Luận văn Phục hồi doanh nghiệp theo luật phá sản 2014

pdf 69 trang vuhoa 25/08/2022 7320
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phục hồi doanh nghiệp theo luật phá sản 2014", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phuc_hoi_doanh_nghiep_theo_luat_pha_san_2014.pdf

Nội dung text: Luận văn Phục hồi doanh nghiệp theo luật phá sản 2014

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN QUANG TRUNG PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014 Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN Hà Nội - 2017
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN QUANG TRUNG
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN 6 1.1. Khái quát về việc phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 6 1.2. Phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo quy định của pháp luật phá sản 14 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014 23 2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 23 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 39 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM 46 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Việt Nam 46 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Việt Nam 52 KẾT LUẬN 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Song hành với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, tình trạng phá sản của các doanh nghiệp là hậu quả không thể tránh khỏi của quá trình cạnh tranh gay gắt. Với nhiều lý do, doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng không còn khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, các khoản lương của công nhân trong nhiều tháng liền và đứng trước nguy cơ phá sản. Việc giải quyết hậu quả đó không phải là vấn đề riêng của một cơ quan, tổ chức, mà là nhiệm vụ của nhiều chủ thể liên quan và xảy ra ở bất kỳ quốc gia nào. Chế định phá sản nhằm mục tiêu bảo vệ và gìn giữ một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh, tạo điều kiện cho những doanh nghiệp thua lỗ, không có khả năng thanh toán phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc có thể rút khỏi thị trường một cách hợp pháp. Pháp luật phá sản trên thế giới được xây dựng theo hai hướng khác nhau. Xu hướng thứ nhất là tập trung vào chủ thể không có khả năng thanh toán nợ đến hạn, tức là việc cứu các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, bảo đảm việc làm cho người lao động thông qua việc phục hồi doanh nghiệp. Xu thế thứ hai là hướng vào bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, pháp luật phá sản thế giới có xu hướng kết hợp cả hai mục tiêu này, tức là pháp luật phá sản không những bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của chủ nợ mà quyền lợi của con nợ cũng được đảm bảo một cách tối ưu. Vì vậy, nhiều quốc gia trên thế giới đang tiến hành cải cách pháp luật phá sản theo hướng không chỉ nhằm tạo ra một quy trình để doanh nghiệp con nợ thực hiện an toàn việc phá sản, mà bên cạnh đó, cũng quy định những trình tự, thủ tục hợp pháp nhằm cứu vãn các doanh nghiệp đang đứng bên bờ phá sản có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh. 1
  5. Không nằm ngoài thông lệ chung đó, pháp luật phá sản Việt Nam đã có những sửa đổi, bổ sung để theo kịp yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường. Trình tự, thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một bộ phận quan trọng của trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp được quy định trong Luật Phá sản 2014. Việc phục hồi doanh nghiệp tạo ra những cơ hội, điều kiện để những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể vượt qua tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, tránh bị tuyên bố phá sản. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp được phục hồi sẽ đảm bảo lợi ích của chủ nợ và những người có liên quan, đảm bảo việc làm cho người lao động, duy trì trật tự xã hội, làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp. Trên cơ sở các phân tích ở trên, với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về trình tự, thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật của phương thức này, nên em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Phục hồi doanh nghiệp theo Luật Phá sản 2014” để làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luật Phá sản 2014 được thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 19/6/2014, có hiệu lực ngày 01/01/2015 thay thế Luật Phá sản 2004. Có thể nói, trong bối cảnh hiện nay, việc ban hành Luật Phá sản 2014 là rất kịp thời và có ý nghĩa quan trọng khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện Đề án tổng thể tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các loại hình doanh nghiệp. Trong các công tình nghiên cứu về pháp luật phá sản thời gian qua, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến phục hồi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như: - Bùi Thị Dung Huyền (2010), “Tìm hiểu các quy định của Luật Phá sản năm 2004 về thủ tục phục hồi, thủ tục thanh lý, tuyên bố doanh nghiệp 2
  6. hợp tác xã bị phá sản và một số kiến nghị”, chuyên đề khoa học xét xử, Viện Khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao. - Nguyễn Thị Hường (2005), “Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản 2004”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà nội; - Trần Minh Tiến, (2007), “Thủ tục phục hồi doanh nghiệp mắc nợ trong Luật Phá sản Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. - Đinh Thị Thanh Nga, (2007), “Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng bị phá sản”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Đến thời điểm hiện tại có rất ít các công trình nghiên cứu liên quan đến phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản 2014. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản 2004 đã có những công trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá liên quan đến phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như các bài viết: “Phục hồi doanh nghiệp phá sản, một mục tiêu lớn trong vấn đề lập pháp đối với pháp luật phá sản hiện đại” của tác giả Dương Hương Sơn, được đăng tải trên Trang Thông tin điện tử moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao- doi.aspx?ItemID=1642; “Tìm hiểu Luật Phá sản một số nước trên thế giới” được đăng tải trên Trang điện tử option=com_content&view=article&id=635: tim-hieu-phap-luat-pha-san-tren- the-gioi Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã được công bố trên đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị trong quá trình nghiên cứu để tác giả hoàn thiện luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 3
  7. Mục đích của luận văn là nhằm nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật phá sản về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, từ đó, đề xuất định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu ở trên, nhiệm vụ của luận văn được xác định là: - Làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; - Khái quát và đánh giá những quy định của pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản 2014; - Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Việt Nam trong thời gian tới 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; hệ thống pháp luật về phá sản Việt Nam hiện hành và thực tiễn thực hiện. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của Luận văn tập trung chủ yếu vào các quy định của pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản 2014, đồng thời, để làm rõ nội dung nghiên cứu, Luận văn có tham khảo kinh nghiệm pháp luật các nước về vấn đề này. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ yếu để thực hiện luận văn này bao gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, so sánh và đánh giá 4
  8. - Bằng các phương pháp nghiên cứu này, luận văn trước hết sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Chương 1. - Luận văn cũng vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đánh giá thực trạng pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong quá trình thực hiện pháp luật tại Chương 2. - Đối với Chương 3, Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá kết hợp với phương pháp dự báo để đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về pháp luật phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Việt Nam theo Luật Phá sản 2014. Kết quả nghiên cứu của luận văn hàm chứa nhiều thông tin pháp lý có giá trị tham khảo tốt đối với hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập cũng như hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phục hồi doanh nghiệp nói riêng và pháp luật phá sản nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Chương 2: Thực trạng pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Việt Nam 5
  9. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN 1.1. Khái quát về việc phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trọng phá sản 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 1.1.1.1. Khái niệm phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Phục hồi là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt thì phục hồi có nghĩa là khôi phục cái đã mất hoặc giảm sút đi. Thủ tục phục hồi mặc dù có nhiều tên gọi khác nhau như sự quản lý ở Anh và các nước thuộc khối thịnh vượng chung (Canada, Úc); chế độ người quản lý Mỹ (năm 1898); thủ tục hòa giải và tổ chức lại (chỉnh lý, chỉnh đốn) như ở Mỹ (Luật Phá sản sửa đổi năm 1874), Trung Quốc (1986); thủ tục phục hồi như ở Mỹ (1978), Pháp (từ 1967), Trung Quốc (2007), song các thủ tục đều thể hiện một mục tiêu đó chính là áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm tạo điều kiện cho con nợ trong tình trạng phá sản được “hồi sinh” [15]. Thủ tục phục hồi trước hết là một giải pháp nhằm cứu vãn con nợ lâm vào tình trạng phá sản (mất khả năng thanh toán) tránh bị phá sản, bên cạnh đó nó còn là giải pháp trong việc bảo hộ đối với lợi ích của chủ nợ (chủ nợ có thể thu hồi được toàn bộ nợ nếu phục hồi thành công). Trong giải pháp này, được cụ thể bằng nhiều biện pháp nhằm tổ chức lại hoạt động của doanh nghiệp con nợ lâm vào tình trạng phá sản. Đi liền với quy định về thủ tục phục hồi, các quy định về các biện pháp là không thể thiếu. Những biện pháp này tùy theo tình hình thực tiễn kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia để tạo nên sự hợp lý, có tình khả thi. 6
  10. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về phá sản ở Việt Nam vẫn chưa xây dựng khái niệm phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Để hiểu rõ khái niệm phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chúng ta có thể tham khảo những khái niệm của các tác giả trong và ngoài nước trong các công trình khoa học. Có ý kiến cho rằng “phục hồi được hiểu là đem lại cho con nợ đang trong tình trạng khó khăn những điều kiện và cơ hội tiếp tục kinh doanh chứ không phải là thanh toán con nợ đó” [2]. Từ cách hiểu đó, khái niệm phục hồi doanh nghiệp được thể hiện qua các nội dung sau: - Đối tượng áp dụng của thủ tục là những doanh nghiệp con nợ nằm trong tình trạng khó khăn về mặt tài chính; - Trong tiến trình phục hồi không có sự thanh lý tài sản của doanh nghiệp con nợ; - Mục đích của việc phục hồi là nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp con nợ được tiếp tục hoạt động kinh doanh. Theo Giáo sư Luật học Gérard Cornu, Trường Đại học Tổng hợp Monpeillier trong cuốn Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Association Henri Capitant (Cộng hoà Pháp) xuất bản năm 2000 đã định nghĩa: “Phục hồi doanh nghiệp mắc nợ trên phương diện pháp lý là một thủ tục được mở cho mọi doanh nghiệp của luật tư nằm trong tình trạng ngừng thanh toán các khoản nợ nhằm cho phép cứu vãn doanh nghiệp, duy trì hoạt động của các doanh nghiệp và việc làm cũng như hoàn trả các khoản nợ”. Như vậy, với định nghĩa này, Giáo sư Gérard Cornu cũng chỉ ra cho chúng ta thấy những đặc trưng cơ bản của phục hồi doanh nghiệp: (i) Phục hồi doanh nghiệp là một thủ tục luật định; (ii) Đối tượng áp dụng là những doanh nghiệp ngừng thanh toán các khoản nợ đến hạn; (iii) Mục đích của việc phục hồi là cứu vãn, duy trì hoạt động của doanh nghiệp và hoàn trả các khoản nợ. Trong hoạt động kinh doanh, một doanh nghiệp vừa là con nợ, vừa là chủ nợ là điều hết sức bình thường. Chỉ khi doanh nghiệp không còn khả năng 7
  11. thanh toán các khoản nợ đến hạn thì lúc đó doanh nghiệp sẽ trở thành con nợ và lâm vào tình trạng phá sản. Tình trạng phá sản có thể xuất hiện bởi các yếu tố khách quan như thiên tai, địch họa , nhưng thông thường vẫn là trong quá trình kinh doanh. Lãnh đạo doanh nghiệp ở trong hoàn cảnh mất khả năng thanh toán họ sẽ sử dụng những biện pháp cần thiết để có thể thoát khỏi hoàn cảnh này như: vay vốn tín dụng, xin hoãn nợ, kệu gọi đầu tư, cắt giảm nhân sự, tái cơ cấu . nhằm cứu vãn doanh nghiệp ra khỏi tình trạng ngày một xấu. Đây là những biện pháp của chính doanh nghiệp chứ chưa được coi là thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được hiểu thông qua các dấu hiệu pháp lý chủ yếu, đó là: (i) Phải thông qua một thủ tục luật định do Tòa án tiến hành; (ii) Đối tượng áp dụng của phục hồi là những doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn; (iii) Trong quá trình tiến hành phục hồi không có sự thanh lý tài sản của con nợ; (iv) Mục đích của việc phục hồi là nhằm cứu vãn, duy trì hoạt động của doanh nghiệp và hoàn trả cho các chủ nợ. Từ những phân tích và căn cứ vào quy định của pháp luật phá sản Việt Nam, có thể đưa ra khái niệm về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như sau: Phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một thủ tục do Tòa án có thẩm quyền áp dụng trong thời hạn nhất định dưới sự giám sát của hội nghị chủ nợ, sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản và sự đồng ý của hội nghị chủ nợ, nhằm giúp doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ được phép áp dụng các biện pháp cần thiết phục hồi hoạt động kinh doanh, thanh toán được các khoản nợ đến hạn. Hết thời hạn phục hồi, nếu doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc đã thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh do hội nghị chủ nợ thông qua nhưng vẫn không thanh toán được các khoản nợ thì Tòa án mở thủ tục thanh lý tài sản [11]. 8
  12. 1.1.1.2. Đặc điểm của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Thứ nhất, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục được điều hành bởi Tòa án. Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với tư cách là một chế định trong Luật Phá sản do Nhà nước ban hành là một thủ tục chính thức. Pháp luật tất cả các quốc gia đều giống nhau khi quy định tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng các thủ tục phục hồi và đảm bảo các quyết định đó được thực hiện trên thực tế. Thứ hai, đối tượng áp dụng của thủ tục phục hồi là các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Mất khả năng thanh toán nghĩa là doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán. Thứ ba, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phải có khả năng phục hồi. Khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn là lúc doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, để đưa doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng đó, thủ tục phục hồi có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng phục hồi. Pháp luật về phá sản của hầu hết các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam đều tạo cơ hội cho con nợ thực hiện việc tổ chức lại, phục hồi kinh doanh. Tuy nhiên, đối với những con nợ chắc chắn không còn khả năng phục hồi thì pháp luật sẽ tạo điều kiện thuận lợi để việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản được thực hiện trong thời gian sớm nhất. Việc đánh giá khả năng phục hồi của doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định đến việc áp dụng thủ tục phục hồi. Trên thực tế đó là công việc rất khó khăn của những người cầm cân nảy mực. Để đánh giá một cách chính xác tình hình kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp đòi hỏi sự hiểu biết, nhạy cảm cũng như sự công tâm của các thẩm phán và sự trung thực, hợp tác của các doanh nghiệp. 9
  13. Thứ tư, không có sự phân chia tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi. Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục thanh lý tài sản. Trong thủ tục thanh lý tài sản, sau khi có quyết định thanh lý doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành phân chia tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ cho các chủ nợ tương ứng với phân quyền tài sản của họ. Trong khi đó, đối với thủ tục phục hồi, nếu nhưng phương án phục hồi được chấp nhận thì sẽ không có sự phân chia tài sản còn lại của doanh nghiệp. Thứ năm, thủ tục phục hồi doanh nghiệp chỉ được áp dụng khi có sự đồng ý của hội nghị chủ nợ. Việc áp dụng hay không áp dụng thủ tục phục hồi thuộc thẩm quyền của hội nghị chủ nợ. Tại hội nghị chủ nợ lần thứ nhất, vấn đề này được đưa ra thảo luận và quyết định. Trong trường hợp áp dụng thủ tục phục hồi với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thì việc chấp nhận phương án phục hồi của hội nghị chủ nợ sẽ là căn cứ để mở thủ tục phục hồi. Thứ sáu, hệ quả của việc thực hiện thành công phương án phục hồi là doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và trở về hoạt động bình thường. Việc áp dụng thành công mang lại nhiều ý nghĩa kinh tế, xã hội quan trọng, nó cứu vãn được một doanh nghiệp, tránh được sự chấm dứt một doanh nghiệp, đảm bảo việc làm cho người lao động. 1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Thứ nhất, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là công cụ để bảo vệ một cách hiệu quả nhất quyền và lợi ích của các chủ nợ Với một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển ở nước ta rất phong 10
  14. phú, đa dạng với nhiều loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên do sự tác động của các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu, trong nền kinh tế nước ta cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng hay quan hệ kinh tế vốn không tồn tại trong cơ chế kế hoạch hóa. Một trong những hiện tượng đó là sự phá sản của các doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp bị phá sản sẽ kéo theo những hậu quả nhất định như sự xáo trộn trong nền sản xuất, ảnh hưởng đến công ăn, việc làm của người lao động, đến lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Do đó, để đảm bảo, duy trì mối quan hệ hài hòa giữa những lợi ích nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải có một cơ chế pháp lý thống nhất và chặt chẽ. Pháp luật phá sản nói chung và thủ tục phục hồi doanh nghiệp nói riêng ra đời là bộ phận cấu thành không thể thiếu của pháp luật kinh doanh để giải quyết mối quan hệ nợ nần trong hoàn cảnh đặc biệt, khi mà doanh nghiệp lâm vào tình trạng khánh kiệt tài chính không thể phục hồi. Khi một nhà đầu tư cho các doanh nghiệp vay vốn, họ có hai phương pháp để đòi nợ: (i) Đòi nợ bằng phương pháp thông thường, thông qua việc đưa đơn kiện ra Tòa án, Trọng tài thương mại hoặc (ii) Đòi nợ bằng một cơ chế đặc biệt - thông qua thủ tục phá sản. Pháp luật phá sản với cơ chế thủ tục phá sản được biết đến như một thủ tục đòi nợ tập thể, trong đó vấn đề trọng tâm là bảo vệ và đảm bảo công bằng cho các chủ nợ. Vai trò của pháp luật phá sản nhìn từ góc độ lợi ích của chủ nợ thể hiện: Một là, pháp luật phá sản quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ với thủ tục đơn giản, thuận tiện cho các chủ nợ. Hai là, pháp luật phá sản quy định nhiều biện pháp bảo toàn tài sản của con nợ, mở rộng khả năng thu hồi nợ của các chủ nợ. Từ cổ xưa, pháp luật phá sản đã xác định việc bảo toàn tối đa tài sản của con nợ nhằm bảo vệ lợi ích tài sản của các chủ nợ như là nhiệm vụ trung tâm của thủ tục phá sản. Do đó, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tự tin hơn trong quá trình cho vay và đòi nợ. Pháp 11
  15. luật phá sản với cơ chế thủ tục phá sản được biết đến như một thủ tục đòi nợ tập thể, trong đó vấn đề trọng tâm là bảo vệ và đảm bảo công bằng cho các chủ nợ. Bản chất của thủ tục phá sản là các chủ nợ thông qua việc yêu cầu Tòa án tuyên bố con nợ bị phá sản để thu hồi vốn của mình. Cơ hội đòi nợ thông qua thủ tục phá sản càng cao thì thủ tục đó càng hấp dẫn các chủ nợ, vì vậy cho nên thủ tục phá sản nhanh chóng trở thành một công cụ hiệu quả bảo vệ lợi ích các chủ nợ, mở rộng khả năng đòi nợ của các chủ nợ. Khi một doanh nghiệp đã lâm vào hoàn cảnh khó khăn, đứng trước nguy cơ bị phá sản thì những người ảnh hưởng đầu tiên đó là các chủ nợ. Cho dù tiến hành thủ tục phá sản cũng khó có thể bảo vệ lợi ích trọn vẹn của các chủ nợ được. Vì vậy, không chỉ riêng doanh nghiệp mà các chủ nợ cũng là những người muốn tiến hành thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Thứ hai, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là nhằm giúp bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt ra vấn đề bảo vệ con nợ. Lúc đó, người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá sản là một phạm nhân, do đó, họ không những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt bằng nhiều hình thức, kể cả việc tử hình. Ngày nay, quan niệm về việc kinh doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của Nhà nước và pháp luật đối với con nợ lâm vào tình trạng phá sản cũng đã được thiết kế theo hướng tích cực, có lợi cho con nợ. Hoạt động kinh doanh là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Do sự biến động khó lường của thị trường và các yếu tố khách quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến hạn đều có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với bất kỳ nhà kinh doanh nào. Mặt khác, một doanh nghiệp bị phá sản thì có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, mà trước hết là đối với người lao động và các chủ nợ. Chính vì vậy mà ngày nay, khi các doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản thì vấn 12
  16. đề đầu tiên Nhà nước quan tâm giải quyết không phải là việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản ngay và phân chia tài sản của nó cho các chủ nợ, mà là việc phải tìm mọi cách để giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn này. Điều đó giải thích tại sao, pháp luật của đa số các nước đều quy định nhiều hình thức phục hồi khác nhau để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản lựa chọn, áp dụng. Thứ ba, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản giúp bảo vệ lợi ích của người lao động Phá sản không chỉ gây ra hậu quả xấu cho các chủ nợ, con nợ mà còn cho cả người lao động. Điều này trước hết thể hiện ở chỗ, chính vì có phá sản mà người lao động phải mất việc làm, lâm vào tình cảnh thất nghiệp. Do vậy, muốn bảo vệ người lao động, trước hết là phải làm sao để doanh nghiệp không bị phá sản. Cơ chế phục hồi doanh nghiệp được pháp luật đề ra chính là để thực hiện chủ trương này vì trên thực tế, cứu được doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản cũng chính là cứu được người lao động thoát khỏi tình trạng thất nghiệp. Nhưng mặt khác, khi người lao động làm việc mà không được trả đủ lương trong một thời gian dài thì Nhà nước cũng cần phải tạo ra một phương thức nào đó để họ có thể đòi được số tiền lương mà doanh nghiệp nợ. Để thực hiện được mục tiêu này, pháp luật phá sản phải quy định cho họ một số quyền như quyền được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền được tham gia quá trình giải quyết vụ việc phá sản, quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác mà họ được hưởng trước các khoản nợ thông thường của doanh nghiệp [7]. Thứ tư, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội Theo lẽ thường, khi mà con nợ có quá nhiều chủ nợ nhưng lại có quá ít tài sản để thanh toán nợ thì việc các chủ nợ tranh giành nhau tài sản của con nợ là điều rất có thể xảy ra. Nếu cứ để các chủ nợ “mạnh ai nấy làm”, tuỳ 13
  17. nghi “xiết nợ”, tự do tước đoạt tài sản của con nợ một cách vô tổ chức, không công bằng thì trật tự, an toàn xã hội sẽ không được bảo đảm. Vì vậy, Nhà nước nào cũng cần phải có biện pháp để can thiệp vào việc đòi nợ này nhằm tránh được các hệ quả tiêu cực như vừa nêu trên. Thủ tục phục hồi doanh nghiệp chính là một giải pháp hợp lý giúp giải quyết những vấn đề trước mắt. Thứ năm, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản góp phần làm lành mạnh hoá nền kinh tế Việc áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ góp phần tạo nên một môi trường kinh doanh lành mạnh và an toàn, tránh được những ảnh hưởng xấu, tác động dây chuyền do hậu quả của phá sản gây ra. Một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của môi trường kinh doanh sản xuất. Bởi lẽ, trong quá trình hoạt động một doanh nghiệp phải có những hoạt động liên quan đến các doanh nghiệp khác. Vì vậy, một doanh nghiệp nếu phá sản sẽ kéo theo những doanh nghiệp bạn hàng, đối tác chịu sự tác động nhất định về tài chính, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Đối với những doanh nghiệp này, việc phá sản của một doanh nghiệp có thể gây ra phản ứng dây chuyền, gây nên sự đổ vỡ của hàng loạt các doanh nghiệp hoạt động cùng loại. Điều này sẽ gây ra ảnh hưởng nặng nề đối với sự phát triển của nền kinh tế nói riêng và sự ổn định xã hội nói chung. 1.2. Phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng pháp sản theo quy định của pháp luật pháp sản 1.2.1. Ý nghĩa của điều chỉnh pháp luật đối với việc phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Mục tiêu “hướng vào con nợ” hiện nay là xu thế của luật phá sản hiện đại, nhiều nước với quan điểm rất rõ ràng, phá sản có nghĩa là “phục hồi”, chứ không theo cách nghĩ truyền thống là “thanh lý”. Tuy vậy, việc thể hiện mục tiêu này trong luật ở mức độ nào là tùy theo quan điểm lập pháp của mỗi quốc 14
  18. gia, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia đó. Hiện nay nhiều nước đang xây dựng các quy định của luật phá sản theo xu hướng này, tất nhiên vẫn có những ngoại lệ nhất định (ví dụ như Luật Phá sản của Estonia các quy định của luật thiên về thủ tục thanh lý, chủ yếu bảo vệ lợi ích cho chủ nợ, đây là một đạo Luật được đánh giá là có những thành công trong điều chỉnh các quan hệ phá sản). Ở Việt Nam, chúng ta xây dựng Luật Phá sản trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích, muốn đạt được mục tiêu này không thể không chú ý đến mục tiêu “hướng vào con nợ” và thể hiện rõ mục tiêu này trong Luật, trên cơ sở học tập kinh nghiệm và tiến bộ mà thế giới đã đạt được trong lĩnh vực này. Có thể nói, điều chỉnh pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, không một nhà doanh nghiệp chân chính nào muốn doanh nghiệp của mình đi đến bước đường cùng là phá sản. Khi bước chân vào thương trường, mỗi doanh nghiệp cũng đã lường trước những thách thức khó khăn mà nền kinh tế đặt ra cho họ và họ chấp nhận, chấp nhận cả rủi ro. Chính vì vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn, họ sẽ tìm mọi cách để cứu vãn doanh nghiệp như tái cơ cấu, cắt giảm nhân sự, kêu gọi đầu tư, gia hạn nợ Trước hoàn cảnh đó, pháp luật cũng đã đưa ra những chính sách để tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán. Liệu rằng, các chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có thực sự mong muốn doanh nghiệp đó bị phá sản hay không? - Về phía chủ nợ, khi có khoản nợ đến hạn đã yêu cầu mà không được thanh toán, theo quy định của pháp luật phá sản họ được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản để thu lại khoản nợ của doanh nghiệp mắc nợ, làm rõ mọi quá trình và phương thức kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ, giúp doanh nghiệp mắc nợ hiểu rõ được tình trạng và khả năng thực của họ để có 15
  19. những có những biện pháp hữu hiệu, tổng thể hơn để phục hồi buộc tất cả các chủ nợ cùng chung sức giúp doanh nghiệp thoát được cảnh mất khả năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp phá sản, chủ nợ sẽ lấy được quyền và lợi ích của mình từ doanh nghiệp mắc nợ, nhưng quyền và lợi ích đó không được vẹn toàn. Nếu doanh nghiệp phục hồi thành công chủ nợ sẽ được đảm bảo lợi ích nhiều hơn. - Về phía con nợ, quá trình kinh doanh gây ra thua lỗ kéo dài, mặc dù đã áp dụng những biện pháp như hoãn nợ, thay đổi cơ cấu, nhất là thương lượng với các chủ nợ nhưng không nhận được sự nhất trí từ phía các chủ nợ. Họ muốn thông qua Tòa án, nhờ sự can thiệp của pháp luật tạo cho họ một diễn đàn tin tưởng, có thể tìm được tiếng nói chung giữa chủ nợ và các doanh nghiệp mắc nợ. - Về phía người lao động, không ai đang làm việc mà muốn bị mất việc do doanh nghiệp phá sản. Họ cũng vì lợi ích của bản thân nên họ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với mong muốn là được trả lương, muốn biết tình hình thực của nơi họ đang làm việc. Không phải tất cả doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đều không còn cách cứu vãn và không thể hồi sinh. Kinh doanh thua lỗ có nhiều nguyên nhân, có thể do năng lực quản lý còn yếu kém, tổ chức doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, dây chuyền sản xuất không đáp ứng yêu cầu, thiên tai, lũ lụt, hay do thay đổi chính sách của quốc gia. Cứu doanh nghiệp không chỉ là cứu lãnh đạo doanh nghiệp mà còn cứu cả người lao động, cả chủ nợ và cả nền kinh tế. Việc áp dụng thành công thủ tục phục hồi mang lại nhiều ý nghĩa kinh tế, xã hội quan trọng. Nó có thể cứu vãn được một doanh nghiệp, tránh được thủ tục xóa sổ một doanh nghiệp. Áp dụng thành công thủ tục phục hồi có nghĩa là doanh nghiệp đang mất khả năng thanh toán sẽ trở lại hoạt động bình thường. Chính vì thế, ý nghĩa của việc điều chỉnh pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là vô cùng cần thiết và quan trọng. 16