Luận văn Phòng ngừa tội phạm hối lộ ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

pdf 113 trang vuhoa 25/08/2022 10480
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phòng ngừa tội phạm hối lộ ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phong_ngua_toi_pham_hoi_lo_o_viet_nam_thuc_trang_va.pdf

Nội dung text: Luận văn Phòng ngừa tội phạm hối lộ ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN TÙNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM HỐI LỘ Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2005
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN TÙNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM HỐI LỘ Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ: 5.05.14 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS, TS. ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2005
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM HỐI LỘ 1.1 Nhận thức chung về tội phạm hối lộ 5 1.1.1 Khái niệm tội phạm hối lộ 5 1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm hối lộ 7 1.1.3 Sơ lược về lịch sử phát triển của pháp luật tội phạm hối 11 lộ 1.2 Nhận thức chung về phòng ngừa tội phạm hối 16 lộ 1.2.1 Khái niệm phòng ngừa tội phạm hối lộ 16 1.2.2 Các biện pháp phòng ngừa tội phạm hối lộ 18 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TỔ CHỨC PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM HỐI LỘ Ở VIỆT NAM 2.1 Tình hình tội phạm hối lộ ở nước ta từ năm 1999 đến năm 2004. 29 2.1.1 Số liệu tình hình tội phạm hối lộ 29 2.1.2 Một số đặc điểm nhân thân của người phạm tội hối 45 lộ 2.1.3 Số liệu về cơ cấu, biến động và những đặc điểm khác của tội phạm hối lộ 47
  4. 2.1.4 Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hối lộ 54 2.2 Tình hình tổ chức phòng ngừa tội phạm hối lộ 62 2.2.1 Những kết quả đạt được trong tổ chức phòng ngừa tội phạm hối lộ 62 2.2.2 Những tồn tại thiếu sót trong tổ chức phòng ngừa tội phạm hối lộ 64 2.2.3 Nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót trong tổ chức phòng ngừa tội phạm hối 67 lộ CHƯƠNG III NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM HỐI LỘ Ở VIỆT NAM 3.1 Dự báo tình hình tội phạm hối lộ đến năm 2010 77 3.1.1 Cơ sở của dự báo tình hình tội phạm hối lộ 77 3.1.2 Dự báo tình hình tội phạm hối lộ đến năm 2010 78 3.2 Nâng cao hiệu quả tổ chức các biện pháp phòng ngừa tội phạm hối lộ 79 3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng ngừa hối lộ 79 3.2.2 Cải cách hành chính bộ máy nhà nước 83 3.2.3 Các biện pháp quản lý cán bộ, công chức 88 3.2.4 Các biện pháp quản lý thu nhập, kê khai tài sản của cán bộ, công chức 93 3.2.5 Tăng cường hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật 94 3.2.6 Các biện pháp giám sát, giáo dục 97 KẾT LUẬN 100
  5. TÀI KIỆU THAM KHẢO 102
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, đời sống của người dân được nâng cao; tình hình chính trị - xã hội được ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố; quan hệ đối ngoại phát triển mạnh mẽ; phá được thế bao vậy, cô lập; mở rộng hợp tác và tham gia tích cực vào các hoạt động quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, trong xã hội cũng đã và đang phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Tệ nạn xã hội ngày một gia tăng dưới mọi hình thức. Tình hình các loại tội phạm rất phức tạp xảy ra trong các lĩnh vực, nhất là tội phạm tham nhũng đang gây sự bất bình trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước: " Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta ". [1]. Trong các tội phạm tham nhũng, tội phạm hối lộ được coi là nguy hiểm nhất. Tính nguy hiểm của nó được thể hiện ở chỗ, các tội phạm này đang phá hoại sự hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước, làm cho mọi đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước không thể vận dụng đúng đắn vào cuộc sống. Thực tế đã chỉ ra rằng, bộ máy nhà nước có vững mạnh, trong sạch thì mới bảo đảm được hiệu lực quản lý nhà nước. Điều này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, công chức không chỉ có đủ năng lực, trình độ, mà còn phải có phẩm chất đạo đức. Hiệu lực và chất lượng công tác của bộ máy nhà nước, suy cho cùng phần lớn phụ thuộc vào hoạt động và chất lượng công tác của cán bộ, công viên chức trong bộ máy nhà nước. Tăng cường hiệu lực nhà nước không thể tách rời việc nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất và đạo đức cách mạng của người cán bộ và khắc phục những hiện
  7. tượng người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm pháp luật. Phần lớn các cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước trung thực, tận tuỵ làm việc vì nước, vì dân không nề hà khó khăn gian khổ, nêu cao đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số người thoái hoá, biến chất, lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhũng nhiễu đòi hối lộ, nhận hối lộ, làm tổn thương uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Ở nước ta, trong mấy chục năm qua, nạn hối lộ vẫn tồn tại như một hiện tượng xã hội và đang phát triển rất nghiêm trọng, gây tác hại lớn đến hoạt động của bộ máy nhà nước. Do vậy, đấu tranh với tội phạm hối lộ là một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh chống tham nhũng nhằm góp phần khôi phục trật tự, kỷ cương đất nước, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, làm lành mạnh các quan hệ xã hội và củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Phòng ngừa tội phạm hối lộ ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp" hiện nay ở nước ta là cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu Từ trước đến nay trong các sách, báo và tạp chí nghiên cứu đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm hối lộ như: "Tìm hiểu pháp lệnh trừng trị tội nhận hối lộ" (Trần Kiêm Lý và Đặng Văn Doãn, NXB pháp lý HN 1982); "Vấn đề nhận quà tạ ơn và tội nhận hối lộ"(Võ Quang Nhạn, tập san Toà án Nhân dân, số 1 - 1986); "Một số ý kiến về tội nhận hối lộ" (Võ Khánh Vinh, Tập san Toà án Nhân dân, số 4 - 1986); "Về dấu hiệu định khung tăng nặng của các tội: Nhận hối lộ, đưa hối lộ và làm môi giới hối lộ"(Võ Khánh Vinh, Tập san Toà án Nhân dân, số 5 - 1986); " Một số ý kiến về tội đưa hối lộ"( Võ khánh Vinh, Tập san Toà án Nhân dân, số 1 - 1987); " Một số đặc điểm tội phạm học của các tội hối lộ"( Võ khánh Vinh Tạp chí Pháp chế XHCN, Số 7 + 8 - 1991); " Đấu tranh chống và phòng 2
  8. ngừa tội tham ô, cố ý làm trái và hối lộ trong cơ chế thị trường"(Bùi Hữu Hùng và Trần Phàn, NXB - Chính trị Quốc gia, HN 1993); "Vì sao tội tham ô, cố ý làm trái và nhận hối lộ ít được phát hiện xử lý" (Trần Phàn, Tạp chí Kiểm sát, số 6 - 1991); " Tội phạm hối lộ và một số biện pháp phòng ngừa xã hội" (Nguyễn Xuân Yêm và Đoàn Kỉnh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4 - 1995); "Đấu tranh chống và phòng ngừa tội tham ô, cố ý làm trái và hối lộ trong cơ chế thị trường" (Viện kiểm Sát nhân dân tối cao, Viện nghiên cứu khoa học; NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội 1993) và nhiều tác giả khác. Các công trình nghiên cứu được công bố đã đề cập được những vấn đề cơ bản về tội phạm hối lộ. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu, cập nhật được tình hình tội phạm hối lộ hiện nay và các biện pháp phòng ngừa tội phạm này. Trên cơ sở tiếp thu và phát triển những kết quả của các công trình đã nghiên cứu, luận văn này tiếp tục làm rõ hơn các yêu cầu phòng ngừa tội phạm hối lộ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là đánh giá một cách khái quát thực trạng, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hối lộ ở nước ta trong thời gian qua, phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội phạm và từ đó xác định kiến giải các biện pháp phòng ngừa tội phạm hối lộ. Nhiệm vụ của luận văn là phải làm rõ các cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của công tác phòng ngừa tội phạm hối lộ trên cơ sở phân tích, tổng kết và đánh giá tình hình hối lộ và tội phạm hối lộ ở nước ta từ năm 1999 đến 2004; rút ra những mặt mạnh cũng như mặt còn hạn chế, tồn tại trong tổ chức hoạt động phòng ngừa để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm này trong thực tế ở nước ta hiện nay. 4. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là tội phạm hối lộ và hoạt động phòng ngừa tội phạm hối lộ của các cơ quan chức năng. 3
  9. Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng và nguyên nhân của tội phạm hối lộ; kết hợp các phương pháp nghiên cứu hệ thống, so sánh, thống kê nhằm làm rõ các yêu cầu trong tổ chức hoạt động phòng ngừa tội phạm hối lộ những năm vừa qua và yêu cầu đặt ra hiện nay ở nước ta. 5. Điểm mới của luận văn Khái quát và phân tích có hệ thống các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội phạm hối lộ. Nghiên cứu làm rõ thực trạng, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm hối lộ ở nước ta từ năm 1999 đến 2004, qua đó nêu ra một hệ thống đồng bộ các giải pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm hối lộ. Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được tham khảo và vận dụng vào việc xây dựng các biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm hối lộ. Đồng thời, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên đề các tội phạm về tham nhũng. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn có cấu trúc chính gồm 3 chương 6 mục. Cụ thể: Chương I: Nhận thức chung về phòng ngừa tội phạm hối lộ; Chương II: Thực trạng tình hình tổ chức phòng ngừa tội phạm hối lộ ở Việt Nam; Chương III: Nâng cao hiệu quả tổ chức phòng ngừa tội phạm hối lộ ở Việt Nam; 4
  10. CHƢƠNG I NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM HỐI LỘ 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI PHẠM HỐI LỘ. 1.1.1. Khái niệm tội phạm hối lộ. Điều 15 công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng quy định: hành vi hối lộ là hứa hẹn, tặng hay cho, trực tiếp hay gián tiếp, công chức bất kỳ một lợi ích bất chính cho bản thân công chức ấy hay cho một người hoặc một tổ chức khác, để công chức này làm hoặc không làm một việc trong quá trình thi hành công vụ; còn hành vi nhận hối lộ là hành vi của công chức, trực tiếp hay gián tiếp, đòi hoặc nhận một lợi ích bất chính cho chính bản thân công chức hay cho người hoặc tổ chức khác, để công chức làm hoặc không làm một việc trong quá trình thi hành công vụ. [11] Trong các sách báo và các quy định của pháp luật hình sự cũng như thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử thì khái niệm "hối lộ" được sử dụng khá phổ biến. Theo quan điểm chung, "hối lộ" được hiểu như một tệ nạn, một loại hiện tượng tiêu cực trong xã hội, một tàn dư do chế độ cũ để lại. Theo từ điển tiếng Việt 2003 thì, hối lộ là đưa tiền của cho người có quyền hành để nhờ làm việc có lợi cho mình, bằng hành vi lạm dụng chức vụ hoặc làm sai pháp luật. Ví dụ: Can tội hối lộ, mua chuộc cán bộ ăn hối lộ ( nhận tiền của hối lộ). [49,tr.459]. Dưới giác độ pháp lý hình sự, khái niệm hối lộ được hiểu ở hai nghĩa: theo nghĩa hẹp, hối lộ là tội nhận hối lộ tức là tội phạm được quy định trong điều 279 BLHS 1999; còn theo nghĩa rộng, hối lộ được hiểu gồm 03 cấu thành tội phạm được quy định tại 03 điều luật độc lập trong BLHS 1999 gồm tội nhận hối lộ (Điều 279), tội đưa hối lộ (Điều 289), tội làm môi giới hối lộ 5
  11. (Điều 290). Về vấn đề này trong lý luận và thực tiễn có những cách hiểu khác nhau: Có người dùng khái niệm tội hối lộ và cho rằng tội hối lộ gồm ba hành vi đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ và nhận hối lộ. Theo quan điểm này, ba hành vi trên không được coi là những tội phạm độc lập mà là những hình thức phạm tội của một tội phạm phức hợp (tội hối lộ). Quan điểm này dựa trên quy định tại điều 1 "tội hối lộ bao gồm: Nhận hối lộ, đưa hối lộ và môi giới hối lộ" của Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ ban hành ngày 20 tháng 05 năm 1981. Chúng tôi thấy quan điểm này không phù hợp cả về lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, không có cấu thành tội hối lộ; về mặt thực tiễn trong điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng không định tội danh là tội hối lộ mà định tội danh là tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ. Như vậy phải hiểu tội phạm hối lộ gồm 03 tội độc lập: tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ mới đúng bản chất của nó, mới có cơ sở lý luận và phù hợp với pháp luật hình sự hiện hành của Nhà nước. Tuy nhiên, giữa các tội phạm này có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau. Nhận hối lộ, đưa hối lộ, làm mối giới hối lộ là những tội phạm mà việc thực hiện chúng phải có tối thiểu hai người với tư cách là những chủ thể độc lập, người nhận hối lộ, người đưa hối lộ và người làm môi giới (trong trường hợp có môi giới). Nhưng mỗi tội phạm trên vẫn có tính chất độc lập thể hiện ở chỗ mỗi loại hành vi phạm tội đều có những đặc điểm, dấu hiệu khác nhau, nội dung ý định của những người thực hiện hành vi đó, chủ thể thực hiện, mức hình phạt quy định khác nhau và chính sách xét xử đối với từng tội phạm cũng có sự phân biệt. Trong tội phạm hối lộ thì tội đưa hối lộ và tội làm môi giới không phải là những tội phạm về chức vụ theo đúng nghĩa của nó, vì chủ thể của tội phạm này có thể là người có chức vụ, quyền hạn hoặc bất kỳ người nào. các tội phạm này được xếp vào chương các tội phạm về chức vụ bởi lẽ các hành vi phạm tội của chủ thể có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với hành vi nhận hối lộ của người có chức vụ, quyền hạn. Mặt khác những hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ đều xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. 6
  12. Chúng tôi cho rằng, cần hiểu khái niệm "hối lộ" theo nghĩa rộng mới thấy được mối tương quan giữa những các hành vi phạm tội bao gồm nhận hối lộ, làm môi giới hối lộ và đưa hối lộ. Điều này giúp chúng ta hiểu được bản chất, đặc điểm của từng hành vi phạm tội để không chỉ giúp cho việc định tội và áp dụng hình phạt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mà còn đặt ra các yêu cầu của công tác phòng ngừa các tội phạm này trong thực tế. Từ sự phân tích các quan điểm trên, có thể hiểu tội phạm hối lộ (gồm ba tội độc lập: tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ; và tội làm môi giới hối lộ) là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do những người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm vào hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm hối lộ. a. Dấu hiệu về khách thể của tội phạm. Khách thể của tội phạm hối lộ là sự xâm phạm vào những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ tạo nên nội dung hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị tội phạm hối lộ xâm hại ở đây chính là hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Trong bất kỳ quốc gia nào, hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước đều chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Nhà nước có đạt được mục tiêu đặt ra trong phát triển kinh tế - xã hội và công bằng xã hội hay không đều phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Nếu bộ máy nhà nước hoạt động đúng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật sẽ là tiền đề đầu tiên thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Đây chính là sự hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước. Ngược lại, nếu bộ máy nhà nước hoạt động không theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật sẽ từng bước phá hoại trật tự, kỷ cương đất nước, cản trở sự phát triển của đất nước và hậu quả của nó có thể làm tan rã cả bộ máy nhà nước, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Không phải ngẫu nhiên, khi đánh giá về tình hình hoạt động 7
  13. của bộ máy nhà nước hiện nay, Đảng ta đã nhận định, bộ máy nhà nước có không ít khuyết điểm và những vấn đề tồn tại khiến mọi người đang băn khoăn, lo lắng, nhất là tình trạng tham ô, hối lộ, lãng phí, quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, ức hiếp nhân dân. Tình trạng này trong những năm qua không những chưa bị ngăn chặn, giảm bớt mà ngược lại đang trở lên trầm trọng hơn, gây bất bình trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân, làm nản lòng các nhà đầu tư, kinh doanh muốn làm ăn hợp pháp và chính đáng, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Vì vậy, nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước hiện nay là kỷ luật, pháp luật, trật tự, kỷ cương phải được thiết lập nghiêm ngặt trong toàn xã hội, trước hết trong bộ máy nhà nước, đảng, đoàn thể, trong chính ngay các cơ quan pháp luật [15,tr.8-10]. Do vậy, bảo vệ sự hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước là rất quan trọng. Theo Hiến pháp 1992, các cơ quan nhà nước được chia thành 04 hệ thống cơ quan là: Cơ quan quyền lực (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp); cơ quan chấp hành, hành chính (Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp); cơ quan xét xử (Toà án nhân dân, toà án quân sự); cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân, viện kiểm sát quân sự). Các cơ quan nhà nước được thành lập theo quy định của pháp luật. Mỗi cơ quan nhà nước thực hiện một nhiệm vụ, chức năng của nhà nước, được Nhà nước quy định trong lĩnh vực hoạt động riêng biệt với quyền hạn và trách nhiệm nhất định. Không một cơ quan, tổ chức nào được phép hoạt động vượt ra ngoài phạm vi mà nhà nước quy định. Hoạt động đúng đắn của mỗi cơ quan Nhà nước nói riêng và tất cả các cơ quan nhà nước nói chung, tạo nên sự hoạt động thống nhất của bộ máy nhà nước. Trong bộ máy nhà nước, việc thực hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của người này là điều kiện, cơ sở, tiền đề cho hoạt động của người khác. Tức là trong công tác giữa cán bộ, nhân viên nhà nước có mối quan hệ tác động biện chứng, qua lại, phụ thuộc nhau. Muốn bộ máy hoạt động tốt thì mỗi bộ phận, mỗi người trong bộ máy đó phải làm đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình. Nếu mỗi người mỗi bộ phận đó làm không đúng chức năng, 8
  14. nhiệm vụ theo quyền hạn mà mình được giao sẽ dẫn tới bộ máy Nhà nước hoạt động suy yếu, lệch lạc. Ở nước ta, các tổ chức, đặc biệt là tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội như mặt trận tổ quốc, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, tổng liên đoàn lao động có vai trò và ảnh hưởng rất to lớn đến đời sống chính trị, xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu của các tổ chức xã hội là đoàn kết toàn dân, tổ chức giáo dục, động viên các thành viên thuộc tổ chức mình thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các tổ chức xã hội cũng là nơi mà nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình. Thông qua các tổ chức xã hội mới có sự liên hệ chặt chẽ giữa bộ máy nhà nước với nhân dân. Tổ chức xã hội tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội khi được nhà nước uỷ quyền. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình, những người lãnh đạo, các thành viên của các tổ chức xã hội cũng được Nhà nước giao cho những chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ nhất định như chức năng tổ chức điều hành, chức năng giám sát , và các tổ chức này cũng có bộ máy quản lý điều hành riêng. Khi những người cán bộ, nhân viên này mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ để làm hay không làm một việc đều ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của tổ chức xã hội đó. Do vậy, hoạt động đúng đắn của các tổ chức xã hội cũng là đối tượng để luật hình sự bảo vệ và là khách thể của tội phạm hối lộ khi hoạt động này bị xâm phạm. Tóm lại, khách thể của tội phạm hối lộ là sự xâm phạm vào những quan hệ xã hội tạo thành nội dung hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, b. Dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm hối lộ khi có một trong ba loại hành vi liên quan đến tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ và tội làm môi giới hối lộ. Hành vi nhận hối lộ thể hiện bằng cách lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhận trực tiếp hoặc qua trung gian tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ 500.000 đồng trở lên để làm hoặc không làm 9
  15. một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Trong trường hợp tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị dưới 500.000 đồng thì vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi, hoặc gây hậu quả nghiêm trọng; hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; hoặc đã bị kết án về một trong các tội phạm về tham nhũng được quy định tại Mục A, Chương XXI BLHS, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Như vậy, hành vi phạm tội ở đây có thể bằng hành động hoặc không hành động, nhưng nó gắn chặt với người có chức vụ, quyền hạn, chỉ do người có chức vụ quyền hạn thực hiện trong khi thực hiện công vụ. Dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành các tội nhận hối lộ. Người có chức vụ, quyền hạn có thể trực tiếp lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có để phạm tội như lợi dụng địa vị công tác. Hành vi phạm tội có thể bằng hành động hoặc không hành động. Bằng không hành động là cách xử sự "tiêu cực" của người có chức vụ quyền hạn. Họ không thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được giao, không làm một việc phải làm hay làm không đầy đủ công việc được giao theo yêu cầu của người đưa hối lộ đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để xác định hành vi phạm tội bằng không hành động của người có chức vụ, quyền hạn cần xác định người có chức vụ, quyền hạn đó buộc phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà lại không thực hiện khi có đủ điều kiện, khả năng thực tế để thực hiện. Hành vi phạm tội bằng hành động là động tác xảy ra một lần hoặc do nhiều động tác hợp thành trái với những quy định của pháp luật về hoạt động, công tác cũng như thẩm quyền mà người có chức vụ, quyền hạn được giao. Hành vi phạm tội của những người có chức vụ, quyền hạn là trái với công vụ mà họ được giao. Công vụ tức là công việc phục vụ, quản lý, điều hành đất nước, phục vụ lợi ích công cộng, phục vụ nhà nước, xã hội nhân dân do cán bộ, công chức nhà nước thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Hành vi trái công vụ là việc người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi xâm 10
  16. phạm hay cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Những hành vi đó vi phạm các nguyên tắc và hình thức hoạt động của bộ máy nhà nước, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hành vi đưa hối lộ là đưa trực tiếp hoặc qua trung gian tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ 500.000 đồng trở lên và yêu cầu người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích của mình. Hành vi môi giới hối lộ là hình vi có tính chất trung gian cho bên đưa hối lộ và bên nhận hối lộ với giá trị của hối lộ từ 500.000 đồng trở lên hoặc giá trị của hối lộ dưới 500.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần (từ hai lần trở lên); Hành vi trung gian được thể hiện như: giới thiệu cho hai bên gặp nhau, chuyển của hối lộ từ bên đưa hối lộ cho bên nhận hối lộ, hoặc chuyển yêu cầu giữa các bên với nhau. c. Dấu hiệu về chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội nhận hối lộ, ngoài các dấu hiệu chung như đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực pháp luật hình sự, họ còn là người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, tổ chức xã hội. Người có chức vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 277 BLHS, là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Người có chức vụ có hai đặc điểm cơ bản, thứ nhất, được giao thực hiện một công vụ nhất định; thứ hai, có quyền hạn nhất định trong khi thi hành công vụ được giao đó. Chủ thể của tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ là chủ thể chung bao gồm bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. d. Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm. Tội phạm hối lộ bao gồm các tội nhận hối lộ, đưa hối lộ và tội làm môi giới hối lộ đều được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, động cơ vụ lợi. Khi thực 11
  17. hiện tội phạm, người phạm tội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội trong hành vi của mình. 1.1.3. Sơ lƣợc về lịch sử phát triển của pháp luật tội phạm hối lộ Qua các tư liệu của các triều đại Phong kiến để lại cho thấy tham nhũng nói chung và hối lộ nói riêng là một tệ nạn tương đối phổ biến trong thời kỳ này thể hiện bằng các hình thức như: quan lại nhận tiền, của hối lộ; quan lại bắt lính, dân làm việc cho bản thân; quan lại gây phiền nhiễu và chậm trễ trong các công việc giải quyết đơn từ, án kiện của dân để đòi tiền của. Để phòng ngừa tội phạm hối lộ và xử lý các hành vi hối lộ, các triều đại phong kiến đã ban hành nhiều luật lệ, chiếu chỉ và quy định cụ thể trong văn bản pháp luật. Điển hình là trong Bộ luật Hồng Đức thời Lê có gần 30 điều khoản quy định chế tài áp dụng cho các hành vi tham nhũng, hối lộ. Ví dụ như: Điều 138: " Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan thì xử tội biếm (giáng chức) hay bãi chức, từ 10 quan đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu, từ 20 quan trở lên thì xử tội chém. Những bậc công thần, quý thần, cũng như những người có tài mà được dự vào hàng bát nghị mà ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan thì bị xử phạt tiền 50 quan, từ 10 quan đến 19 quan thì phạt tiền từ 60 đến 100 quan; từ 20 quan trở lên thì bị xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho". Điều 140 quy định: "Những người đưa hối lộ mà xét ra việc của họ trái lẽ thì theo việc của họ mà định tội. Người không phải việc mình mà đi hối lộ thay người khác thì xử tội nhẹ hơn người ăn hối lộ 2 bậc. Những người thuộc hạ mà xúc xiểm quan trên thì cũng bị xử tội như thế. Của hối lộ phải được nộp vào kho". Điều 120 quy định: Viên quan sai đi công cán về tấu trình không đúng sự thực thì hạ chức hoặc lao dịch. Nếu có ăn tiền hối lộ thì hạ thêm hai bậc. Tương tự như thế, trong Hoàng việt luật lệ thời Nguyễn có 17 quy định riêng về luật hình đối với tội nhận hối lộ và gần 20 điều khoản quy định cụ thể về vấn đề này. Qua các quy định của pháp luật phong kiến về hối lộ cho thấy: Trong giai đoạn phong kiến, ông cha ta đã có thái độ, hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi hối lộ. Bộ máy hành chính quan lại của các triều đình phong kiến 12
  18. có những biện pháp, quy chế chặt chẽ để giám sát hành vi và kiểm tra năng lực của đội ngũ quan lại. Trong hoạt động của bộ máy hành chính có các cuộc khảo thí thường lệ, kiểm tra thái độ của quan lại hay lệ hồi ty. Theo lệ hồi ty, bộ máy quan lại, viên chức đứng đầu một địa hạt không được phép trị nhậm tại quê hương mình, không được lấy vợ là người sở tại, không được mua bất động sản trên địa hạt mà mình quản lý Việc quy định lệ hồi ty sẽ làm các viên quan tránh được, bị ngăn chặn những khả năng nảy sinh hành vi làm trái với chức trách, lợi dụng quyền hạn để trục lợi. Nhà nước phong kiến cũng quy định chế độ lương bổng theo các định lệ (phép quân điền, chia ruộng đất, phong điền ấp ), đảm bảo cho quan lại khi đương chức cũng như khi hưu trí một số đặc quyền, đặc lợi để họ yên tâm thực thi chức trách được giao như mức lương của một quan nhị phẩm hàng năm là khoảng 3 tấn thóc và các bổng lộc được cấp phát (nhu yếu phẩm, tiền thưởng) bảo đảm mức sống sung túc cho quan lại. Ngoài ra các quan lại còn được cấp một khoản tiền gọi là tiền " Dưỡng liêm" để giúp họ giữ được sự thanh liêm của mình trước sự cám dỗ của đồng tiền do tệ hối lộ mang lại. Sau cách mạng tháng Tám thành công (1945), hối lộ là một tệ nạn nguy hiểm trực tiếp gây tác hại cho hoạt động đúng đắn của Bộ máy chính quyền nhà nước, tổ chức xã hội, đến công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đấu tranh với tệ nạn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm chăm lo, giáo dục cán bộ chính quyền cách mạng về đạo đức: "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", làm cho cán bộ trở thành "người đầy tớ trung thành của nhân dân". Bác đã dạy cán bộ, đảng viên: "tr- ước hết là cán bộ các cơ quan, đoàn thể, cấp cao thì quyền lực to, cấp thấp thì có quyền lực nhỏ, dù to hay nhỏ có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công dinh tư". Vì vậy cán bộ phải thực hiện chữ liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân". Mặt khác để bảo đảm "chống quan liêu, tham nhũng, hối lộ" có hiệu quả, chỉ hơn 1 năm sau ngày chính quyền cách mạng được thành lập, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh số 223/SL ngày 27 tháng 11 năm 1946 trừng trị các tội đưa hối lộ cho công chức, 13
  19. tội công chức nhận hối lộ. Mặc dù còn sơ khai nhưng sắc lệnh này trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp đã đáp ứng được yêu cầu của chính quyền Cách mạng và thể hiện tinh thần, thái độ, chính sách hình sự nghiêm khắc của Nhà nước ta đối với tệ hối lộ. Sắc lệnh của Chủ tịch nước số 13 ngày 24 tháng 01 năm 1946 quy định về việc tuyên thệ khi nhậm chức của phụ thẩm: "Tôi thề trước Công lý và nhân dân rằng tôi sẽ suy xét cẩn thận những án đem ra xử, không hề ăn hối lộ, vị nể, vì sợ hãi, vì tư lợi hay thù oán riêng mà bênh vực hay làm hại một bị can nào ". Ngoài ra trong một số văn bản của chính quyền cách mạng cũng thể hiện tinh thần kiên quyết đấu tranh chống hối lộ của Đảng và nhà nước như nghị quyết ngày 14 tháng 9 năm 1957 của Quốc hội Chuẩn Y sắc luật số 004-SLT ngày 20 tháng 7 năm 1957 quy định: Những người dùng bạo lực, hối lộ hoặc một thủ đoạn khác để phá hoại bầu cử, hoặc cản trở công dân tự do sử dụng quyền bầu cử và ứng cử của mình có thể tuỳ theo tội nhẹ hay là nặng bị phạt tù từ một tháng đến ba năm; Sau khi đất nước thống nhất (1975), lần đầu tiên vấn đề hối lộ đã được quy định trong luật hiến pháp năm 1980 - một đạo luật gốc, cơ bản, quan trọng nhất trong hệ thống các văn bản pháp luật: "Mọi hoạt động đầu cơ, tích trữ, kinh doanh bất hợp pháp, làm rối loại thị trường, phá hoại kế hoạch Nhà nước, tham ô, trộm cắp, hối lộ hoặc lãng phí, vô trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân đều bị pháp luật nghiêm trị". (Điều 35 Hiến pháp năm 1980). Thể chế hoá quy định của Hiến pháp, Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ ban hành ngày 20 tháng 05 năm 1981 quy định cụ thể hơn Sắc lệnh số 223 và có thể coi đây là bước phát triển đáng kể của pháp luật hình sự trong lĩnh vực này. Pháp lệnh đã góp phần bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách và pháp luật, tăng cường quản lý Nhà nước; khuyến khích cán bộ, nhân viên nêu cao đức tính liêm khiết; động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ tập thể, tích cực đấu tranh chống tệ hối lộ. Pháp lệnh này đã quy định tương đối rõ các hành vi đưa, nhận, môi giới hối lộ, hình phạt áp dụng cũng như đường lối xử lí loại tội phạm này góp phần trừng trị kịp thời tội phạm hối lộ. Ngoài ra có các văn bản dưới luật quy định 14