về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình nên dẫn đến hạn chế, vi phạm. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004 mặc dù không có những quy định cụ thể quan hệ của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự. Song thông qua những chế định sửa đổi, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan tố tụng, đặc biệt là Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, có thể thấy được ý nghĩa quan trọng và sự cần thiết phải tăng cường quan hệ hoạt động tố tụng giữa hai cơ quan, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay. Việc đánh giá đúng thực trạng quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong thời gian qua, và việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về quan hệ giữa hai cơ quan tiến hành tố tụng là một yêu cầu bức thiết để có sự nhận thức, vận dụng thống nhất, đúng đắn những quy định Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành vào thực tiễn hoạt động tố tụng, đảm bảo tính khả thi của Bộ luật trong thực tiễn. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên đã chọn đề tài “ Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 " làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Về quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, đã có một số công trình khoa học và bài viết nghiên cứu đề cập đến, đặc 4
  7. biệt là công trình khoa học “Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự” của tác giả GS.TS. Đỗ Ngọc Quang - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 1997; Một số bài viết “Cần quy định cụ thể về quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Sơn đăng trên Tạp chí Kiểm sát số chuyên đề tháng 6/2003; Luận văn Thạc sỹ “Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát” của tác giả Trần Công Hòa. Bài phát biểu của đồng chí Bộ trưởng Bộ công an Lê Hồng Anh đăng trên Tạp chí kiểm sát số tháng 2/2003 "Tăng cường quan hệ phối hợp, hiệp đồng công tác giữa Viện kiểm sát nhân dân và Công an nhân dân" v.v Trên cơ sở những quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, các công trình khoa học, các bài viết nêu trên ở những góc độ, chừng mực nhất định đã nghiên cứu tổng quát về quan hệ giữa Cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự, trong đó có Cơ quan điều tra với Viện kiểm sát hoặc là bao trùm, tổng quát hoặc chỉ ở một khía cạnh khác của vấn đề mang tính chất khái quát, đặc trưng. Tuy nhiên, do Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã được sửa đổi, bổ sung bằng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, trong đó có nhiều chế định mới quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, liên quan đến quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự, cho nên việc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận những quy định mới về quan hệ hoạt động tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thông qua việc phân tích, đánh giá một cách khoa học, khách quan, toàn diện những quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng là một yêu cầu bức thiết và cũng là nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu của đề tài. Thiết nghĩ, việc nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận nêu trên sẽ có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện lý luận và thực tiễn trong việc nhận thức, vận dụng thống nhất đúng đắn các quy định pháp luật về quan hệ 5
  8. giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, đảm bảo tính khả thi, chất lượng và hiệu quả hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn a. Mục đích Nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự theo quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; đồng thời thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ giữa hai cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong thời gian qua, làm rõ những bất cập, vướng mắc làm hạn chế đến hiệu quả quan hệ hoạt động tố tụng trong đấu tranh phòng chống tội phạm, kiến nghị đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm phát huy, tăng cường quan hệ hoạt động giữa các cơ quan tư pháp trong tố tụng hình sự. b. Nhiệm vụ Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tiến hành tố tụng thông qua các quy định về Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. - Phân tích, đánh giá một cách khoa học thực trạng quan hệ phối hợp và chế ước giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trước và sau khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. - Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường quan hệ hoạt động tố tụng hình sự giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đảm bảo tính hiệu quả, chất lượng trong đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật, đặc biệt là những chế định, những điểm mới trong BLTTHS năm 2003 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự. Thông qua đó làm rõ quan hệ phối hợp 6
  9. và chế ước giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. 5. Cơ sở khoa học của đề tài + Cơ sở lý luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận và phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước, trong đó có hệ thống cơ quan tư pháp trong Nhà nước XHCN. + Cơ sở thực tiễn: Là thực tiễn tổ chức và hoạt động tố tụng hình sự giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong qúa trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự trước, và sau khi có Bộ luật tố tụng hình sự 1988 và 2003. 6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến để khẳng định tính tất yếu, khách quan của quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp để đánh giá, khái quát thực trạng hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan tư pháp mà trọng tâm là Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Từ đó đánh giá một cách khoa học và chính xác, khách quan về việc duy trì và củng cố quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm. 7. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa nhất định trong việc làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận và thực tiễn về quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự. Từ đó có sự nhận thức, vận dụng thống nhất đúng đắn các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, góp phần tăng cường hoạt động phối hợp có hiệu quả giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trên cơ sở từng cơ quan thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Điểm mới của luận văn là trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tham khảo các công trình khoa học, bài viết nghiên cứu, đề cập đến quan hệ giữa Cơ quan 7
  10. điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự. Tác giả đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu, phân tích, so sánh, đối chiếu làm rõ những chế định mới quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. 8. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, phần kết luận gồm có 3 chương và 7 mục. Cụ thể: Chương 1: Nhận thức chung về quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự; Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự; Chương 3: Thực trạng và những giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự. 8
  11. Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Cơ sở lý luận quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự. 1.1.1. Cơ sở pháp luật *. Theo quy định của pháp luật thì Cơ quan điều tra là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ( khoản 1 - Điều 33 BLTTHS năm 2003). Nếu xem xét, nhìn nhận ở góc độ cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước thì Cơ quan điều tra nói chung, trừ Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nằm trong lực lượng vũ trang (Bộ Quốc phòng, Bộ Công an) thuộc hệ thống cơ quan chấp hành (Chính phủ) thực hiện nhiệm vụ rất quan trọng là bảo vệ vững chắc độc lập an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN, có nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Xét trên khía cạnh hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp thì Cơ quan điều tra có vị trí rất quan trọng xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo pháp luật quy định. Mặc dù Cơ quan điều tra không có quyền quyết định một người có phải là người phạm tội hay không nhưng để có chứng cứ chứng minh tội phạm, cần thiết phải tiến hành các hoạt động điều tra, đó là việc "áp dụng các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa" ( Điều 3 - Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004). Thực tiễn đã khẳng định rằng hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra là rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ án hình sự. Để xác định một người 10
  12. có phải là người phạm tội hay không, phải có chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, mà những chứng cứ đó, bao gồm chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, cũng như những chứng cứ xác định các tình tiết khác của vụ án phải được thu thập bởi Cơ quan điều tra theo những trình tự, thủ tục đúng theo pháp luật quy định. Viện kiểm sát, Toà án phải dựa trên kết quả điều tra của Cơ quan điều tra để truy tố, xét xử. Có thể nói "Điều tra là khâu đột phá, là giai đoạn đầu giữ vai trò thành bại đối với cả tiến trình tố tụng hình sự Những kết quả khả quan cũng như những sai lầm tư pháp nghiêm trọng nhất như bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra. Vị trí quan trọng của hoạt động điều tra đối với công tác xét xử không chỉ giới hạn ở số lượng và chất lượng chứng cứ mà Cơ quan điều tra có thể cung cấp cho Tòa án, mà thậm chí trong nhiều trường hợp sự nhận định, đánh giá tội phạm của Cơ quan điều tra và của Viện kiểm sát còn quy định cả giới hạn xét xử "[30, tr 106]. Điều đó cho thấy hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra là hoạt động không thể thiếu được trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đồng thời cũng khẳng định vị trí, vai trò của Cơ quan điều tra trong bộ máy Nhà nước nói chung và trong hệ thống cơ quan tư pháp nói riêng là rất quan trọng. Theo quy định của pháp luật hiện hành ( BLTTHS năm 2003; Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 ) thì Cơ quan điều tra gồm có : - Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân. - Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân. - Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Trên cơ sở đó yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc 11
  13. phục, phòng ngừa, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. *. Theo quy định của Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2002, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, thì Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan nhà nước được Quốc hội - Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất lập ra và giao cho chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình Viện kiểm sát không chỉ có trách nhiệm đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra được tuân thủ đúng pháp luật nhằm phát hiện nhanh chóng, chính xác, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tạo cơ sở pháp lý cho việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mà còn kịp thời phát hiện những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và chấp hành án, áp dụng những biện pháp để loại trừ vi phạm pháp luật của những cơ quan, tổ chức và những người nói trên, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể khẳng định rằng pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm để pháp luật được triệt để tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất, đảm bảo mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan sai người vô tội Thực tiễn cho thấy rằng trong quá trình tố tụng hình sự thì giai đoạn khởi tố, điều tra có ý nghĩa quan trọng mang tính chất quyết định đối với việc 12
  14. giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Ngay từ đầu việc phân loại nguồn tin báo tội phạm chính xác sẽ giúp cho cơ quan có thẩm quyền khởi tố đúng vụ án. Trên cơ sở đó, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát tiến hành điều tra, kiểm sát điều tra nhằm thu thập chứng cứ, đảm bảo mọi hoạt động điều tra tiến hành đúng quy định của pháp luật và kết quả điều tra là tài liệu, chứng cứ mà dựa vào đó để Viện kiểm sát ra quyết định truy tố người phạm tội ra trước Toà án để Toà án xét xử nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát thể hiện vai trò của mình thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong đó thực hành quyền công tố là những biện pháp mà Viện kiểm sát trực tiếp quyết định như quyết định khởi tố vụ án hình sự; khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra ; quyết định truy tố bị can ; đọc cáo trạng; thực hiện việc luận tội. Còn kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm kiểm sát việc khởi tố; kiểm sát điều tra; kiểm sát việc Cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam ; kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường; thu thập dấu vết; khám nghiệm tử thi; kiểm tra các chứng cứ buộc tội, các chứng cứ gỡ tội Tội phạm phải được phát hiện, khởi tố, điều tra truy tố kịp thời, không làm oan người vô tội, đảm bảo cho hoạt động khởi tố điều tra được tiến hành đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát luôn giữ vai trò chủ động, tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra đảm bảo việc phân loại xử lý tin báo tội phạm chính xác, kịp thời, khởi tố điều tra, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong những năm gần đây, trước tình hình tội phạm ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, đòi hỏi công tác tư pháp nói chung và công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nói riêng phải có những 13
  15. đổi mới chuyển biến tích cực, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đặc biệt đối với Viện kiểm sát nhân dân, chỉ thị số 53 - CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện đã chỉ rõ : " Tăng cường trách nhiệm pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân đối với công tác bắt, giam, giữ Sai sót trong việc bắt, giam, giữ ở địa phương nào thì trước hết Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương đó phải chịu trách nhiệm" [11, tr 12] Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị một lần nữa nêu rõ, "Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình" [22, tr 10]. Điều đó một lần nữa khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng cũng như trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung. Trên cơ sở nguyên lý triết học về mối liên hệ phổ biến, vận dụng vào thực tiễn trong cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước, để đảm bảo sự vận hành và hoạt động có hiệu quả của toàn bộ hệ thống cơ quan Nhà nước thì mặc dù mỗi cơ quan tuy có vị trí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau song không thể không quan hệ với nhau trong quá trình họat động thực hiện nhiệm vụ của mình. Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự cũng không nằm ngoài quy luật đó. Là những cơ quan thuộc hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong quá trình hoạt động tố tụng hình sự Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát luôn có sự tác động, hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó. Thực tế cho thấy rằng quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nảy sinh trong quá trình hoạt động tố tụng hình sự là tất yếu khách quan bởi xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, việc áp 14
  16. dụng các biện pháp ngăn chặn, các hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra nhằm đảm bảo mọi hoạt động tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Đối với Cơ quan điều tra có nhiệm vụ tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Hơn nữa, quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát tồn tại trên cơ sở các nguyên tắc tố tụng hình sự. Bản chất quan hệ này hướng vào mục đích chung nhất là bảo vệ quyền lợi của Nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Điều đó đòi hỏi Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc tố tụng hình sự như nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều10); nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN (Điều 3); nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trước pháp luật (Điều 5); nguyên tắc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản công dân (Điều 7); nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều13); nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 26); nguyên tắc phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội ( Điều 27) Tóm lại, quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là tồn tại khách quan và nội dung cơ bản của quan hệ đó xuất phát từ nhiệm vụ chung là xác định có căn cứ và hợp pháp tội phạm và người phạm tội, tạo cơ sở pháp lý cho việc buộc tội kẻ phạm tội trước Tòa án. Để thực hiện tốt nội dung quan hệ đó, giữa hai cơ quan phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Đồng thời cũng phải có sự chế ước kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa hai cơ quan nhằm tránh được những khuyết điểm, sai lầm có 15
  17. thể xảy ra trong quá trình hoạt động tố tụng hình sự, đảm bảo việc khởi tố, điều tra tuân thủ đúng quy định của pháp luật. *. Từ những vấn đề nêu trên có thể khẳng định rằng Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là những cơ quan tiến hành tố tụng có vị trí, chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Mặc dù pháp luật quy định Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát có hệ thống cơ cấu, tổ chức độc lập, cùng những chức năng, quyền hạn khác nhau, song cùng thực hiện nhiệm vụ chung của Luật tố tụng hình sự là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, kịp thời phát hiện tội phạm, khởi tố và áp dụng các biện pháp tố tụng để điều tra vụ án hình sự theo quy định của pháp luật, cùng chủ động phối hợp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Thông qua đó tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục mọi người có ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn theo pháp luật quy định, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phải triệt để tuân thủ các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cho cuộc đấu tranh chống tội phạm được kiên quyết, triệt để kịp thời, bảo đảm trừng trị nghiêm minh và giáo dục kẻ phạm tội, đồng thời ngăn chặn việc làm oan người vô tội và ngăn ngừa việc hạn chế các quyền dân chủ của công dân một cách trái pháp luật. Bất cứ người nào phạm tội, dù cho họ là ai cũng phải bị xử lý theo pháp luật hình sự, tài sản và địa vị xã hội không mang lại đặc quyền gì trước Tòa án và pháp luật. Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau khi tham gia tố tụng hình sự. Mặt khác, để đấu tranh phòng chống tội phạm đạt được hiệu quả tốt thì mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện và xử lý bằng pháp luật hình sự. Điều đó đòi hỏi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội, xác định vô tội, những 16
  18. tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Mọi tình tiết, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra phải được đánh giá trên cơ sở pháp lý khoa học để rút ra kết luận khách quan, chính xác về vụ án. Để thực hiện tốt yêu cầu nêu trên đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tức là phải được đào tạo về nghiệp vụ, có kiến thức pháp luật vững chắc, có tư duy pháp lý và khả năng suy đoán lô gích. Phải xác định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều đó cũng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng phải thật sự vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ. Họ phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, tiến hành công việc của mình với thái độ công tâm, khách quan. Không được để những quan hệ, những tình cảm cá nhân chi phối vào công việc. Không được có thái độ thiên vị hay định kiến đối với bất kỳ người tham gia tố tụng nào. Đó là các nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng, nguyên tắc xác định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Việc triệt để tuân thủ những nguyên tắc tố tụng hình sự nêu trên là một trong những điều kiện tiên quyết để các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, đồng thời vận dụng để phối hợp linh hoạt vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả tốt nhất. 1.1.2. Cơ sở thực tiễn Trong những năm qua, khi đất nước bước sang thời kỳ đổi mới chuyển hóa từ nền kinh tế quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với xu thế hội nhập toàn cầu hóa thì bên cạnh những thành tựu quan trọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được trên các lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội, thì mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh, kéo theo hàng loạt vấn đề xã hội phức tạp nổi 17